Chương 10 giả thuyết hình tròn
Cố Hạo ngồi trên băng ghế hành lang của Phòng Giáo dục và Đào tạo quận, một lần nữa đưa tay mò lấy điếu thuốc trong túi.
Tấm biển “Cấm hút thuốc” dán trên tường đập vào mắt, ông đang băn khoăn không biết có nên vào nhà vệ sinh để hút không thì cửa văn phòng bật mở, một người đàn ông đứng tuổi đeo kính ló đầu ra, vẫy tay, “Bác Cố?”
Cố Hạo vội đáp vâng và mau chóng theo vào. Người đeo kính tự giới thiệu mình họ Từ, phó ban Đức dục, “Nghe bên hành chính cho biết, bác đang tìm một học sinh?”
“Vâng.” Cố Hạo thở dài. “Tôi là cán bộ hưu trí. Mấy hôm trước trời mưa to ấy, tôi bị ngã trên đường về, một cô bé học cấp ba đã đưa tôi tới tận nhà. Tôi hỏi cháu nó tên tuổi, trường sở để viết thư cảm ơn và gửi quà khen ngợi tinh thần người tốt việc tốt. Nhưng cháu nó không chịu đưa, chớp mắt đã đi mất.”
Phó ban Từ đẩy gọng kính, “Ừm, giúp người không cần ai ghi nhận. Đúng là một học sinh ngoan. Rồi ý bác là gì?”
“Tôi nghĩ một đứa trẻ như thế nên được biểu dương làm tấm gương cho cộng đồng, đúng không?”
“Nhưng bác lại không biết đó là ai.” Phó ban Từ xòe tay. “Tôi cũng không thể giúp bác tìm được.”
“Cô bé mặc đồng phục kiểu dáng thể thao tông xanh lam.” Cố Hạo dùng tay mô tả trên người mình. “Loại xanh trắng đan xen, cạnh ngoài ống quần có sọc trắng.”
Phó ban Từ suy nghĩ chốc lát rồi lấy trong ngăn kéo ra một xấp ảnh, chọn một tấm đưa cho Cố Hạo, “Giống thế này phải không ạ?”
Phông nền tấm ảnh là một sân khấu với biểu ngữ giăng ngang “Liên hoan ca múa nhạc các trường tiểu học và trung học quận Hồng Viên kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5”. Đằng trước là ba hàng học sinh đứng từ cao xuống thấp đang biểu diễn đồng ca. Tất cả đều mặc đồ thể thao xanh trắng đan xen.
“Vâng, chính nó.”
“Trung học Số 4.” Phó ban Từ cất tấm ảnh. “Bác đến trường hỏi xem.”
“Ở chỗ thầy thì không tra được sao?”
“Cũng không phải là... không tra được...” Phó ban Từ do dự. “Nhưng đến tận trường tìm thì dễ dàng hơn chứ?”
“Thầy phó ban ạ, chuyện là thế này.” Cố Hạo khẩn khoản nói. “Tôi là một ông già cô đơn, không gia đình không con cái. Đứa trẻ đó đã xuất hiện giữa lúc tôi cần được giúp đỡ nhất. Tôi nghĩ rằng tinh thần người tốt việc tốt này một mặt xuất phát từ cách dạy dỗ của nhà trường, mặt khác cũng không thể tách rời sự quan tâm thường xuyên về mặt đạo đức của Phòng Giáo dục chúng ta. Nếu phòng đứng ra biểu dương cháu nó, thì chẳng phải càng nêu cao được thành quả tốt đẹp của công cuộc xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa ư?”
Phó ban Từ bật cười vui vẻ, “Bác Cố, trước khi nghỉ hưu bác công tác ở đâu? Phát biểu nghe hùng hồn quá.”
“Lời cảm ơn của tôi là chân thành đấy. Tôi muốn cảm ơn học sinh đó, cảm ơn nhà trường và Phòng Giáo dục.” Cố Hạo nghiêm túc nói. “Thầy tốt mới có trò ngoan, điều này tôi rất hiểu.”
“Được.” Phó ban Từ đứng Dãy tủ đựng hồ sơ bằng kim loại sơn xám xếp dọc các bức tường của kho lưu trữ. Phó ban Từ ra hiệu cho Cố Hạo ngồi xuống bàn làm việc, vừa đếm tủ vừa lẩm bẩm, “Trường Kĩ thuật Công nghiệp Chế tạo Thiết bị... Trường Trung học Số 2... Trường Trung học Số 4...” Cuối cùng mở một trong các tủ. “Chính sách nhân sự... Quản lý biên chế... Đánh giá chức danh... Quản lý học sinh... Năm 1992... Đây rồi.”
lên. “Bác đi với tôi sang kho lưu trữ đi.”
Phó ban Từ rút ra một tập hồ sơ dày cộp bìa cứng và lật xem, “Ừm, bác có nhớ mặt học sinh đó không?”
Cố Hạo quả quyết đáp, “Tôi nhớ. Tóc dài, mắt một mí, mặt trái Xoan.”
“Vậy bác tự tìm đi.” Phó ban Từ chìa tập tài liệu cho Cố Hạo. “Mười lăm lớp, tổng cộng hơn 600 học sinh, mất công đấy!”
Cố Hạo đáp vâng và cầm lấy tập tài liệu bìa cứng. Đây là hồ sơ học sinh, sắp xếp theo thứ tự khối và lớp. Cố Hạo lật từng trang, không nhanh không chậm. Phó ban Từ mau chóng mất hứng, quay sang nói chuyện phiếm với cô văn thư trẻ tuổi trong phòng lưu trữ.
Cố Hạo bắt đầu tăng tốc, nhảy thẳng lên khối Mười một của trường, bỏ qua các nữ sinh không phải họ Tô và các nam sinh. Mười mấy phút sau, ông nhìn thấy tên Tô Lâm ở danh sách lớp 11D. Tim đập dữ dội, ông đưa mắt sang ảnh dán trên hồ sơ, và lập tức cau mày. Có một dấu vuông đỏ đóng choán gần hết khuôn mặt cô bé, trông như bôi máu. Trong con dấu là chữ “Thôi học” rất rõ ràng, đồng thời đường nét khuôn mặt lại bị làm nhòe đi rất khó nhận diện.
Cố Hạo nhìn sang cột “Địa chỉ nhà” và thở dài. Đúng vậy, là cô bé. Ông gấp mạnh tài liệu lại.
Âm thanh khiến phó ban Từ ngoái đầu nhìn sang, “Sao hả bác, có tìm được không ạ?”
Cố Hạo bối rối nói, “Không, chẳng thấy ai giống cả.”
Phó ban Từ hơi kinh ngạc, “Hay là học sinh cấp hai? Trẻ con ngày nay lớn sớm lắm.”
“Thầy nói vậy...” Cố Hạo vò đầu bứt tóc. “Tôi thực sự không xác định được nữa.”
“Thế thì làm sao đây?” Phó ban Từ nhìn lại tủ đựng hồ sơ bằng sắt. “Xem tiếp trường cấp hai nhé? Khối lượng tìm kiếm sẽ đồ sộ đấy.”
Cố Hạo lộ vẻ xấu hổ, “Vâng.”
“Bác Cố ạ, chỗ chúng tôi đây bận lắm.” Phó ban Từ cân nhắc một lát. “Để tôi liên lạc với trường Số 4, họ tìm hộ sẽ dễ dàng hơn. Bác nghĩ sao?”
Cố Hạo gật đầu, “Vâng, phiền thầy.”
Phó ban Từ ghi lại tên, số điện thoại và địa chỉ của Cố Hạo, lịch sự đưa ông đến tận cổng tòa nhà Phòng Giáo dục. Vừa ra tới bên ngoài, nụ cười vẫn đeo trên mặt Cố Hạo biến mất. Trường Số 4 không có tài liệu về Tô Lâm, hồ sơ học sinh ở Phòng Giáo dục quận thì ghi nhận cô bé bỏ học. Sự việc càng lúc càng khó hiểu.
Con trai út nhà họ Tô tự dưng được đi học, rõ ràng là đã có hộ khẩu. Tô đăng kí bằng cách nào? Hay là, có ai giúp hắn? Tô Lâm mất tích, em cô bé bất thần được hợp thức hóa, liệu có mối liên hệ nào giữa hai sự kiện này không?
Thắc mắc đầy một bụng, khi định thần lại, Cố Hạo thấy mình đã về tới khu tập thể. Ông dừng ở sân, nhìn ngó xung quanh. Trưa tròn đứng bóng, nắng gay nắng gắt. Cố Hạo quét mắt qua các dãy nhà, kho chứa, cột điện thoại, đình hóng mát và những con đường lóa nắng. Ông không biết mình đang tìm kiếm cái gì, trong lòng chi ấp ủ một mong đợi nhỏ nhoi: cô bé xanh xao yếu ớt bỗng từ đầu đó đi ra, cúi đầu chào “Bác Cố”.
Ông sẽ phản ứng thế nào? Có thể chi ậm ừ, bắt tay sau lưng đi thẳng về nhà. Có thể là hất cằm ra hiệu cho cô bé đi vào bếp chung tìm hai chiếc đĩa úp vào nhau.
Tuy nhiên, nhìn đến đâu cũng chỉ thấy trống vắng. Cố Hạo khẽ thở dài, thằng người dậy đi về phía lối lên hành lang.
Trong phòng mát hơn hẳn bên ngoài. Cố Hạo lau mồ hôi trên mặt, uống một cốc to nước trắng, châm điếu thuốc, nằm trên giường thẫn thờ nhìn ra cửa sổ.
Phía sau khu nhà ở là một dãy phòng thấp xây bằng gạch và gỗ, dùng làm kho chứa cho các hộ dân trong khu tập thể. Ngăn cách giữa khu nhà và dãy kho là vài bồn hoa bằng xi măng. Một số bồn trồng hành lá, rau diếp và cải dầu, trông qua là thấy chăm sóc rất cẩn thận. Bồn hoa ngay dưới cửa sổ nhà Cố Hạo không ai trông coi, đủ thứ hoa dại không tên mặc sức mọc lên. Nhìn qua lộn xộn, nhưng cũng phảng phất ít nhiều sức sống. Cố Hạo ngắm khóm hoa dại to tướng la đà trong gió, chợt nghĩ những bó hoa gài ở tay nắm cửa có lẽ từ đây mà ra. Ông không giỏi về hoa cỏ, cũng không thể nhận biết được chúng có cùng loài hay không, nhưng vẫn lờ mờ nhớ được những bông hoa đỏ, vàng, trắng và xanh lá cắm trong lọ hôm nào. Ông nhìn vỏ chai rượu trên bàn, đáy chai chỉ còn vệt nước khô và vài chiếc lá héo cuộn tròn. Cố Hạo tưởng tượng ra cảnh cô bé cúi mình trên bồn hoa, kiên nhẫn hái từng bông bó lại. Cứ thế, ông ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Thức dậy trời đã tối. Cố Hạo nằm yên trên giường một lúc, đợi cho đầu óc tỉnh táo hằn, cũng là lúc thấy đói. Ông ra khỏi giường, tay xoa xoa bụng. Từ khe cửa bay vào mùi chiên rán thơm lừng. Cố Hạo hít hà, càng thấy đói thêm. Ông mở tủ lạnh lấy hai quả trứng, đẩy cửa bước ra bếp.
Tô đang lúi húi rán thịt và khoai tây. Cố Hạo chào hỏi rồi đập trứng vào bát, xới một bát cơm nguội trong nồi cơm điện, đặt chảo lên bếp, bật gas. Ông với tìm chai dầu và chỉ thấy tay khua vào khoảng không, đang ngẩn người thì Tô lúng túng chìa chai dầu sang, “Nhà hết đầu, tôi mượn tạm bác một chút.”
Cố Hạo nhìn ra sau lưng hắn, thấy cái tô đậy nắp đựng đầy dầu. Ông cụp mắt xuống, “Chuyện nhỏ.”
Đun nóng dầu, đổ trứng vào xào, thêm cơm rồi đảo lên xuống. Cố Hạo dùng xẻng dầm thật mạnh xuống những chỗ cơm vón cục, cảm giác vô cùng tức ngực khó thở.
Đúng lúc này, cửa căn 101 bất ngờ bật mở, cậu bé nức nở lao sang với Tô.
“Cẩn thận kẻo bỏng.” Tô thắc mắc nhìn con trai. “Làm sao thế?”
“Mẹ đánh con.” Cậu bé núp sau lưng Tô. “Bố, cứu con.”
Liền đó, vợ Tô cũng lao sang, mặt mày đỏ gay, mồm còn chửi bới. Thấy trong bếp có cả Cố Hạo, thị hơi sửng sốt, gật đầu với ông rồi đưa tay chộp lấy cậu bé.
“Sao lại đánh con?” Tô buông xẻng, giơ tay ngăn vợ. “Có gì thong thả nói!”
“Thong thả với nó ích gì?” Người đàn bà nóng nảy. “Về đến nhà là chơi. Bài tập không làm một chữ! Ngày mai giải thích với cô giáo thế nào?”
Tô ngoái hỏi con trai đằng sau, “Sao không làm bài tập?”
Cậu bé thút thít, ngậm chặt miệng, ấm ức nhìn mẹ.
“Tao nói cho mày biết, hôm nay không làm xong bài thì nhịn, cũng đừng hòng rớ tới đống đồ chơi!” Dứt lời, người đàn bà trưng mắt nhìn con trai rồi trở vào phòng.
Cậu bé túm lấy tay áo bố lắc qua lắc lại, “Bố... xem đấy...”
“Không sao, ăn cơm đã.” Tô xoa đầu con. “Nhưng ăn xong phải làm bài tập.”
“Không.” Cậu bé lại nức nở. “Chẳng giống chị giảng gì cả.”
“Là sao?” Tô trố mắt. “Chị con cũng học như thế mà.”
“Chú Tô.” Cố Hạo ngắt lời hắn, trỏ cái chảo sắt phía sau.
Tô ngoái đầu nhìn, đáy chảo đã cháy sém. Hắn vội tắt gas, cầm xẻng cố lật lên, nhưng mùi khét càng lúc càng nồng nặc. Tô văng tục, xúc món thịt rán khoai màu sắc lộn nhận ra đĩa rồi đưa cho con, “Bưng vào đi.” Đoạn hắn dùng xẻng cào đáy chảo, âm thanh chói cả tai.
Cố Hạo trút cơm rang trứng ra, châm một điếu thuốc, lại lấy một điểu khác đưa cho hắn, “Ngâm nước cho mềm ra đã. Cào mạnh quá hỏng chảo.”
Tô nhận điếu thuốc, ném chảo vào bồn rửa, ghé vào gần Cố Hạo châm thuốc, rít một hơi dài.
“Cháu nhà chú đi học rồi đấy à?”
“Ừ.” Tô buồn bực dựa vào thành bếp. “Trước đây không bận tâm chuyện này, nhưng giờ cứ rối rít tít mù cả lên.”
“Trước đây chị nó dạy ở nhà phải không?”
“Phải.” Tô khẽ búng tàn thuốc. “Bài nó học tôi với mẹ nó đều chả hiểu, lo sốt cả vó.”
Cố Hạo nhìn hắn qua làn khói, “Cháu lớn đâu?”
“Đến nhà họ hàng ở miền Nam.” Tô cúi đầu. “Tôi nhớ có kể với bác rồi mà nhỉ.”
“Hộ khẩu cũng chuyển đi luôn hả?” Cố Hạo ra vẻ lơ đãng. “Nếu không thì cháu nhỏ cũng không nhập hộ khẩu được.”
“Ừ.” Tô bóp điếu thuốc, xem chừng không muốn tiếp tục câu chuyện. “Bác Cố, tôi về ăn cơm đây.”
“Làm sao nhập hộ khẩu được vậy?”
Tô ngẩng lên, “Bác hỏi làm gì?”
“Tôi là lão già neo đơn mà.” Cố Hạo xòe hai tay. “Tôi định xem họ hàng có đứa trẻ nào thì nhận nuôi, làm chỗ nương tựa sau này.”
Tô chớp mắt, “Hay đấy!”
“Nhưng vẫn vướng mắc vụ hộ khẩu, chẳng biết đường đi lối lại thế nào, nên mới muốn học hỏi kinh nghiệm của chú.”
“Tôi cũng là có người giúp thôi.” Tô do dự. “Để rồi tôi hỏi thăm hộ.”
“Được.” Cố Hạo chắp tay. “Không gấp, tiện thì hỏi hộ tôi. Lo lót cần bao nhiêu cứ bảo.”
Tô gật đầu quay vào phòng. Cố Hạo vứt tàn thuốc đi, mang cơm rang trứng về, ngồi xuống mép giường, bật tivi, xúc một miếng cơm rồi lập tức buông thìa.
Quên thêm muối, chán chưa!
Vương Hiến Giang bước vào văn phòng tạm thời của ban chuyên án. Trong phòng chỉ có Thai Vỹ, đang đứng trên ghế đẩu, cầm bút đỏ chấm vạch trên tấm bản đồ thành phố khổ lớn. Vương lặng lẽ bước tới, nhìn một lúc mà không nói lời nào, và nhận ra Thai Vỹ đang phác lại phán đoán hành trình của ba nạn nhân vào ngày họ mất tích.
“Có cả trên máy chiếu rồi còn gì?”
Tiếng nói vang lên sau lưng làm Thai Vỹ giật thót suýt ngã khỏi ghế. Mất một lúc xoay trở lấy lại thăng bằng, anh ngoái đầu nhìn, lập tức thở phào nhẹ nhõm, “Hết cả hồn!”
Vương vẫn tỉnh như không, “Đang hỏi anh đấy.”
“À, tại xem không tiện lắm.” Thai Vỹ gãi đầu. “Bản đồ dễ nắm bắt hơn.”
Vương khịt mũi ngó quanh, “Những người khác đâu?”
“Buổi sáng có mấy người đến, rồi lại lục tục đi cả.” Thai Vỹ nhảy ra khỏi ghế. “Con đoán là còn bận việc khác. Ai chả đang theo vài vụ.”
“Mẹ nó!” Vương đập mạnh tập tài liệu đang cầm xuống bàn. “Thế vụ này thì không cần giải quyết nữa hả?”
Thai Vỹ thông tay, không đáp.
Vương chợt hiểu “nắm bắt” nghĩa là gì. Tuy nhiên, dễ nắm bắt đến đâu cũng vẫn có thể chọn cách phớt lờ. Hơn nữa, về tình về lý đều không thể chỉ trích các đồng nghiệp vì chểnh mảng ở đây. Thay vì lãng phí thời gian cho một vụ án không đầu không cuối, tốt hơn hết nên tham gia vào các vụ án có manh mối phong phú và căn cơ vững vàng hơn. Ông đứng yên một lúc, rồi xua tay, “Hai chúng ta cũng làm được, đi thôi.”
Thai Vỹ chớp mắt, “Đi đâu?”
“Đi hỏi thăm.” Vương lại cầm tập tài liệu lên. “Hôm nay đi kiểm tra quan hệ xã hội của nạn nhân, hãy bắt đầu với nạn nhân đầu tiên... Tên gì nhi?”
“Đỗ Viện.”
“Ừ, bắt đầu từ cô ta đi.” Vương quay người đi ra cửa. Được vài bước, ông nhận ra đồ đệ không đi theo mình, bèn quay lại nhìn anh. “Sao lại thất thần thế?”
“Thầy ơi,” Thai Vỹ lộ vẻ khó xử. “Con nghĩ...”
“Nói thẳng ra đi!”
“Điều tra theo hướng đó, con nghĩ không tác dụng đâu.”
Vương nhìn đồ đệ một lúc, “Tại sao?”
“Mấy nạn nhân này không liên quan gì đến nhau.” Thai Vỹ như thể phải thu hết can đảm. “Cho dù có làm rõ được quan hệ xã hội của họ, cũng rất ít khả năng tìm được điểm giao...”
“Thế theo anh phải làm sao?” Vương trừng mắt rống lên. “Cứ mốc mỏ đợi?” Ông tung chân đá đổ một chiếc ghế trước mặt. “Cứ ru rú họp ở đây thì phá án được hả?”
Thai Vỹ cuống lên, “Thầy đừng giận, con chỉ nghĩ... chúng ta nên đổi hướng tư duy.”
Đứng trước tấm bản đồ khổng lồ, Thai Vỹ vốn cao to mà trông cũng nhỏ bé hẳn đi. Vương lướt mắt qua vai anh, dừng lại ở những đường cong màu đỏ. Ông thình lình cúi mình dựng ghế dậy, và ngồi xuống, “Được rồi, nói đi.”
Thai Vỹ gãi gáy, ấp úng mất một lúc.
Vương lại nổi cáu, “úp mở mãi, có gì nói đi!”
“Không phải úp mở,” Thai Vỹ đỏ mặt. “Vụ án này khác với các vụ chúng ta từng làm, ngoài lai lịch ba nạn nhân thì không còn manh mối nào khác, không có nhân chứng, thậm chí địa điểm gây án ở đâu chúng ta cũng không biết, chỉ biết xác bị ném xuống cống ngầm. Do đó, các phương pháp cũ chưa chắc đã hữu hiệu.”
Vương chằm chằm nhìn đồ đệ, “Cứ nói tiếp đi.”
“Hôm qua con đến Đại học J, ở đấy có một giáo sư tên là Kiều Doãn Bình, dạy môn tâm lý tội phạm.”
“Thầy biết người này.” Vương gật đầu, lấy một điếu thuốc chấm lửa. “Anh ta từng giúp bên mình phân tích tâm lý tội phạm.”
“Vâng. Người này giỏi lắm luôn ấy.” Mắt Thai Vỹ sáng lên. “Nghe xong tình hình vụ án, thầy ấy đề xuất một phương pháp mới gọi là Định hình Địa lý [*] .”
“Định hình...” Vương cau mày. “Địa lý?”
“Vâng. Nghe nói là nghiên cứu của người Mỹ.” Thai Vỹ thoáng suy tư, rồi lấy sổ tay trong túi ra. “Học bài nào xào bài ấy, để con trình bày cho thầy nghe luôn.” Anh đi đến chỗ bản đồ. “Bất kể là giải quyết vụ án nào, mục tiêu cuối cùng vẫn là tìm ra thủ phạm, đúng không?”
Vương lạnh lùng nói, “Rườm lời!”
“Hiện tại chúng ta đều biết một điều, nghi phạm dứt khoát phải sống ở thành phố này.” Thai Vỹ trỏ bản đồ sau lưng. “Nói cách khác, hắn ở trong phạm vi của tấm bản đồ này.”
“Đừng lan man nữa!”
“Theo như con hiểu, tác dụng của Định hình Địa lý là tìm người. Nói thế nào nhỉ?” Thai Vỹ giở sổ tay. “Phát hiện ra không gian sinh hoạt và quy luật hành vi của tên tội phạm thì sẽ xác định được vị trí của hắn.”
“Cụ thể hơn đi?”
“Có vài tiền đề cơ bản, con xin giới thiệu với thầy trước.” Thai Vỹ cầm sổ tay, đọc tuần tự. “Thứ nhất, đa số tội phạm không chủ động lựa chọn địa điểm gây án, nhưng lựa chọn ngẫu nhiên ấy dường như đều gắn liền với nhận thức của hắn về không gian. Ví dụ, tội phạm sẽ chọn một địa điểm khiến hắn cảm thấy an toàn và có thể kiểm soát diễn biến của tình hình. Ví dụ, khu vực gần nơi ở và nơi làm việc, tuyến đường qua lại giữa hai điểm này hoặc một nơi chốn và địa hạt hắn quen thuộc.”
Vương xoa cằm, “Có lý.”
“Thầy cũng nghĩ thế ạ?” Được khích lệ, Thai Vỹ nói dõng dạc hơn. “Thứ hai, nếu là gây án hàng loạt, vụ đầu tiên thường xảy ra ở nơi làm việc hoặc nơi ở của thủ phạm. Hơn nữa, khi bắt đầu phạm tội, hắn sẽ khá lúng túng, ý thức phản điều tra không cao và sẽ để lại nhiều manh mối, tang vật hơn. Khi tiếp tục gây án, các ngón nghề của hắn trở nên thành thạo, lòng tự tin ngày một mạnh mẽ. Hắn sẽ dám thử sức ở những địa điểm mới lạ.”
Vương châm điếu thuốc khác, “Ví như đi xa hơn để gây án?”
“Đúng ạ. Mở rộng phạm vi thủ ác.” Thai Vỹ hơi khoái chí, nhưng trông vẻ mặt nghiêm túc của thầy, anh liền ngay ngắn lại. “Một nhà tâm lý học tội phạm người Mỹ tên là Canter đề xuất Giả thuyết Hình tròn [*] . Ông ta nối hai địa điểm gây án xa nhất trong một chuỗi các vụ án tương tự, dùng đường nối này làm đường kính, từ đó vẽ một vòng tròn có thể bao gồm tất cả các vị trí gây án.”
Thai Vỹ cố ý dừng lại để gây tò mò. Vương chỉ giương mắt nhìn, không buồn hé môi. Thai Vỹ tẽn tò, tiếp tục trình bày, “Tội phạm sống ở trong vòng tròn này, chưa biết chừng còn ở sát tâm luôn ấy.”
Vương nhướng mày, “Tại sao?”
“Lần đầu tiên gây án không nhiều khả năng chọn nơi gần nhà, vì rủi ro bại lộ rất lớn. Vì thế khoảng cách từ nơi ở hoặc nơi làm việc đến địa điểm gây án có thể được coi là khoảng cách vừa phải nhất. Khi hắn phạm tội lần thứ hai, địa điểm gây án lần đầu đã không còn an toàn nữa, nên hắn sẽ...”
“... chọn hướng đi khác mà vẫn giữ khoảng cách vừa phải.” Vương lẩm bẩm.
Thai Vỹ búng tay, “Khoảng cách tương đương, phương hướng khác nhau. Rõ ràng là tạo thành một đường tròn mà. Thầy Kiều còn đề cập đến một khái niệm khác là ‘vùng đệm’...”
“Rồi để làm cái quỷ gì?” Vương đột ngột ngắt lời. “Có tác dụng gì với chúng ta không?”
Thai Vỹ sửng sốt, “Con... Ban nãy thầy cũng...”
“Tiền đề phân tích của Định hình địa lý là phải có địa điểm phạm tội rõ ràng.” Vương thẳng thừng nói. “Chúng ta chỉ biết nơi vứt xác là cống ngầm. Còn thằng khốn đó tiếp xúc với nạn nhân thế nào, khống chế nạn nhân rồi hiếp dâm và sát hại con người ta ở đâu... Chúng ta hoàn toàn không biết.”
“Đừng vội thầy.” Thai Vỹ trỏ bản đồ. “Con đang phân tích đây thôi.”
Vương trừng mắt, “Đang phân tích?”
“Đúng.” Thai Vỹ gập ngón tay đếm. “Hiện tại chúng ta đã nắm được sơ bộ về ba nạn nhân: nơi cư trú, nơi công tác, sinh hoạt hằng ngày, địa điểm xuất phát hôm mất tích... Ví dụ, Tôn Huệ, đường Huệ Dân, phố Phong Thu, đường Tiểu Nam Nhất... Cô ấy gặp nạn trong khoảng ba con đường này thôi.”
“Rồi sao?”
“Chúng ta có thể xác định địa điểm gây án tiềm năng nhất thông qua việc kiểm tra thực địa ba đường này.”
“Đấy là phân tích hả? Đấy là đoán mò!”
“Thì còn cách nào nữa?” Thai Vỹ xòe hai tay. “Có cách nào tốt hơn chăng?
Vương suy nghĩ một lát, xoa mặt thở dài. “Đi thôi.” Ông đứng dậy. “Đi một vòng xem sao.”
Thai Vỹ lập tức tươi tinh, “Ra đó phải trông vào kinh nghiệm phong phú của thầy rồi.”
Vương vẫn cau có, “Dẹp!”
Đường gần trụ sở công an thành phố nhất là đường Huệ Dân. Sau khi thảo luận với Thai Vỹ, Vương quyết định xem xét vị trí mất tích của Tôn Huệ trước.
Điểm đầu: Trường Mẫu giáo Số 1 cơ quan trực thuộc thành phố.
Điểm cuối: Tòa 4 số 22 đường Tiểu Nam Nhất, quận Bắc Quan.
Ngồi ở ghế phụ lái, Vương nhìn về phía cửa trường Mẫu giáo Số 1, rồi nhìn sang đường Huệ Dân cách đó vài chục mét. “Bình thường cô ấy về nhà thế nào?”
“Đồng nghiệp của Tôn Huệ cho biết, phương tiện đi lại thường ngày của cô ấy là xe đạp, nhìn chung là đi một mình. Hôm mất tích, cô ấy vẫn tan làm bình thường và rời trường vào khoảng 5 giờ 30 phút chiều.” Thai Vỹ trỏ ra giao lộ phía trước. “Lộ trình quen thuộc là rẽ trái ở đây và đi sang đường Huệ Dân.”
“Đi xem.” Vương nói. “Đi sát vào lề, lái chậm thôi.” Chiếc Jeep Bắc Kinh từ từ chạy vào đường Huệ Dân. Thai Vỹ lái xe, Vương nhìn chằm chằm sang lề đường, ánh mắt lần lượt quét qua hàng rào, sạp báo, quầy hoa quả, chung cư. Thỉnh thoảng ông bảo Thai Vỹ dừng lại, giở bản đồ xem xét hướng đi của một hẻm nhỏ, và tiếp tục đi sau khi loại trừ khả năng Tôn Huệ rẽ vào đây.
Mười mấy phút sau, chiếc Jeep ra đến ngã tư đường Huệ Dân và phố Phong Thu. Đây là một trong các trục chính của thành phố, đường sá rộng rãi, tấp nập xe cộ và khách bộ hành.
“Thầy ạ, Tôn Huệ biến mất trên đường đi làm về.” Thai Vỹ tấp xe vào lề. “Thời gian có lẽ là từ 5 giờ 30 phút đến 6 giờ, cao điểm buổi tối, đường này rất nhộn nhịp, không phù hợp làm địa điểm gây án.”
“Bắt cóc là không thể rồi.” Vương xoa xoa cằm. “Tự nguyện đi theo thì sao?”
“Không hợp lý ạ.” Thai Vỹ suy nghĩ một lúc. “Lúc trước chúng ta đã từng phân tích, tên khốn đó hẳn phải là thu nhập thấp, ăn mặc nói năng đều chẳng ra sao. Tôn Huệ sẽ cun cút đi theo người ta ư?”
“Quả là tắc ở chỗ này, không chỉ với cô ấy, mà với cả hai nạn nhân còn lại nữa.” Vương như đang nói với chính mình. “Hung thủ tiếp xúc với họ bằng cách nào?”
Thai Vỹ không nói gì, kiên nhẫn chờ chỉ thị tiếp theo.
Sau nghĩ hồi lâu, Vương xua tay, “Trước tiên, theo ý tưởng bắt cóc, tìm xem có nơi nào hẻo lánh không.”
Thai Vỹ đáp vâng, nổ máy chạy nhanh dọc phố Phong Thu, sau đó rẽ sang đường Tiểu Nam Nhất. Vương chỉ liếc qua là biết không cần thiết phải từ tốn xem xét nữa, ven đường toàn tường bao khá cao, chỉ có hai chỗ rẽ, và nhà Tôn Huệ còn cách đó không xa.
Chẳng mấy chốc chiếc Jeep chạy đến điểm cuối, số 22 đường Tiểu Nam Nhất quận Bắc Quan. Đây là khu tập thể của xưởng chế tạo máy thử nghiệm vật liệu, căn hộ nhà họ Tôn đang ở là do xưởng phân cho cha Tôn Huệ hồi ông còn sống. Khu tập thể xây dựng khép kín và có tường bao quanh sân. Rời khỏi đường Tiểu Nam Nhất, còn phải đi thêm khoảng 1,2 kilomet đường đất mới đến cổng nhỏ của khu tập thể ở bên trái. Bên phải đường đất có một khoảnh đất trống tạm thời khoanh lại bằng hàng rào tôn màu xanh lam.
Vương trỏ hàng rào, “Đây là đất gì?”
Thai Vỹ nhìn bản đồ, “Ban đầu là nhà máy biến áp, đã bị phá bỏ để chuẩn bị xây nhà ở thương mại.”
Vương suy nghĩ một chút, “Xuống xe.”
Hai người đi bộ dọc hàng rào tôn chừng vài chục mét thì thấy có đoạn bị xé toạc, khe hở vừa đủ một người lách qua. Vương chui vào, bên trong cỏ dại mọc đầy, chơ vơ mấy dãy tường thấp đổ nát, dăm ba người nhặt đồng nát đang lui cui moi móc, chắc là tìm xem có gì bán được.
Vương chui ra, nhìn bức tường bên trái và liếc sang đồ đệ. Thai Vỹ biết ý, mở bản đồ xem kĩ rồi trở về phía trước. “Xưởng chế tạo máy thử nghiệm vật liệu ở phía Tây, cổng khu tập thể cũng ở phía Tây. Công nhân viên tan làm đa phần đều thắng cổng mà về, chắc rất ít người lai vãng trên đoạn đường này.”
Vương gật đầu, “Như vậy, nơi này có điều kiện để phạm tội.”
Thai Vỹ ngậm ngùi, “Tôn Huệ chỉ còn cách nhà chưa đầy 500 mét theo đường thẳng.” Anh lấy bút kim mực đỏ, dùng miệng bứt nắp, khoanh một vòng đỏ trên bản đồ. ©Facebook Group: We Love Ebook, mời các bạn tham gia Nhóm để tải nhiều sách hơn nữa!