Chương 20
Bây giờ là lúc ánh sáng màu đồng đỏ cuối buổi chiều đang tàn dần; bây giờ là lúc con đường phía bên ngoài những cây phong lùn và tấm biển thấp, thì trống vắng và sẵn sàng đón nhận bóng đêm, và trông như một cái sân khấu do được nhìn từ khung cửa sổ phòng làm việc.
Ông còn nhớ lại, vào thời trẻ, sau khi rời trường dòng đến Jefferson lần đầu tiên, ông có cảm tưởng hầu như nghe được dòng ánh sáng màu đồng đỏ đang tắt dần ngoài kia, tựa như nghe hồi kèn vàng của những cây trompet đang lịm [134] vào trong một quãng lặng, nằm chờ đó một lát rồi mới xuất hiện trở lại. Thậm chí trước khi tiếng kèn ngoắc ngoải đó tắt hẳn, ông dường như đã nghe được tiếng sấm bắt đầu gầm gừ, hầu như không to hơn một lời thầm thì hay một lời đồn đang lan truyền.
Nhưng ông đã chưa bao giờ nói với ai điều này. Ngay cả với nàng ông cũng không nói. Ngay cả với nàng, vào giai đoạn mà hai người còn là những người tình của đêm tối, và nỗi nhục nhã và sự bất hòa lúc đó đã chưa xuất hiện, và nàng biết, vì lẽ nàng đã không quên sự bất hòa cùng với nỗi hối tiếc, rồi cũng không quên niềm tuyệt vọng đến sau đó. Ông đã không bao giờ nói ra tại sao ông đến ngồi đây, bên cửa sổ này, và chờ đợi hoàng hôn, chờ đợi cái khoảnh khắc màn đêm buông xuống. Không nói ngay cả với nàng, một người đàn bà. Người đàn bà duy nhất. Đàn bà (chứ không phải trường dòng, như trước kia ông đã tin): cái Thụ động và Vô danh mà Chúa Trời đã tạo ra để không những là người nhận và chỗ chứa tinh dịch của thân xác ông mà còn là người nhận và nơi tích trữ tinh thần ông, tinh thần này là sự thật hay cận kề sự thật, cận kề tới đâu là tùy ông dám đến gần nó tới mức nào.
Ông là con một. Khi ông sinh ra thì bố ông đã năm mươi tuổi, và mẹ ông thì bệnh tật gần hai mươi năm. Ông lớn lên, lúc nào cũng tin rằng chuyện này là do đồ ăn mà bà đã phải nuốt để sống còn trong năm cuối cùng của cuộc Nội chiến. Có lẽ đây là lý do. Bố ông không sở hữu nô lệ, tuy ông ấy là con của một người đã thực sự sở hữu nô lệ vào thời đó. Tất nhiên, bố ông hẳn đã có thể sở hữu chúng. Nhưng, mặc dù sinh ra, nuôi dưỡng và sống vào cái thời và ở một miền đất mà sự sở hữu nô lệ thì ít tốn kém hơn là không sở hữu chúng, bố ông không muốn ăn cái gì mà một nô lệ da đen trồng hay nấu, cũng không muốn ngủ trong cái giường mà nó sửa soạn cho ông. Vì vậy, trong thời kỳ chiến tranh và trong lúc bố ông không có nhà, mẹ ông chỉ trồng được những gì bà có thể trồng hay với sự giúp đỡ không thường xuyên của những người hàng xóm. Và sự giúp đỡ này, bố ông không cho phép bà nhận, với cái cớ là ông ấy không thể đền đáp giống y vậy. “Chúa sẽ chu cấp cho,” bố ông nói.
“Chu cấp cái gì? Mấy thứ cỏ dại [135] ăn được ấy à?”
“Trong trường hợp này Ngài sẽ cho chúng ta bộ ruột thích hợp để tiêu hóa chúng.”
Bố ông là một mục sư. Trong suốt một năm, vào mỗi sáng chủ nhật, bố ông rời nhà rất sớm mà ông nội ông (đây là trước khi bố ông lấy vợ) không phát hiện ra bố ông đi đâu. Dù là một thành viên được quý trọng trong giáo hội Tân giáo [136] , ông nội ông đã không bao giờ đặt chân vào một nhà thờ nào, theo những gì mà bố ông còn nhớ được. Rồi ông cụ phát hiện ra đứa con trai mình, lúc đó mới vừa hai mươi mốt tuổi, cưỡi ngựa suốt mười sáu dặm mỗi chủ nhật để giảng đạo ở một ngôi nhà thờ nhỏ thuộc giáo hội Trưởng lão trong vùng đồi núi. Ông cụ bật cười hề hà. Người con trai nghe tiếng cười này như nghe một tràng chửi rủa vuốt mặt không kịp: im lặng không nói một lời, chỉ lộ ra vẻ dửng dưng lạnh nhạt nhưng tôn kính. Ngày chủ nhật tiếp đó, bố ông vẫn quay lại với các con chiên của mình.
Khi chiến tranh bùng nổ, bố ông không phải là một trong những người đầu tiên lên đường nhập ngũ, và cũng không phải là một trong những người cuối cùng. Bố ông ở trong quân đội bốn năm, dù không hề bắn một phát súng hỏa mai nào, lại không mặc quân phục nhưng mặc cái áo vét có đuôi dài màu đen mà ông ấy đã mua để mặc trong đám cưới của mình và cũng đã mặc trong những buổi giảng đạo. Khi trở về nhà vào năm 1865 [137] bố ông vẫn còn mặc nó trên người, nhưng ông ấy không bao giờ mặc lại nó nữa kể từ cái ngày về đó, khi chiếc xe la ngừng ở bậc tam cấp trước nhà và hai người đàn ông khiêng bố ông xuống và tiếp tục khiêng vào trong nhà rồi đặt lên giường. Mẹ ông cởi cái áo vest đó, xếp nó vào trong một cái rương nằm trên gác mái. Nó ở yên đó trong hai mươi lăm năm, cho tới một ngày kia ông mở rương và lấy nó ra, trải rộng các nếp gấp mà các bàn tay, giờ đã chết, đã cẩn thận xếp lại.
Ông nhớ lại chuyện đó, bây giờ, trong khi ngồi bên cái cửa sổ tối tăm, trong căn phòng làm việc im ắng, chờ bóng hoàng hôn biến hẳn, chờ màn đêm buông xuống, chờ tiếng vó ngựa phi nước đại vụt qua. Ánh sáng màu đồng đỏ giờ đã tắt hoàn toàn; thế gian giờ bồng bềnh trong sự chờ đợi mang màu xanh lá cây, giống như sắc màu và bề mặt mịn màng của ánh sáng được lọc qua kính thủy tinh màu. Chẳng bao lâu nữa là đến lúc bắt đầu nói Trong chốc lát thôi bây giờ. Bây giờ trong chốc lát thôi ‘Mình hồi đó mới lên tám,’ ông nghĩ. ‘Trời lại đang mưa lúc đó.’ Ông có cảm tưởng ông còn có thể ngửi thấy được mưa, ngửi thấy lời kêu ca ẩm ướt của mặt đất vào tháng mười, ngửi thấy mùi ẩm mốc bốc ra khi ông giở nắp cái rương lên. Rồi ông thấy tấm áo nằm trong đó, với các nếp gấp gọn gàng. Ông đã không biết đó là cái gì, bởi vì thoạt đầu ông bị đè nặng bởi kỷ niệm về đôi bàn tay người mẹ đã quá vãng cứ mân mê các nếp gấp. Rồi tấm áo mở ra, từng nếp gấp một được giở ra chậm rãi. Dưới cặp mắt trẻ thơ của ông, nó có vẻ to ơi là to, như thể được may cho một người khổng lồ; như thể đơn giản nhờ vào việc một người trong bọn họ đã mặc nó mà chính cái vải may nó đã thủ đắc được các tính chất của những bóng ma, anh hùng và khủng khiếp, hiện ra lờ mờ mà sau lưng chúng là sấm sét nổi lên, là khói lửa, là cờ xí rách bươm, tất cả giờ đây chiếm cứ cuộc đời ông, ngày cũng như đêm.
Và tấm áo đó thì vá chằng vá đụp đến mức chẳng thể nhận ra. Những mảnh vá bằng da mà một bàn tay đàn ông đã khâu lại một cách sơ sài, những mảnh vá bằng dạ xám cắt từ quân phục lính Hợp bang [138] giờ trông như những chiếc lá nâu khô, và một mảnh vá đã làm ông thực sự cảm động: nó có màu xanh, màu xanh đậm, màu xanh của nước Mỹ. Nhìn mảnh vá đó, nhìn mảnh vải câm nín và vô danh đó, thằng bé lên tám, đứa con sinh ra khi cha mẹ tuổi đã vào thu, mà những cơ quan nội tạng của nó đã cần phải có sự chăm sóc bền bỉ của một cái đồng hồ Thụy Sĩ, trải nghiệm một thứ như sự kinh hãi câm lặng và đắc thắng khiến nó cảm thấy người ít nhiều như bị bệnh.
Tối hôm đó, nó không ăn được. Đưa mắt nhìn lên, người bố, bây giờ gần sáu mươi tuổi, thấy ra đứa con trai nhìn mình với sự sợ hãi kinh khiếp và với cái gì khác nữa. Rồi người đàn ông đó nói, “Con đã còn làm cái gì nữa đó?” và đứa bé không thể trả lời, không thể mở miệng nói gì. Nó nhìn người bố chằm chằm, và vẻ mặt con nít của nó thì hình như đến từ chính địa ngục. Đêm hôm đó, nó vào giường nhưng không tài nào chợp mắt được. Nó nằm cứng ngắc, thậm chí không run rẩy, trong bóng tối, trong khi ở đằng xa, bên kia những bức tường và những sàn nhà, một người đàn ông đang ngủ, đó là bố nó và cũng là người ruột thịt duy nhất còn lại, một người đàn ông cách xa nó bằng một khoảng thời gian dài đến nỗi không thể đo ngay cả bằng thập kỷ, đến nỗi không có lấy một sự giống nhau trong diện mạo giữa hai người. Và ngày hôm sau, thằng bé bị một trong những cơn đau đường ruột hành hạ. Nhưng nó không muốn nói ra với ai nó bị cái gì, ngay cả với người đàn bà da đen, quản gia và cũng là làm mẹ và vú nuôi cho nó. Từ từ nó lấy lại sức. Rồi một ngày kia nó lại lẻn lên tận gác mái một lần nữa, mở cái rương và lấy tấm áo ấy ra, đưa tay rờ miếng vá màu xanh đó với sự kinh hãi đắc thắng, với niềm vui bệnh hoạn, và tự hỏi không biết cha nó đã có giết người mặc chiếc áo choàng màu xanh [139] mà miếng vá được cắt ra từ đó không, và tự hỏi, với sự kinh hãi còn lớn hơn nữa, đâu là bề sâu và cường độ của nỗi ham muốn cùng lúc với nỗi sợ sệt để biết của nó. Tuy vậy, ngay từ ngày hôm sau, khi nó biết bố mình đã rời nhà đi khám một trong những bệnh nhân của ông ở vùng quê và đến tối mịt mới về nhà, nó đi xuống nhà bếp và nói với bà vú da đen: “Kể cho con nghe về ông nội nữa đi. Ổng đã giết bao nhiêu thằng Yankee ?” Và khi nó nghe, bây giờ, thì không còn với sự kinh hãi nữa. Ngay cả sự đắc thắng cũng không còn: lần này, đó là niềm kiêu hãnh.
Ông nội ông là cái gai độc nhất đâm vào cạnh sườn đứa con trai mình. Bố ông hẳn không nói ra điều đó nhưng ông nội đã nghĩ tới rồi, ngay cả cái điều mà hai người thầm mong ước lẫn nhau là có một người con khác hay có một người cha khác. Họ sống khá hòa thuận với nhau. Bố ông tỏ ra dè dặt, xa cách, không biết đùa, nhưng kính cẩn một cách tự nhiên, và ông nội thì có tính khí cục mịch, thẳng thắn, mạnh mẽ một cách thô lỗ, thiếu mục đích ít hơn là thiếu óc dí dỏm. Họ sống một cách khá thân ái trong một ngôi nhà hai tầng ở trong phố. Tuy nhiên, bố ông từ khá lâu đã không chấp nhận, một cách điềm tĩnh và cứng cỏi, ăn những món nấu bởi bà nô lệ da đen đã nuôi dưỡng bố ông từ tấm bé. Bố ông tự mình làm bếp lấy, khiến cho bà vú da đen nổi tam bành lục tặc, và ông ấy tự mình bưng bê đồ ăn ra tận bàn và ngồi ăn, đối diện với cha mình, ông cụ lúc nào cũng chào bố ông và chào một cách trịnh trọng bằng cách nâng ly rượu uýt-ki Bourbon [140] lên trước miệng. Đó còn là một thứ mà bố ông không đụng đến và đã không bao giờ nếm thử.
Vào ngày đám cưới của con trai, ông cụ giao hẳn nhà cửa đang ở cho con trai. Ông cụ đang đứng chờ dưới hàng hiên, tay cầm chìa khóa nhà, khi cô dâu chú rể đến. Ông mặc áo khoác ngoài và đội mũ sẵn. Những kiện hành lý của riêng ông cụ thì để đầy xung quanh ông, và sau lưng ông là hai người nô lệ mà ông sở hữu: một bà da đen lo việc nấu nướng, và tên “bồi”, lớn tuổi hơn ông, đầu không còn lấy một sợi tóc và là chồng của bà nấu bếp đó. Ông cụ không phải là chủ đồn điền. Ông là một luật sư, đã học luật có phần giống như đứa con trai ông sau này phải học y khoa, “bằng sức lực của đôi bàn tay và bằng sự chiếu cố và vận may đến từ quỷ sứ”, theo cách ông cụ diễn tả. Ông đã mua sẵn cho chính mình một căn nhà nhỏ ở nông thôn cách đó hai dặm. Chiếc xe ngựa bốn chỗ ngồi và những người đi theo đứng chờ ông trước hàng hiên. Ông cụ đứng đó, hai chân dạng ra, mũ lật ra sau - tráng kiện, cục mịch, mũi thì đỏ ở trên bộ râu mép dài như của một tên tướng cướp - trong khi người con trai và cô con dâu mà ông chưa từng gặp trước đó, từ cổng đi trên lối nhỏ vào nhà. Khi ông khom người chào cô, cô ngửi thấy mùi rượu uýt-ki và xì gà. “Cha tin rằng con sẽ ổn thôi,” ông nói. Cặp mắt ông cụ trông hơi thô lỗ, bạo dạn nhưng trìu mến. “Vả lại, tất cả những gì mà cái tên mê muội vì đạo này muốn là có ai đó có thể hát giọng nữ trầm những bài thánh ca của đạo Trưởng lão mà ngay chính Chúa Trời cũng không thể nặn ra chút âm nhạc nào.”
Ông cụ rời đi trên chiếc xe ngựa có núm tua chở theo các đồ đạc của riêng mình - áo quần, hũ rượu đặt trong rọ mây, các nô lệ. Bà nô lệ lo việc bếp núc thậm chí cũng không ở lại để sửa soạn bữa ăn đầu tiên. Bà không được tặng lại cho đứa con trai, do đó, bà không bị từ chối. Và ông cụ, cho tới khi chết, không bao giờ đặt chân vào trong ngôi nhà này lần nào nữa. Nếu có thì ông cụ hẳn đã được tiếp đón niềm nở. Ông cụ và người con trai, cả hai đều biết điều đó, tuy không ai nói ra. Và cô dâu ông - cô là một trong nhiều đứa con của một cặp vợ chồng nhã nhặn đã không bao giờ thành công trong việc làm giàu và họ dường như tìm thấy ở nhà thờ một sự bù trừ cho những gì thiếu thốn trên bàn ăn - thích ông, cảm phục ông một cách kín đáo, lo sợ, bí mật: dáng điệu nghênh ngang, tính nết chất phác và sự gắn bó đơn giản của ông với qui tắc ứng xử đơn giản. Tuy nhiên, họ nghe kể về những chuyện ông cụ làm, ví dụ như vào mùa hè sau khi dọn nhà ra ở vùng quê, ông đã làm gián đoạn một buổi lễ thức tỉnh lòng mộ đạo ở ngoài trời và kéo dài, trong một rừng cây gần nhà ông, và đã biến đổi nó thành một cuộc đua ngựa nghiệp dư kéo dài cả một tuần. Trước một giáo đoàn càng ngày càng vắng người, các ông thầy thuyết pháp ở nông thôn, mặt mũi hốc hác, ánh mắt cuồng tín, từ trên bục giảng thô kệch, giận dữ tung ra những lời nguyền rủa, lên án cái đầu hay quên và không được cải tạo của ông. Lý do tại sao ông cụ không thăm viếng con trai và con dâu thì hình như rất thẳng thắn: “Các con sẽ thấy cha chán lắm và cha sẽ thấy các con chán lắm. Và biết đâu đấy, những lời nguyền rủa của bọn họ có thể làm cha sa đọa. Có thể làm cha sa đọa trong tuổi già để gởi cha lên thiên đường đó mà.” Nhưng đó không phải là lý do thực sự. Người con biết rõ điều đó, vì người cha đã là một người sẵn sàng hơn ai hết đập tan những lời lẽ vu khống nếu chúng đến từ những người khác. Đó là sự tinh tế trong cách ứng xử và suy nghĩ nơi ông già này.
Bố ông đã là người theo chủ nghĩa bãi nô hầu như trước cả giai đoạn mà quan điểm này trở thành một từ ngữ để từ miền Bắc lan dần xuống miền Nam. Tuy nhiên, khi bố ông biết được là những người thuộc đảng Cộng hòa [141] có một tên gọi để chỉ tư tưởng này, bố ông thay đổi hoàn toàn cái tên của niềm tin của mình mà không hạ thấp những nguyên tắc hay cách ứng xử của mình một chút nào. Ngay cả vào thời kỳ đó, khi chưa đến ba mươi tuổi, bố ông đã là một người có tiết độ khắc khổ trước xa cái tuổi của mình. Điều này thường xảy ra với con cái của những người không quá độ theo cách riêng khi làm tôi tớ cho May rủi và hũ rượu. Có lẽ vì vậy mà chỉ sau chiến tranh bố ông mới có con. Từ chiến trường trở về, con người bố ông đã thay đổi, đã “Được khử mùi”, như ông nội ông đã quá vãng hẳn sẽ nói, phần nào từ cái tính thánh thiện của bố ông. Mặc dù trong suốt bốn năm chiến tranh đã không bao giờ bắn một phát súng nào, bố ông vẫn không bằng lòng với mỗi việc cầu nguyện và giảng đạo cho binh lính vào mỗi sáng chủ nhật. Khi trở về nhà, bị thương, hồi phục và sinh cơ lập nghiệp bằng nghề bác sĩ, bố ông chỉ có việc đem áp dụng các hiểu biết về giải phẫu và bào chế thuốc mà ông ấy đã thực hành và học hỏi trên thân xác của bạn lẫn thù trong khi phụ giúp các bác sĩ ngoài mặt trận. Trong tất cả hành động của đứa con trai, đây chắc chắn là một hành động mà ông cụ hẳn lấy làm vui thích nhất: đứa con trai ông cụ đã tự mình học được một nghề nhờ vào những tên xâm lược, những tên tàn phá đất nước ông cụ.
‘Nhưng tính thánh thiện không phải là một từ người ta có thể dùng đối với cha mình,’ người con trai của người con trai đó, ngồi ở bên cửa sổ tối tăm, đến lượt mình, nghĩ, trong khi ngoài kia thế gian đang bồng bềnh trong sự chờ đợi mang màu xanh lá cây, ở một nơi xa hơn tiếng kèn trompet đang lịm dần. ‘Chính ông nội hẳn là người đầu tiên đối chất bất cứ người nào dùng cái từ này.’ Đó là gần như một sự quay về những thời buổi khắc khổ và sáng tỏ, đã qua nhưng chưa lâu lắm, mà một người trên đất nước này, vào lúc đó, có ít sinh lực để mà phung phí và có ít thời gian để làm chuyện phung phí đó, và phải giữ gìn và bảo vệ chút ít sinh lực đó không những chống lại thiên nhiên mà còn chống lại con người, bằng cách dựa hoàn toàn trên sự kiên trì chịu đựng mà ít ra trong cả cuộc đời hắn ta, sự kiên trì này không mang lại một sự thoải mái thể xác nào như là một phần thưởng. Chính từ chỗ này đã nảy sinh sự phản đối chế độ chiếm hữu nô lệ, sự phản đối người cha sa đọa và phạm thần phạm thánh của bố ông. Ngay cái sự việc bố ông thực tình không thấy sự nghịch lý trong việc ông ấy đã tham dự một cách tích cực trong một cuộc chiến tranh dân quân và lại chiến đấu ngay bên phe có những nguyên tắc chính trị trái ngược với bố ông, đủ chứng tỏ là trong con người ông ấy có hai nhân cách tách biệt và đầy đủ mà một trong hai thì diễn biến theo những qui tắc sáng sủa trong một thế giới mà thực tại không hiện hữu.
Nhưng một nhân cách khác của bố ông, tức cái ở trong thế giới thực tế của chúng ta thì cũng thành công như bất cứ ai khác, thậm chí còn hơn phần lớn những người khác. Bố ông đã sống một cách hòa thuận với những nguyên tắc của mình, và khi chiến tranh nổ ra thì ông cũng mang theo những nguyên tắc này vào cuộc chiến và sống theo chúng ở đó; khi có buổi giảng đạo vào ngày chủ nhật trong một rừng cây yên tĩnh nào đó, bố ông đứng giảng mà không có công cụ nào khác hơn là niềm tin và thiện tâm của mình, và những gì bố ông có thể nhặt nhạnh trên đường đi; khi có việc cứu mạng những binh sĩ bị thương dưới lửa đạn quân thù và cứu chữa họ mà không có những dụng cụ thích hợp, bố ông vẫn cứ làm, không có sự trợ giúp nào khác hơn là sức mạnh tinh thần, lòng can đảm của mình, và những gì bố ông có thể nhặt nhạnh trên đường đi. Và khi bại trận, khi những người đồng đội trở lại quê nhà, mắt họ vẫn đăm đăm nhìn về cái mà họ không thể tin được là đã biến mất, thì bố ông lại nhìn về phía trước và lợi dụng tất cả những gì có thể từ cuộc chiến bại này bằng cách thực hiện những điều ông ấy đã học được trong cuộc chiến. Bố ông trở thành bác sĩ. Một trong những bệnh nhân đầu tiên của bố ông là mẹ ông. Có lẽ bố ông đã giữ được bà sống. Ít ra bố ông đã giúp bà có khả năng tạo ra đời sống, dù ông đã năm mươi và bà đã quá bốn mươi khi đứa con trai của họ ra đời. Đứa con trai này lớn lên giữa những bóng ma, và sát bên một hồn ma.
Những bóng ma đó là bố ông, mẹ ông và một bà già da đen. Bố ông, một mục sư không có nhà thờ, một chiến binh không có kẻ thù, và trong cuộc chiến bại đã kết hợp hai chuyện này và trở thành bác sĩ và nhà giải phẩu. Như thể niềm tin lạnh lùng và không thỏa hiệp đã từng chống đỡ cho bố ông được đứng thẳng, có thể nói như vậy, giữa sự khắt khe về mặt đạo đức và thái độ kiêu căng, thì trở nên sáng suốt hơn thay vì để bị đánh bại và nản chí. Như thể niềm tin đó đã thấy xuyên qua khói lửa chiến trường, như trong một ảo cảnh, là cái nghĩa đen của cụm từ ‘đặt bàn tay ban phúc’ thì đúng y như vậy. Như thể bố ông bỗng dưng bắt đầu tin rằng Chúa Ki-tô đã muốn chỉ ra là bố ông, người mà chỉ riêng tâm hồn cần được chữa lành, thì không đáng được nhận ân sủng hay sự cứu rỗi. Đó là bóng ma thứ nhất.
Bóng ma thứ hai là mẹ ông. Ông còn nhớ đến bà, trước tiên và cuối cùng, như một khuôn mặt ốm với đôi mắt rất to và mái tóc đen xõa dài trên gối, với hai bàn tay thâm tím, bất động, gần như bàn tay của một bộ xương. Nếu vào ngày bà chết mà ông được người ta nói là ông từng thấy bà ở chỗ khác hơn là trong giường thì ông hẳn đã không tin. Sau này, ông nhớ lại một cách khác đi: ông thực sự nhớ bà có đi lại trong ngôi nhà, chăm sóc công việc nhà. Nhưng lúc tám, chín và mười tuổi, ông luôn thấy bà như không chân, không có bàn chân, chỉ có khuôn mặt gầy ốm đó với đôi mắt có vẻ càng ngày càng trở nên to hơn, như thể ham muốn nhìn trọn tất cả những gì có thể thấy được, nhìn trọn cả cõi đời, với ánh nhìn trừng trừng kinh khiếp cuối cùng đầy tâm trạng thất vọng, đau khổ và linh cảm. Rồi khi điều đó cuối cùng đến thì ông dường như nghe được nó: nó là một tiếng động, giống như một tiếng kêu. Trước khi bà chết ông đã có thể cảm thấy đôi mắt ấy xuyên qua tất cả những bức tường. Chúng là ngôi nhà: ông cư ngụ bên trong chúng, bên trong sự hồi phục tăm tối và kiên nhẫn của chúng trước sự phản bội của cơ thể đang ra sức giành trọn mọi thứ. Ông và bà mẹ, cả hai đều sống trong đó, như hai con thú nhỏ yếu đuối trong một cái hang, một cái động mà người bố thỉnh thoảng đi vào - người đàn ông này là một người xa lạ đối với cả hai, một người nước ngoài, gần như là một sự đe dọa: tình trạng khỏe mạnh của cơ thể biến đổi cực kỳ nhanh chóng và làm thay đổi tinh thần nhanh chóng không kém. Bố ông thì còn hơn một người xa lạ: đó là một kẻ thù. Bố ông có mùi khác họ. Bố ông nói bằng một cái giọng khác, hầu như bằng các chữ nghĩa khác, như thể ông thường thường sống trong một môi trường xung quanh khác và trong một thế giới khác; thu mình nấp bên cạnh giường, đứa bé có thể cảm thấy người đàn ông đó choán đầy căn phòng bằng sự tráng kiện và sự khinh rẻ không ý thức; bố ông cũng bất lực và thất vọng như mẹ ông và ông.
Bóng ma thứ ba là người đàn bà nô lệ da đen, người đã lên chiếc xe ngựa bốn chỗ ngồi đó mà ra đi, vào buổi sáng khi cô dâu chú rể về đến nhà. Bà là nô lệ khi ra đi bằng xe ngựa, bà vẫn là nô lệ khi trở về vào năm 1866 nhưng giờ thì bằng đôi chân - một người đàn bà to mập quá cỡ, với bộ mặt dễ cáu giận và điềm tĩnh cùng lúc: cái mặt nạ của một bi kịch đen giữa hai hồi. Sau khi chủ chết, và cho tới khi bà cuối cùng tin là bà sẽ không còn bao giờ gặp lại họ - ông chủ cũng như chồng bà, tức tên “bồi” đã đi theo chủ vào cuộc chiến và cũng đã không trở về - bà không chịu rời bỏ ngôi nhà ở nông thôn mà ông chủ đã dọn đến sống trước đó và để lại cho bà chăm sóc khi ông lên ngựa ra đi. Sau khi người cha mất, người con đến để đóng cửa ngôi nhà và dọn đi những đồ đạc riêng của cha mình, và đề nghị nuôi dưỡng bà. Bà từ chối. Bà cũng không chịu ra đi. Bà tự trồng một vườn rau nhỏ sau nhà và bà sống ở đó một mình, chờ người chồng trở về, vì bà không muốn nghe theo tin đồn là ông ấy đã chết. Đó chỉ là tin đồn, một tin đồn mơ hồ: sau khi chủ mình tử vong trong cuộc đột kích bằng kỵ binh của Van Dorn [142] để phá hủy các kho tiếp vận của tướng Grant ở Jefferson, tên “bồi” da đen đó đã đau khổ không nguôi. Một đêm y biến mất khỏi doanh trại dã chiến. Ít lâu sau người ta bắt đầu kể là có một tên da đen điên khùng đã bị một toán lính trinh sát miền Nam bắt giữ gần phòng tuyến quân thù; y cứ lặp đi lặp lại cùng những mẩu chuyện về ông chủ mất tích của y đang bị bọn Yankee giam giữ để đòi tiền chuộc. Người ta không thể nào nhét được vào đầu y, dù chỉ trong vài giây, là ông chủ đó có thể đã chết. “Thưa Ngài, không đâu,” y nói. “Ông Gail không có chết đâu. Không phải ổng đâu. Chúng không dám giết một người thuộc dòng dõi Hightower đâu. Chúng không dám đâu. Chúng giấu ổng ở đâu đó để bắt ổng khai ra những cái mà tôi và ổng đã giấu đi, cái bình pha cà phê của bà chủ và cái khay bằng vàng. Đó là tất cả những thứ chúng muốn đó.” Mỗi lần bị bắt như vậy là y cứ trốn nữa. Rồi một ngày kia có tin từ phòng tuyến quân Liên bang [143] là một tên da đen đã dùng xẻng tấn công một sĩ quan Yankee , và viên sĩ quan này, để cứu mạng mình, đã buộc phải bắn chết y.
Người đàn bà da đen đó đã không tin chuyện này trong một thời gian dài. “Không phải vì ổng không đủ ngu để làm chuyện đó,” bà nói. “Nhưng nếu ổng mà gặp một tên Yankee thì ổng đâu bao giờ có đủ trí khôn để nhận ra đó là một tên Yankee để mà xách xẻng ra mà đập nó.” Bà lặp đi lặp lại như vậy suốt hơn một năm. Rồi một ngày kia bà xuất hiện trước nhà người con, ngôi nhà mà bà đã rời bỏ mười năm trước và đã không hề quay lại từ dạo đó. Bà mang tất cả những gì bà sở hữu trong một cái khăn tay. Bà đi vào nhà và nói: “Tui đây nè. Cậu có đủ củi ở trong lều để tui nấu bữa ăn tối không?”
“Vú bây giờ được tự do rồi mà,” người con nói.
“Tự do à?” bà nói với sự khinh bỉ thầm lặng và có nghĩ tới nghĩ lui. “Tự do à? Nó đã làm được gì, cái tự do đó, ngoại trừ làm cho ông Gail bị giết và làm cho Pomp còn ngu hơn cả chính Chúa Trời có thể làm? Tự do! Đừng nói chuyện về tự do với tui nữa.”
Đây là bóng ma thứ ba. Và với bóng ma này mà đứa bé (‘và nó thì cũng chỉ hơn một bóng ma chút xíu, hồi đó,’ cùng một đứa bé đó nghĩ, ngày hôm nay, ngồi bên cái cửa sổ đang chìm dần trong bóng tối.) nói về cái hồn ma. Họ không bao giờ thấy mệt: đứa bé tỏ ra say mê, nửa sợ sệt, nửa thích thú, và một bà già với nỗi đau buồn và niềm kiêu hãnh, mãnh liệt và âm ỉ. Nhưng đối với đứa bé, đó chỉ là một sự rùng mình an lành vì khoái trá. Nó không thấy sợ hãi chút nào khi biết được ông nội nó, ngược lại, đã giết người ‘cả hàng trăm’, như người ta kể cho nó nghe và nó tin, hay là tên da đen Pomp đã cố sức giết một người trước khi chết. Nó không cảm thấy ghê sợ khi nghe chuyện bởi vì đó chỉ là những hồn ma bóng quế mà nó không bao giờ thấy bằng xương, bằng thịt, anh dũng, giản dị và ấm áp; trong khi bố nó, người mà nó biết và sợ, là một bóng ma không bao giờ chết đi. ‘Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên,’ ông nghĩ, ‘là mình nhảy qua một thế hệ. Chẳng có gì ngạc nhiên là mình không có cha, là mình đã chết vào một đêm hai mươi năm trước khi mình ra đời. Và sự cứu rỗi linh hồn của mình chỉ có thể có được là phải trở về để chết ở nơi chốn mà cuộc đời mình đã chấm dứt trước khi thực sự bắt đầu.’
Trong khi theo học ở chủng viện, ngay sau khi ông đến đó lần đầu tiên, ông thường hình dung trong đầu bằng cách nào ông sẽ nói với họ, những trưởng lão, những nhân vật cao cấp và thánh thiện chăm lo vận mệnh của cái giáo hội mà ông đã tự nguyện phục tùng. Bằng cách nào ông sẽ đến gặp họ và nói, “Xin quý vị nghe này. Chúa phải gọi tôi đến Jefferson bởi vì ở đó cuộc đời tôi đã chết, đã bị bắn chết trên yên một con ngựa đang phi nước đại trong một đường phố ở Jefferson vào một đêm hai mươi năm trước ngày tôi sinh ra.” Thoạt đầu ông nghĩ ông có thể nói như vậy. Ông tin là họ sẽ thấu hiểu. Ông đến đây học đạo, ông chọn thiên hướng này, chính là vì ông nhắm đến mục đích đó. Nhưng ông tin tưởng vào cái gì còn hơn thế nữa. Ông cũng đã tin tưởng ở giáo hội, ở tất cả những phân nhánh và những gì nó gợi lên. Ông tin, bằng một niềm vui thanh thản, rằng nếu bao giờ có một chỗ an trú thì đó là giáo hội; rằng nếu bao giờ sự thật có thể bước đi, trần truồng, không xấu hổ, không sợ hãi, thì đó là trong chủng viện. Khi tin chắc rằng mình đúng là có thiên hướng đó, ông có cảm tưởng là ông có thể thấy tương lai của mình, cuộc đời của mình, vẫn nguyên vẹn và đủ đầy và không thể xâm phạm dưới bất cứ hình thức nào, giống như một cái bình cổ điển và lặng yên, nơi mà tâm hồn có thể tái sinh, được yên ổn trước những giông tố ghê sợ của cuộc sống, và có thể chết như vậy, một cách thanh thản, chỉ để lại một nắm tro tàn thối rữa mà người ta có thể tùy ý sử dụng, và chỉ có tiếng gió luồn lách ở một nơi nào xa xôi. Đó là, đối với ông, ý nghĩa của từ chủng viện: những bức tường câm lặng và an toàn mà bên trong chúng, tâm hồn bị vướng víu, bị khó chịu vì áo quần đang mặc, có thể tìm lại sự thanh thản cần thiết để lặng ngắm sự trần truồng của riêng nó mà không sợ hãi hay lo âu.
‘Nhưng trên thiên đường và trong thế gian còn có nhiều thứ khác hơn là sự thật,’ ông diễn giải ý tưởng này một cách thầm lặng, không giễu cợt, không hài hước, nhưng cũng không phải là không có giễu cợt hay hài hước trong đó. Ngồi trong bóng hoàng hôn đang chết dần, đầu quấn băng trắng trông to hơn và ma quái hơn, ông nghĩ, ‘Nhiều thứ khác hơn, thật vậy,’ trong khi nghĩ bằng cách nào sự tài tình hình như được ban cho con người để cho phép nó, vào những lúc khủng hoảng, tự cung cấp cho chính nó những hình dạng và những âm thanh ngăn cản nó thấy ra sự thật. Ông có ít nhất một điều mà ông không bao giờ phải ăn năn: việc nói ra với những trưởng lão những điều mà ông đã dự định nói ra với họ là một sai lầm và ông đã không mắc phải nó. Ông thậm chí đã không cần ở trong chủng viện một năm để biết được cái sai lầm nào mà ông đã phạm. Và ngoài ra, còn tệ hơn nhiều: bằng cách biết được điều đó, thay vì mất đi cái gì đó thì ông đã lấy được, đã tránh được cái gì đó. Và cái lấy được này đã tô điểm cho khuôn mặt thực sự và hình dạng của tình yêu.
Nàng là con gái của một trong những mục sư đồng thời là giảng viên ở trường dòng. Giống như ông, nàng là con một. Ông tin ngay lập tức là nàng đẹp, bởi vì ông đã nghe nói về nàng trước khi thấy nàng, và khi thực sự thấy nàng thì ông lại không thấy nàng chút nào vì nàng bị cái khuôn mặt mà ông đã vẽ vời trước đó trong tâm trí mình che khuất. Ông không thể tin là nàng từng sống cả đời ở đó mà lại không đẹp cho được. Trong ba năm ông không thấy khuôn mặt thật của nàng; và từ hai năm cuối cùng trong ba năm đó, một thân cây rỗng ruột là nơi hai người gửi và nhận những lá thư ngắn viết cho nhau. Nếu ông thực sự tin vào việc này thì ông hình dung là cái ý tưởng đã nảy sinh một cách tự phát giữa hai người, bất kể ai là người nghĩ đến nó, nói ra nó đầu tiên. Nhưng trong thực tế thì không phải từ ông, cũng không phải từ nàng mà ông có được cái ý tưởng đó, mà từ một cuốn sách. Nhưng ông không thấy khuôn mặt nàng chút nào. Ông không thấy cái hình trái xoan nhỏ nhắn với cái cằm quá nhọn, với vẻ bất mãn dễ dàng cáu giận (nàng lớn hơn ông một hay hai hay ba tuổi, và đây là điều ông không biết, không bao giờ có thể biết). Trong ba năm ông không thấy là nàng đã nhìn ông với cặp mắt chứa đựng một sự tính toán gần như tuyệt vọng, giống như cặp mắt của một tên đánh bạc bị dồn vào đường cùng.
Rồi vào một buổi tối ông thấy nàng và ông nhìn nàng. Nàng nói một cách đột ngột và nghiêm khắc về chuyện kết hôn. Không giáo đầu, không cảnh báo. Họ chưa hề nói với nhau về chuyện này trước đó. Ông thậm chí đã không bao giờ nghĩ đến nó, nghĩ đến cái từ ngữ đó. Ông đã chấp nhận nó bởi vì phần lớn các thầy ở chủng viện đều lập gia đình. Nhưng đối với ông, hôn nhân không phải là những người đàn ông và những người đàn bà sống trong sự gần gũi thể xác được thừa nhận, nhưng là một tình trạng chết cứng cứ kéo dài mãi giữa những người sống, như hai cái bóng bị xích lại với nhau bằng cái bóng của một dây xích. Ông đã quen với chuyện đó; ông đã lớn lên với một hồn ma. Rồi vào một buổi tối nàng bắt đầu nói, một cách đột ngột và nghiêm khắc. Khi cuối cùng hiểu ra điều mà nàng có ý nói qua câu “thoát khỏi cuộc sống hiện tại của nàng”, ông không cảm thấy ngạc nhiên chút nào. Ông thì quá ngây thơ. “Thoát khỏi à?” ông nói. “Thoát khỏi cái gì?”
“Cái này nè!” nàng nói. Và đó là lần đầu tiên ông thấy mặt nàng, như một khuôn mặt sinh động, như một cái mặt nạ trước nỗi ham muốn và sự thù ghét: đau đớn, mù quáng, đầy đam mê liều lĩnh. Không phải ngu đần: chỉ là mù quáng, khinh suất và tuyệt vọng. “Tất cả mấy thứ này! Tất cả! Tất cả!”
Ông không bị ngạc nhiên. Ông tin ngay tức khắc là nàng đúng, là ông trước nay chỉ tỏ ra vô tri. Ông tin ngay tức khắc là sự tin tưởng của riêng ông vào trường dòng đó đã là sai lạc suốt thời gian qua. Không phải sai lạc một cách trầm trọng, nhưng mà không thật, không đúng. Có lẽ ông đã bắt đầu hoài nghi chính mình mà không nhận biết cho tới bây giờ. Có lẽ vì vậy mà ông đã chưa nói với họ tại sao ông phải đi đến Jefferson. Ông đã nói điều này với nàng một năm trước đó tại sao ông muốn, tại sao ông phải, đi đến đó. Ông cũng bảo nàng là ông có ý định nói ra lý do đó với họ. Và nàng nhìn ông bằng cặp mắt mà ông đã không từng thấy trước đây. “Em muốn nói,” ông nói, “là họ sẽ không gởi anh đi, sẽ không sắp xếp cho anh đi? Là lý do đó thì sẽ không đủ thuyết phục họ?”
“Chắc chắn là nó sẽ không đủ rồi,” nàng nói.
“Nhưng tại sao chớ? Đó là sự thật mà. Có lẽ là ngu ngốc. Nhưng thật. Và giáo hội tồn tại để làm gì nếu không để giúp đỡ những kẻ tuy ngu ngốc nhưng muốn tìm sự thật? Tại sao họ sẽ không để anh đi đến đó?”
“Ồ, chính em cũng sẽ không để anh đi, nếu em là họ và nếu anh đưa ra cho em một cái lý do như vậy.”
“Ồ,” ông nói. “Anh hiểu.” Nhưng ông không hiểu một cách chính xác, dù ông tin rằng ông đã có thể sai lầm, rằng nàng có lý. Và vậy là một năm sau, khi nàng đột ngột nói chuyện với ông về hôn nhân và về sự thoát ra bằng cách dùng cùng những từ ngữ đó, ông không lấy làm ngạc nhiên, không cảm thấy bị tổn thương. Ông chỉ nghĩ một cách thầm lặng, ‘Vậy cái này là tình yêu đây. Mình thấy rồi. Mình cũng bị sai lầm về nó nữa,’ trong khi vẫn nghĩ như ông đã nghĩ trước đó và như ông sẽ nghĩ sau này, như tất cả mọi người đã và còn nghĩ: cuốn sách sâu sắc nhất trong tất cả các cuốn sách có thể trở nên sai lạc biết bao khi người ta muốn áp dụng nó vào cuộc sống.
Ông thay đổi hoàn toàn. Hai người dự định lấy nhau. Bây giờ, ông biết là ông đã luôn luôn thấy sự tính toán tuyệt vọng đó trong đôi mắt nàng. ‘Có lẽ người ta đã có lý khi cho tình yêu vào trong sách,’ ông nghĩ thầm. ‘Có lẽ tình yêu không thể sống được ở một nơi nào khác.’ Nỗi tuyệt vọng vẫn luôn choán đầy con người họ, nhưng giờ thì họ có những dự định rõ ràng, ngày lành tháng tốt đã chọn. Và nỗi tuyệt vọng đó thì thầm lặng hơn, hầu như hoàn toàn có tính toán hơn thiệt. Họ bây giờ bàn về lễ thụ chức mục sư của ông, về cách nào ông có thể được bổ nhiệm đến Jefferson. “Tốt hơn chúng ta nên bắt tay vào việc ngay từ bây giờ,” nàng nói. Ông bảo nàng là ông đã ra sức làm chuyện này từ khi bốn tuổi; có lẽ ông tỏ ra hài hước, tỏ ra khác thường. Nàng phớt lờ lời ông bằng vẻ đạo mạo dễ cáu giận và ức chế, gần như một sự đãng trí, và nàng nói chuyện như thể nói với chính mình, về những người, về những cái họ tên cần đi gặp, cần quỵ lụy hay cần hăm dọa. Nàng phác thảo ra cả một kế hoạch vận động, bày mưu tính kế nhục nhã. Ông lắng nghe nàng. Và ông luôn giữ trên bộ mặt mình một nụ cười mỉm yếu ớt, hơi kỳ dị, hơi chế nhạo, có lẽ vô vọng. Và trong khi nàng nói thì ông bảo, “Phải rồi. Phải rồi. Anh thấy rồi. Anh hiểu mà.” Như thể ông đang nói Phải rồi. Anh thấy. Bây giờ anh thấy rồi. Người ta làm như vậy mà. Người ta kiếm lợi được như vậy mà. Đó là luật chơi mà. Bây giờ anh thấy ra rồi
Thoạt đầu, sau khi mà sự lừa mị, sự đánh mất phẩm giá, và những lời nói láo vặt vãnh của ông tác động đến những lời nói láo vặt vãnh khác, đến những lời hăm dọa cuối cùng dưới hình thức thỉnh cầu và gợi ý với những chức sắc lớn trong giáo hội, sau khi ông rốt cuộc nhận được nhiệm sở ở Jefferson, thì ông quên, trong một thời gian, làm cách nào ông đã đạt được mục đích đó. Ông chỉ nhớ lại sau khi đã ổn định cuộc sống ở Jefferson; chắc chắn là ông đã không nhớ lại khi ngồi trên con tàu, trong chặng đường cuối cùng của cuộc hành trình, đưa ông đến gần sự hoàn tất ước nguyện của đời ông, xuyên qua một miền quê tương tự như nơi ông sinh ra. Nhưng quang cảnh có vẻ khác đối với ông, tuy ông biết là sự khác biệt này không nằm bên ngoài nhưng nằm bên trong cửa sổ toa tàu mà ông áp mặt vào lớp kính nhìn ra ngoài như một đứa bé, trong khi người vợ bên cạnh ông bây giờ cũng lộ ra vẻ háo hức trên mặt, ngoài chuyện đói bụng và nỗi tuyệt vọng ra. Lúc đó, họ cưới nhau chưa được hoàn toàn sáu tháng. Họ cưới nhau ngay sau khi ông tốt nghiệp trường dòng. Và từ dạo đó tới giờ, ông đã không hề thấy nỗi tuyệt vọng trần trụi trên gương mặt nàng. Nhưng ông cũng không hề thấy lại niềm say đắm. Và một lần nữa, ông lặng lẽ suy nghĩ, không thấy ngạc nhiên lắm và có lẽ không cảm thấy tổn thương: Mình thấy ra rồi. Cuộc đời là như vậy. Lấy vợ, lấy chồng. Phải thôi. Mình thấy ra rồi, bây giờ
Con tàu tiếp tục lao về phía trước. Áp mặt vào cửa kính nhìn ra quang cảnh đồng quê trải dài, ông nói chuyện bằng cái giọng sung sướng, sáng sủa của một đứa bé: “Anh đã có thể đến Jefferson trước đây, hầu như vào bất cứ lúc nào. Nhưng anh đã không đến. Anh đã có thể đến đó bất cứ lúc nào. Nhưng em biết đấy, có một sự khác biệt giữa sự điên rồ dân sự và sự điên rồ quân sự. Sự điên rồ quân sự là sao ư? A, đó là sự điên rồ của niềm tuyệt vọng. Một nhúm người (ông không phải là sĩ quan: anh nghĩ đó là điểm duy nhất mà bố anh và vú già Cinthy luôn đồng ý với nhau: là ông nội anh không mang gươm, phi nước đại dẫn đầu đội kỵ binh mà không vung gươm), với sự khinh thường rợn người chỉ có ở tuổi học trò, hoàn thành một cuộc chơi khăm liều mạng một cách điên rồ đến nỗi đám binh lính đã từng chống cự họ suốt bốn năm không thể tin được là họ đã dám ra tay như thế. Phi ngựa cả trăm dặm đường xuyên qua miền đất mà ở đó mỗi khu rừng nhỏ, mỗi thôn xóm đều có trại dã chiến của quân Yankee , để thâm nhập vào một thành phố có quân đội đồn trú - anh biết chính xác con đường phố mà họ chạy vào và rút ra. Anh chưa từng thấy nó nhưng anh biết chính xác nó sẽ trông như thế nào. Anh biết chính xác nó sẽ trông như thế nào, ngôi nhà mà chúng ta một ngày kia sẽ sở hữu và sống trong đó, ở ngay trên con đường đó. Nhưng trước tiên chúng ta phải chờ đợi một thời gian. Chúng ta ban đầu sẽ phải sống ở căn nhà dành cho mục sư. Nhưng một ngày gần đây thôi, ngay khi chúng ta có thể, a, nơi mà chúng ta có thể nhìn qua cửa sổ và thấy con đường phố đó, có lẽ đến cả những dấu vết của vó ngựa hay hình dạng của chúng trong không khí, bởi vì đó sẽ là cùng một không khí, không đổi, dù cho bụi và bùn đã biến mất - Đói, hốc hác, la hét vang trời, họ đốt cháy tan tành các kho tiếp vận của cả một chiến dịch được chuẩn bị, sắp đặt kỹ lưỡng, rồi phi ngựa rút ra khỏi thành phố. Không cướp phá gì cả. Thậm chí không dừng lại một phút để thó một đôi giày hay một hộp thuốc lá. Tin anh đi, đó không phải là những người đi kiếm chiến lợi phẩm hay sự vinh quang; đó là những cậu bé mới lớn cưỡi trên ngọn sóng triều dâng đúng là dữ dội của cuộc đời tuyệt vọng. Những cậu bé, đơn giản vậy thôi. Vì điều này đó. Và điều này thì đẹp biết bao. Em nghe này. Hãy cố gắng thấy ra: đây là một sự thể hiện đẹp đẽ của tuổi trẻ vĩnh hằng và lòng khát khao trong trắng, nhờ đó mà làm nên những anh hùng. Và nhờ đó mà các hành động của những anh hùng trở nên cận kề với cái không thể tin được đến mức mà người ta không lấy làm lạ là các hành động này của họ đôi khi bật ra như tia sáng lóe lên từ nòng súng giữa khói lửa chiến trường, là cái khoảnh khắc mà những hành động này xảy ra trở thành, không để cho họ kịp thở, một tin đồn mang cả nghìn khuôn mặt, vì sợ rằng cái sự thật nghịch lý đó lại xúc phạm chính nó. Bây giờ, đây là chuyện bà vú Cinthy kể cho anh nghe. Và anh tin. Anh biết. Nó quá đẹp để mà hoài nghi. Nó quá đẹp, quá giản dị để mà một cái đầu dân da trắng có thể bịa đặt ra. Một người da đen hẳn có thể bịa đặt nó. Và nếu Cinthy làm chuyện bịa đặt này thì anh vẫn tin. Bởi vì ngay cả thực tế cũng không thể đứng vững trước nó. Anh không biết đội kỵ binh của ông nội có bị thất lạc hay không. Anh không tin như vậy. Anh nghĩ là họ cố ý làm chuyện đó, giống như các cậu bé, sau khi đốt cháy kho thóc của kẻ thù mà không lấy đi một tấm ván hay một cái chốt cửa, có thể dừng lại một chút giữa cuộc trốn chạy để ăn cắp một vài quả táo ở vườn người hàng xóm hay người bạn. Em nhớ cho là, họ đói lắm. Họ đã đói từ ba năm rồi. Có lẽ họ đã quen như vậy. Dù gì đi nữa, họ vừa đốt cháy hàng tấn lương thực, quân trang, thuốc lá và rượu mạnh, và họ không lấy một thứ gì cho riêng mình dù chẳng có một lệnh nào cấm họ cướp bóc, và bây giờ họ quay về, với tất cả mọi thứ đó ở sau lưng họ, như hậu cảnh, như tấm phông: một sự sửng sốt đầy lo âu, một đám cháy nổ lớn; ngay cả bầu trời cũng đã phải rực lửa. Em có thể thấy, có thể nghe: tiếng la hét, tiếng súng nổ, tiếng gào thét chiến thắng hay hãi hùng, tiếng vó ngựa dồn dập, cây cối nổi bật trên ánh lửa đỏ rực như thể cũng vì sợ hãi mà đứng im, những đầu hồi nhọn của các ngôi nhà trông giống như những gò đống lởm chởm của mặt đất trong sự nổ tung cuối cùng. Lúc bấy giờ đó là một nơi chốn chật chội: em có thể cảm thấy, có thể nghe thấy trong bóng tối những con ngựa dừng lại bất thình lình nhưng đầu vẫn chồm ra phía trước; tiếng vũ khí va vào nhau loảng xoảng; tiếng xì xào quá ồn ào, tiếng thở nặng nhọc, những giọng nói vẫn còn đắc thắng; và sau lưng họ là số binh lính còn lại đang phi nước đại về phía tiếng kèn gọi tập hợp. Cái đó, em phải nghe, phải cảm: rồi em thấy. Em thấy, trước khi em nghe, tiếng súng nổ, những con ngựa trong ánh lửa đỏ đột ngột, thân đẫm mồ hôi, đầu lúc lắc, mắt hốt hoảng, lỗ mũi rung rung; rồi em thấy ánh phản chiếu của sắt thép, những bộ mặt xanh xao, hốc hác như những con bù nhìn sinh động đã không ăn uống được tất cả những gì mình muốn trong cùng một bữa ăn, từ cái ngày mà họ còn có thể nhớ được; có lẽ vài người trong bọn họ đã nhảy xuống ngựa, có lẽ một hay hai người đã vào trong chuồng gà. Tất cả mấy thứ này thì em thấy trước nghe tiếng súng nổ. Rồi mọi thứ trở nên tối đen lần nữa. Một phát súng, một phát một thôi. ‘Và dĩ nhiên ổng ở ngay, ngay trước mũi súng,’ Cinthy nói. ‘Đang ăn trộm gà. Một người ở tuổi ổng, con trai thì đã có vợ, đi vào cuộc chiến để giết tụi Yankee , vậy mà bị giết trong chuồng gà của người ta, trên tay còn đầy lông gà!’ Đang ăn trộm gà.” Ông nói với giọng cao, hứng khởi, như giọng con nít. Vợ ông nghe nhưng đã nắm chặt cánh tay ông: Suỵ...ttt! Sụy...ttt! Người ta đang nhìn anh kìa! Nhưng ông có vẻ không nghe nàng chút nào. Khuôn mặt gầy, bệnh hoạn của ông, và cặp mắt, đều lộ ra ít nhiều một vẻ rạng rỡ. “Vậy đó. Họ không biết ai đã bắn phát súng đó. Không thực sự biết được bao giờ. Họ không ra sức tìm cho ra. Có thể đó là một mụ đàn bà, chắc là vợ của một trong những tên lính miền Nam. Anh thích nghĩ như vậy. Vì như vậy thì đẹp. Bất cứ người lính nào cũng có thể bị kẻ thù giết trong khi say máu chiến đấu, bằng một vũ khí được chấp nhận bởi các trọng tài và các nhà làm ra những điều luật chiến tranh. Hay bị một người đàn bà giết trong phòng ngủ. Nhưng không bị giết bằng một khẩu súng săn, lại là súng bắn chim nữa chớ, trong một chuồng gà! Vậy thì có gì đáng ngạc nhiên không khi thấy thế gian này được phần lớn người chết cư ngụ? Chắc chắn là khi Chúa Trời nhìn đến những người nối nghiệp họ, Ngài sẵn sàng chia sẻ đứa Con của Ngài với thân phận làm người của chúng ta.”
“Suỵt! Suỵ...ttt! Người ta đang nhìn mình kìa!”
Rồi con tàu chạy chậm lại khi vào thành phố. Những khu ngoại ô tồi tàn bẩn thỉu trải dài rồi biến đi ngoài cửa sổ. Ông - một người đàn ông gầy ốm, ăn mặc hơi xốc xếch, nhưng còn mang trong người niềm nhiệt tình không suy giảm dành cho nhiệm sở đầu tiên và thiên hướng của mình - vẫn đưa mắt nhìn ra ngoài, và ông vây quanh, ông bao bọc và giữ gìn trái tim đầy lo âu của mình một cách thầm lặng, và ông nghĩ, một cách bình thản, là thiên đường chắc chắn phải có cái gì đó tương tự như hình dạng và màu sắc của bất cứ ngôi làng nào, ngọn đồi nào, căn nhà nào mà một tín đồ có thể nói: Cái này là của tôi. Tàu ngừng. Rồi những bước đi chậm chạp dọc theo hành lang toa tàu, thỉnh thoảng dừng lại vì mắt cứ nhìn ra ngoài, rồi xuống ke ga giữa những bộ mặt nghiêm nghị, lịch sự và biết suy xét: những giọng nói, những lời thì thầm, những câu nói nửa chừng dễ thương nhưng dè dặt, chưa phán xét gì cả - những câu nói không muốn biểu lộ gì hết (thôi, hãy nói thẳng ra đây) và tìm cách làm hại.
‘Mình đã chấp nhận điều đó mà,’ ông bây giờ nghĩ. ‘Mình tin là mình đã chấp nhận nó mà. Có lẽ mình đã không làm chuyện gì khác, ngoài chuyện chấp nhận đó, ôi lạy Chúa tôi.’ Quang cảnh trên mặt đất giờ hầu như không còn thấy được. Trời gần như tối hẳn. Đầu ông, biến dạng vì bị cái băng quấn quanh, thì không có bề sâu, không có sự rắn chắc; bất động, nó có vẻ như lơ lửng ở phía trên hai bàn tay của ông đang nắm tròn lại trông như hai đốm màu song sinh nhợt nhạt, đặt nằm trên mép cái cửa sổ đang mở. Ông khom người ra phía trước. Giờ thì ông đã có thể cảm thấy được hai cái khoảnh khắc đó sắp sửa chạm vào nhau: cái trước là toàn bộ cuộc đời ông tự tái diễn mỗi ngày giữa hoàng hôn và bóng đêm đậm đặc, và cái sau thì lơ lửng mà từ đó cái trong chốc lát sẽ bắt đầu bây giờ. Khi ông còn trẻ hơn, khi não bộ của ông còn quá nhanh nhạy để biết chờ đợi, vào lúc này, ông thỉnh thoảng cũng tự dối mình và tin rằng ông nghe thấy chúng trước khi ông biết là đã đến lúc.
‘Có lẽ đó là tất cả những điều mà mình đã làm, đã có thể làm từ trước tới nay,’ ông vừa nghĩ vừa nhớ tới những bộ mặt: bộ mặt của những người già đương nhiên còn hồ nghi khi thấy ông trẻ quá, và ganh tức vì phải trao nhà thờ vào tay ông, gần giống như người cha phải trao con gái mình cho chàng rể trong buổi lễ cưới: bộ mặt của những người già mang các nếp nhăn vì sự tích tụ lâu ngày, không hơn không kém, của những sự thất vọng và ngờ vực thường là mặt trái của bức tranh diễn tả những năm tráng kiện và được kính trọng của sự chín chắn nhờ tuổi tác - vả lại, cái mặt trái này thì cả đối tượng lẫn chủ nhân của bức tranh phải nhìn vào, không thể tránh nhìn được. ‘Họ đã làm phần việc của họ; họ đã tuân thủ các quy tắc,’ ông nghĩ. ‘Mình mới là người đã vi phạm chúng, đã thất bại. Có lẽ đó là một tội lớn nhất trong tất cả những tội chống lại xã hội, hay có lẽ chống lại đạo đức.’ Những suy tưởng của ông cứ được tiếp tục như vậy, lặng lẽ, bình thản, chúng lần lượt trôi qua đầu ông, lần lượt định hình, thầm lặng, không quả quyết, không trách móc, không đặc biệt hối tiếc gì. Ông thấy chính mình như một hình bóng giữa các hình bóng, nó thì ngược đời, đầy một thứ lạc quan và vị kỷ giả tạo, nó tin rằng ông sẽ tìm thấy ở bộ phận này của cái giáo hội từng gây ra nhiều sai lầm nhất sự tỉnh mộng, ngay giữa những đam mê mù quáng, những tiếng nói, những bàn tay chìa ra, của con người, những cái mà ông đã không thể tìm thấy trong sự sùng bái xa rời đạo hữu của giáo hội trên thế gian. Ông có cảm tưởng là ông luôn luôn thấy điều đó: rằng cái đang phá hủy giáo hội không phải là những sự dò dẫm của những người ở trong tìm cách ra khỏi nó hay của những người ở ngoài tìm cách vào trong nó, nhưng là những kẻ nhà nghề kiểm soát nó, những kẻ đã tháo đi những quả chuông ở các tháp nhà thờ. Ông dường như thấy các tháp chuông này, vô tận, không trật tự, trống rỗng, tượng trưng, hướng lên trời cao, không phải bằng sự mê ly hay say đắm nhưng bằng sự khẩn nài, đe dọa và kết tội. Ông dường như nhìn tất cả những ngôi nhà thờ trên thế giới như một cái thành lũy, như một trong những chướng ngại vật thời Trung cổ đó, tua tủa những cọc nhọn vô dụng, được dựng lên để chống lại sự thật và chống lại sự an bình được mở ra cho tội lỗi cũng như cho sự tha thứ, và cũng là cuộc sống con người.
‘Và mình đã chấp nhận điều đó,’ ông nghĩ. ‘Mình đã ưng thuận. Không! Mình đã xử sự tệ hơn: mình phục vụ nó. Mình phục vụ nó bằng cách sử dụng nó để thỏa mãn nỗi ham muốn của riêng mình. Mình đã tới đây, nơi mà những bộ mặt đầy bối rối, khát khao và háo hức chờ đợi mình, chờ đợi để tin. Mình đã không thấy chúng. Nơi mà những bàn tay chìa ra về phía những gì mà chúng tin là mình sẽ mang lại cho chúng. Mình đã không thấy chúng. Mình đã mang theo với mình một lòng tin, có lẽ lòng tin đầu tiên của con người, mà trước đó mình đã tự nguyện chấp nhận trước Chúa. Mình đã xem lời hứa đó, lòng tin đó chẳng có giá trị gì nhiều đến nỗi mình thậm chí không biết là mình đã chấp nhận nó trước đó. Và nếu đó là tất cả những gì mà mình đã làm cho vợ mình, thì mình có thể trông đợi cái gì đây? Mình hẳn có thể trông đợi cái gì đây ngoài sự nhục nhã, sự tuyệt vọng và khuôn mặt của Chúa, đầy xấu hổ, quay đi chỗ khác? Có lẽ vào lúc mà mình thố lộ với nàng không những nỗi khao khát mãnh liệt của mình mà còn cái thực tế là không bao giờ, không bao giờ nàng có thể giúp mình thỏa mãn nó; có lẽ vào lúc đó mình đã trở thành tên cám dỗ, tên sát nhân đối với nàng, tác nhân và công cụ của nỗi ô nhục và cái chết của nàng. Dù gì đi nữa, chắc chắn phải có những chuyện mà con người không thể nào quy trách nhiệm cho Chúa, không thể nào buộc tội Ngài. Phải có những chuyện như vậy chớ.’ Bây giờ sự suy nghĩ của ông bắt đầu chậm lại, chậm lại như cái bánh xe bắt đầu chạy trên cát mà cái trục, cái xe, cái động cơ đẩy nó, chưa nhận ra.
Ông dường như tự nhìn mình giữa những khuôn mặt, bao giờ ông cũng bị vây quanh, bao bọc ở giữa những khuôn mặt, như thể ông tự nhìn mình trong bục giảng kinh của riêng ông từ phía cuối nhà thờ, hay như thể ông là một con cá trong chậu. Và hơn thế nữa: những khuôn mặt đó có vẻ là những tấm gương soi mà ông nhìn mình trong đó. Ông biết tất cả những khuôn mặt đó; ông có thể đọc trên chúng những hành động của mình. Ông dường như thấy phản chiếu trên đó bóng dáng của một anh hề khoa tay múa chân lung tung: một tên lòe bịp rao giảng một cái gì còn tệ hại hơn tà giáo, không đếm xỉa gì đến những người mà hắn đã giành giựt trước sân khấu của họ: thay vì đưa ra cái hình thánh giá, biểu tượng của lòng trắc ẩn và tình thương thì hắn lại đưa ra một tên đâm thuê chém mướn được thả lỏng và vênh váo, bị giết bằng súng săn trong một cái chuồng gà yên bình, vào lúc tạm nghỉ trong cái nghề giết mướn của riêng y. Cái bánh xe của sự suy nghĩ quay chậm lại; cái trục bây giờ biết điều này nhưng chính cái xe thì vẫn chưa biết.
Ông thấy những khuôn mặt bao quanh ông thì phản chiếu sự kinh ngạc, sự bối rối, rồi sự phẫn nộ, rồi sự sợ hãi, như thể họ nhìn xa hơn những trò hề rồ dại của ông, và thấy phía sau ông Thánh Nhan [144] tối thượng và chung cuộc của chính Ngài đang nhìn xuống ông từ trên cao mà ông lại không hay biết, lạnh lùng và khủng khiếp trong sự an nhiên toàn tri của Ngài. Ông biết là họ thấy hơn thế nữa: là họ thấy cái lòng tin đó, mà ông đã tỏ ra không xứng đáng, bây giờ được dùng để trừng phạt ông; ông bây giờ có cảm tưởng là ông nói chuyện với Thánh Nhan: “Có lẽ con đã chấp nhận nhiều hơn những gì mà con đã có thể làm. Nhưng đó có phải là một trọng tội không? Vì đó mà con phải bị trừng phạt sao? Không lẽ con phải mang trách nhiệm đối với những gì nằm ngoài khả năng của con sao?” Và Thánh Nhan: “Đâu có phải vì để hoàn thành việc đó mà con đã lấy