Chương 18 ao nước
Thứ Hai, 13/6/1994. Trời nắng.
Áp phích mang màu nền xanh trong, góc trên bên trái là vầng trăng tròn màu vàng. Dưới ánh trăng, sóng nhấp nhô. Trên tảng đá, nàng tiên cá ngồi yên lặng, tóc xoăn phớt nâu xõa ngang lưng, một tay giữ lấy đuôi cá mảnh mai. Nàng hơi ngửa mặt nhìn trời đêm như đợi chờ hạnh phúc đến.
Tấm áp phích vẽ tay này có lẽ là tác phẩm của thầy Chu. Thầy đã không sử dụng ảnh Mã Na làm chủ đề cho tấm áp phích, dù là vô tình hay cố ý thì tôi cũng rất biết ơn. Bằng cách này, tôi có thể nhìn vào áp phích và tưởng tượng mình mới là tiên cá xinh đẹp.
Nghe thật đáng buồn, nhưng tôi không thể kiểm soát được bản thân. Giống như khi nhìn thấy tấm áp phích này trong khuôn viên trường đêm đó, phản ứng đầu tiên của tôi là: nó thuộc về tôi, và tôi phải mang đi.
Tấm áp phích khơi dậy một thứ đã bị dập tắt thành tro bụi trong trái tim tôi. Tôi cảm nhận được rằng ngọn lửa nhỏ leo lét đang dần dần cháy mạnh lên. Đối với tôi, điều đó còn có ý nghĩa hơn ăn no tắm mát và mặc quần áo sạch. Nó như ám chỉ một khả năng, một tia sáng dưới lòng đất sâu, một lối thoát khác trong hệ thống cống ngầm chằng chịt như mạng nhện.
Vincent lấy làm khó hiểu khi tôi cứ cầm nến, ngồi cạnh tấm áp phích và nhìn nó hàng giờ liền. Tuy cũng đến gần xem cùng, nhưng thường thì xem vài phút là anh ta hết kiên nhẫn, quay sang loay hoay với đống đồ nhặt về hoặc lăn ra ngủ. Khó mà giải thích cho Vincent hiểu tấm áp phích này có ý nghĩa như thế nào đối với tôi. Đồng thời tôi thấy áy náy, vì thiếu ngủ mà không thể ra ngoài làm việc cùng anh ta. Tuy nhiên, Vincent không để bụng, thậm chí còn chu đáo dịch tấm nệm xuống bên dưới áp phích để mở mắt ra là tôi trông thấy nó ngay. Anh ta không biết rằng, điều này càng khiến ngọn lửa trong tôi bùng cháy mạnh mẽ hơn.
Tôi nhận ra một điều, khi cuộc đời tụt về số không, hễ còn sống thì mỗi ngày tiếp theo người ta đều làm phép cộng. Ấm nước nóng, móc áo, sơ mi trắng... là “1”. Tấm áp phích, là “100”. Chúng khoan một lỗ hổng trong tim tôi, lỗ hổng đó gọi là “khao khát”, và ngày một mở rộng. Từ chấp nhận thụ động sang hấp thụ chủ động. Lỗ hổng này không cách gì lấp đầy. Nó sẽ nuốt chửng mọi thứ có thể. Nó nói rằng, tôi thèm, tôi muốn.
Tôi muốn một đôi giày thể thao màu trắng.
Tôi muốn cái váy trắng đó.
Thực tế thì, chính tôi còn thấy sợ mình. Một giọng nói cất lên, mày không thể đòi hỏi thêm nữa. Giọng kia nói, tại sao không? Chúng cãi nhau không dứt, nhưng tôi không thể làm gì được. Đặc biệt là khi Vincent không ở bên, có cảm giác hai giọng nói này ngập ngụa khắp phòng. Xem ra đây là một sự lựa chọn. Thật ra trong khi do dự, tôi đã đưa ra lựa chọn rồi.
Vì vậy, một ngày nọ, tôi ngồi trên nệm, ngước nhìn áp phích, ngắm sóng, ngắm đá ngầm, ngắm nàng tiên cá đang dõi nhìn trời đêm. Phía sau tôi, Vincent ngáy khò khò. Tôi quay lại, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt hốc hác nhăn nheo và râu ria rậm rạp mới mọc, đưa tay vuốt ve khuôn mặt anh ta. Vincent nhăn mũi, chép miệng mãn nguyện rồi tiếp tục chìm vào giấc ngủ.
Vincent, em sẽ rời xa anh.
Bên ngoài phòng họp ồn ào huyên náo. Hàng chục người chen chúc ở hành lang, mồm năm miệng mười với vẻ sốt ruột. Thai Vỹ len qua giữa họ, hô lớn, “Xếp hàng, xếp hàng vào! Đồng chí kia, tắt thuốc đi, không được hút ở đây...”
Vương Hiến Giang khoanh tay dựa cửa, trầm lặng nhìn đám đông ồn ào, cố gắng tìm ra biểu hiện khác thường nào đấy từ những khuôn mặt bình thường này. Tấm giấy ghi “Vụ cưỡng dâm giết người hàng loạt 24/5” vẫn dán trên cánh cửa bên cạnh ông đã được xé bỏ. Thình lình ông quát, “Câm hết đi!”
Đám đông đột ngột lặng phắc. Thai Vỹ thừa cơ đẩy mấy người xung quanh, “Xếp thành hai hàng, nhanh lên!”
Một trong số họ kháng nghị, “Đồng chí cảnh sát, đồng chí triệu chúng tôi đến đây làm gì vậy?”
“Không cần hỏi.” Mặt Vương lạnh tanh. “Bảo anh làm gì anh làm nấy.”
Người đàn ông bất bình lẩm bẩm vài câu rồi đứng vào hàng.
Lúc này, cửa phòng họp mở ra, Đỗ thò đầu ra vẫy tay với Vương, “Điện thoại này.”
Vương quay vào phòng họp, nhấc ống nghe trên bàn dài, “Ai đấy?”
“Anh Vương ạ? Tôi là Hứa Trường Minh ở đồn công an phố Tiểu Bắc.”
“Chà, chào cậu. Có chuyện gì vậy?”
“Anh đã nhận được bản thông tin cư trú chúng tôi gửi đến chưa?”
“Đã nhận. Sao thế?”
“Có tin mới đây.” Trong đường dây vọng ra tiếng lật giấy loạt soạt. “Khi thông báo cho cư dân ở địa bàn này đến công an thành phố, có người phản ánh rằng anh ta không sống ở đây nữa, nhà đã cho thuê.”
“Người nào?”
“Thang Lạc Bình.”
Vương cầm danh sách trên bàn lên, lướt lại xem, tìm đến cái tên đó, “Thang Lạc Bình này giờ sống ở đâu?”
“Ở phố Tứ Đạo.”
Vương nhìn bản đồ treo trong phòng họp. Phố Tứ Đạo cách khá xa “vùng đệm”.
“Hiểu rồi. Có thông tin gì về người thuê chưa?”
“Có sơ bộ: Chu Hy Kiệt, nam, tầm ba lăm ba sáu tuổi, giáo viên thì phải.”
“Hiểu rồi, nhờ các cậu liên lạc với Chu Hy Kiệt, yêu cầu ngày mai đến công an thành phố, gặp Vương Hiến Giang hoặc Thai Vỹ.”
“Vâng.”
Vương cảm ơn rồi gác máy, gạch chéo lên cái tên “Thang Lạc Bình” trên danh sách.
Thai Vỹ và bác sĩ Đỗ theo nhau bước vào phòng họp. Thai Vỹ thấy thế liền hỏi ngay, “Chuyện gì vậy thầy?”
“Không có gì, danh sách có sự điều chỉnh thôi.” Vương quăng bút xuống bàn. “Người ngoài thế rồi?”
“Cục Đăng kiểm sàng lọc ra 71 người, hôm nay chúng ta kiểm tra một nửa trong số họ, 35 người. Nửa kia để mai. Đã có 32 người đến rồi.”
“Trong số những người chưa tới, có ai tên là Thang Lạc Bình không?”
Thai Vỹ nhìn danh sách trong tay, “Có. Ở khu B.”
“Gạch đi, không phải đợi cậu ta nữa.”
“Những người chưa tới khác thì sao?”
Vương hỏi, “Theo anh thì sao?”
Thai Vỹ ngẩn người, Đỗ cười cười, “Không đến tức là chột dạ, càng đỡ việc cho chúng ta.”
Thai Vỹ hơi ngượng, “Chắc là được rồi đấy, bắt đầu thôi nhỉ?”
Vương nhìn Đỗ, “Tiến hành thế nào đây?”
“Mười người một nhóm, tôi sẽ lấy máu.” Đỗ trỏ điện thoại trên bàn. “Vỹ giúp tôi, anh cứ đợi điện thoại là được. Cứ xong một nhóm là tôi báo với anh, anh lo xếp người, tôi bảo Vỹ đến dẫn họ sang.”
Thai Vỹ đăm chiêu, “Giải thích với họ thế nào đây?”
Vương bĩu môi, “Cảnh sát phá án thì phải giải thích cái gì. Họ cứ làm theo yêu cầu là được.”
Thai Vỹ lè lưỡi, không nói nữa.
Vương vuốt tóc, “Anh Đỗ, nhanh nhất thì bao giờ có kết quả?”
“Tôi đã tính sơ qua.” Đỗ trầm ngâm. “Trung tâm Huấn luyện Số 2 chắc chắn làm được, nhưng mẫu nhiều quá, chắc sẽ chậm. Tinh Liêu Ninh đã sử dụng kĩ thuật này từ năm 1988. Hay là anh báo cáo với phó giám đốc Hồ, lấy danh nghĩa công an tỉnh nhờ Liêu Ninh hỗ trợ, may ra nhanh hơn gửi đến Trung tâm Số 2.”
“Được.” Vương đứng lên. “Tôi đi thu xếp ngay đây. Nếu anh cần tìm tôi thì cứ nhắn tin nhé.”
Đỗ gật đầu rồi cùng Thai Vỹ ra ngoài. Vương đi theo, trông thấy Thai Vỹ đã đứng trước đám đông chọn ra nhóm đầu tiên. Vương lách qua hàng người dày đặc, đi về phía cầu thang.
Bước lên bậc thang đầu tiên, ông ngoái lại nhìn hàng người. Không biết hung thủ đã cướp đi ba sinh mạng có nằm trong số này hay không, và không biết liệu thời khắc vạch trần tội ác đã cận kề hay còn xa tít.
Cố Hạo ngồi hút thuốc cạnh điện thoại, thi thoảng lại nhìn đồng hồ treo tường. Mười lăm phút đã trôi qua kể từ lần gần nhất ông nhắn tin cho Thai Vỹ.
Cố Hạo di đầu mẩu thuốc, quyết định không đợi thêm nữa. Ông kiểm đếm lại đồ đạc trong túi vải bạt: áo mưa, găng tay, khẩu trang, đèn pin, pin, ủng, lại nhét thêm một gói bánh mì và bình giữ nhiệt đổ đầy nước nóng, cuối cùng vơ lấy thuốc và bật lửa rồi khoác túi lên vai, đứng dậy đi ra. Vừa chạm vào tay nắm cửa thì nghe điện thoại trên bàn reo vang, Cố Hạo vội bước tới nhấc máy, “Alô?”
“Bác tìm con sao?” Thai Vỹ hình như đang ở một chỗ rất ồn ào, tiếng nói nhốn nháo.
“Mày đang làm gì đấy?”
“Con đang ở cơ quan, làm việc chứ làm gì.” Thai Vỹ đột nhiên hét lên. “Tất cả ngậm miệng! Đóng cửa lại! Bác Cố, bác nói đi.”
“Hừm, mày làm đi, để sau hãy hay.”
“Không sao, bác nói đi, lát nữa con lại phải chạy ra ngoài.”
“Là thế này... Mày đang điều tra vụ ba thi thể phụ nữ trôi ra khỏi cống ngầm?”
“Vâng.”
“Mày có lùng sục kĩ càng dưới đó không?”
“Có ạ.” Thai Vỹ hơi bối rối. “Sao bác lại hỏi chuyện này?”
“Mày có bản vẽ cống ngầm hay đại loại thế không?”
“Có ạ.” Thai Vỹ vỡ lẽ. “À, liên quan đến cô bé hàng xóm nhà bác hả?”
“Ừ. Tao đã điều tra, nơi cuối cùng nó xuất hiện chính là cống ngầm.”
“Cái huy hiệu kia là của em ấy?”
“Giờ vẫn chưa biết.”
“Không phải bác định chui xuống cống đấy chứ?”
“Việc đã đến nước này, phải chui xuống một phen xem sao.”
“Cống nước thải hay cống nước mưa?”
“Hả?” Cố Hạo ngập ngừng. “Tao không rõ nữa... Hai cống khác nhau hả?”
“Trời, tuy gọi là cống thôi nhưng phức tạp lắm đấy.” Thai Vỹ lại hét lên. “Ông già, đừng hành động hấp tấp. Đợi con đến đã, đừng có nhỡ chân rồi đi lạc.”
“Cái thằng này! Mày coi tao là trẻ con hả?”
“Bác nghe con, đợi con ở nhà. Con bận rồi, cúp máy đây.”
Cố Hạo đặt điện thoại xuống, cân nhắc một hồi rồi quyết định đi tiền trạm.
Đổi xe buýt hai lần, lại cuốc bộ một chặng, nửa giờ sau, Cố Hạo đến khu chung cư Khương Đình ở. Chẳng mấy chốc ông đã tìm thấy cống ngầm ở khoảng đất trống giữa hai tòa nhà. Hai chữ “Nước mưa” trên nắp sắt cho thấy đây là cống nước mưa mà Thai Vỹ đã nhắc. Cố Hạo thay sang ủng, đi vòng quanh miệng cống, ngồi xổm xuống, móc ngón tay vào lỗ thoát nước và cố gắng kéo nắp cống lên. Tuy nhiên, cái của nợ bằng sắt nặng trịch này chi hé ra một khe hở nhỏ. Cố Hạo đành bỏ cuộc, trong lúc ngó nghiêng xung quanh, ông trông thấy Khương Đình chạy tới. Cô bé hụt hơi dừng lại trước mặt ông, mặt đỏ bừng bừng.
“Sao cháu lại tới đây?”
“Cháu nhìn thấy bác từ trên lầu.”
“Hôm nay là thứ Sáu kia mà?” Cố Hạo ngẫm nghĩ. “Tại sao không đi học?”
“Khối Mười hai thi thử, trưng dụng phòng học của khối Mười và Mười một ạ.” Khương Đình đi đến bãi cỏ bên cạnh nhặt một cành cây ngắn. “Lần trước cháu dùng cái này.”
Cố Hạo nhận cành cây, cắm vào lỗ thoát nước, cố sức bẩy nắp cống lên rồi kéo sang bên cạnh. Miệng cống đen ngòm hiện ra.
“Cảm ơn.” Cố Hạo buông cành cây. “Cháu về đi.”
“Không.” Khương Đình thò đầu nhìn xuống cống. “Cháu sẽ đi với bác.”
“Không được.” Cố Hạo khoát tay. “Cháu về mau đi, kẻo mẹ lo.”
“Mẹ cháu đi làm rồi. “Khương Đình nhăn mặt trêu. “Không biết đâu.”
Bấy giờ Cố Hạo mới nhận ra cô bé mặc đồ thể thao và xỏ ủng màu tím chấm trắng, xem vẻ đã chuẩn bị sẵn sàng.
“Thế cũng không ổn.” Ông nghiêm mặt. “Cháu tưởng xuống đấy là trò đùa hả?”
Khương Đình lấy trong túi ra vài cuộn cước trắng, lúc lắc trước mặt Cố Hạo, “Cái này có ích cho bác.”
Cố Hạo híp mắt, “Cái gì đấy?”
“Dây câu bố cháu thường dùng trước đây”
Cố Hạo suy nghĩ một chút, chìa tay ra, “Chu đáo đấy!”
Cô bé giấu cuộn dây sau lưng, nghiêng đầu nhìn ông với vẻ tự đắc.
Cố Hạo bất lực, “Xuống đó rồi nhất nhất phải tuân theo chỉ dẫn của tôi, bảo cháu làm gì cháu làm nấy, hiểu chưa?”
Khương Đình ném đống dây câu cho Cố Hạo rồi đi trước đến bên cống, đặt chân xuống thang sắt. Cố Hạo ngó quanh, thầm mong đừng ai bắt gặp cảnh một lão già dắt một bé gái xuống cống.
Cống ngầm sâu chừng 4 mét. Khương Đình đã xuống tới đáy, lập tức nhích ra nhường chỗ cho Cố Hạo cũng đang leo xuống.
Miệng cống hẹp nhưng lòng cống rất rộng. Tuy nhiên, trừ luồng sáng rọi tới qua miệng cống, xung quanh tối om om. Xuống đến nơi, Cố Hạo nhận ra họ đang ở trong một ống cống bê tông hình tròn. Chiều cao đủ để một người lớn đứng thẳng, dưới đáy có nước đọng, chắc là còn lẫn bùn, vì đế ủng có cảm giác trơn trượt. Cố Hạo mở túi vải bạt lấy đèn pin, rọi sang hai bên trái phải, thì thấy đều là những ống cống bất tận như nhau.
Khương Đình xem chừng khá hào hứng, nhưng cũng hơi sợ hãi, “Bác Cố, đi đằng nào đây?”
Cố Hạo suy nghĩ một lúc, “Cháu nhặt được chìa khóa ở đâu?” Khương Đình nhớ lại rồi trở xuống chân, “Có lẽ là vị trí này.”
Cố Hạo rọi đèn pin vào ống cống bên phải, “Đi hú họa thôi.” Ông bảo Khương Đình buộc một đầu dây câu vào thang sắt, mình thì xỏ găng bông và cầm cuộn dây.
“Đi theo tôi, chú ý dưới chân nhé.” Ông dặn thêm. “Đừng chạm vào bất cứ thứ gì.”
Khương Đình gật đầu. Cố Hạo hít một hơi thật sâu, một tay cầm đèn pin, tay kia từ từ thả dây câu, tiến sâu vào cống nước mưa tối om.
Di chuyển được hơn chục mét, ông ngoái nhìn nơi mình đã xuống. Luồng sáng lặng lẽ đứng tại chỗ, như vẫn mang theo hơi ấm. Trong chốc lát, Cố Hạo gần như muốn lao trở về, lập tức rời khỏi nơi lạnh lẽo tối tăm này. Tuy nhiên, cứ nghĩ Tô Lâm đang mò mẫm tiến bước trong bóng tối, ông bèn thôi ngoái lại, nghiến răng lội nước, tiếp tục tiến bước.
Ít nhất trước mắt mình vẫn còn ánh sáng. Ít nhất mình còn có một người bạn đồng hành, cho dù người bạn ấy cứ co ro đi sát đằng sau, không dám bước xa quá.
Quả thật, lòng can đảm của Khương Đình đã bay biến ngay khi rời khỏi phạm vi ánh sáng. Ngoại trừ các chỗ đèn pin rọi tới, tất cả đều tối đen. Bóng dáng ông già phía trước khiến em vững dạ đôi chút, cũng là chỗ dựa duy nhất cho em ở nơi mù mịt này. Khương Đình bắt đầu hối hận vì sự bồng bột của mình. Tuy nhiên, em không muốn bỏ cuộc, trực giác mạnh mẽ mách bảo em rằng Tô Lâm vẫn ở đây.
Có lẽ là vì sợ hãi, chẳng mấy chốc Khương Đình đã thấy lạnh buốt cả người, nhất là đôi chân dù đang xỏ ủng. Nước trong cống lạnh vô cùng, cứ như đã gần đến điểm đóng băng. Khương Đình đang tự hỏi tại sao mình không đi tất dày, thì cảm thấy có thứ gì đó trượt qua ủng mình. Em vô thức thét lên và đá mấy phát vào vũng nước đọng.
Cố Hạo ngoái đầu lại, “Sao vậy?”
“Có... có con gì...” Khương Đình tái mặt, hốt hoảng nhìn quanh. “Bò qua chân cháu.”
“Không sao.” Cố Hạo nhẹ nhàng nói. “Chắc là chuột đấy.”
Mặt Khương Đình trắng bệch, “Ở đây có chuột?”
“Nếu không cháu nghĩ chúng nó sống ở đâu?” Cố Hạo cười cười. “Thôi, cháu lần theo dây câu trở lại đi.”
Khương Đình im lặng vài giây, “Không ạ.” Em đẩy cánh tay Cố Hạo. “Đi nào.”
Hai bác cháu tiếp tục đi dọc theo ống cống. Ban đầu, Cố Hạo còn chú ý xem xét các dấu vết dưới chân và trên thành cống, nhưng ông nhanh chóng từ bỏ suy nghĩ tìm được bất kì manh mối nào ở đấy. Ngấn mờ trên thành cống cho thấy mực nước nơi này phải gần một mét, bất cứ thứ gì rớt lại cũng sẽ bị dòng nước cuốn phăng. Ông không phân tâm nữa mà tập trung vào hành trình của mình. Khương Đình theo sát phía sau. Không ai bảo ai, họ đều im lặng. Ngoại trừ tiếng lội nước oàm oạp và tiếng thở của họ, ở đây không còn tiếng động nào khác.
Không khí khó mà nói là trong lành, một mùi khăn khẳn cứ thoảng qua lỗ mũi. Cố Hạo bắt đầu chóng mặt. Ông dừng lại, lấy trong túi đeo vai ra hai chiếc khẩu trang cho mình và Khương Đình, rồi đi tiếp. Bịt mũi bịt miệng có thể tạm thời ngăn chặn mùi khó ngửi, nhưng lại làm tăng tình trạng khó thở. Nửa giờ trôi qua, Cố Hạo thở hồng hộc. Khương Đình phía sau cũng thở hổn hển, bước chân lê lết. Cố Hạo bắt đầu hoài nghi liệu mình có đi tiếp được nữa không. Vòng qua rất nhiều chỗ ngoặt, dùng sang cuộn dây câu thứ hai, cuối cùng họ cũng đi đến hết đoạn ống cống hiện tại.
Trước mặt hiện ra một đoạn cống ngang, cao hơn và rộng hơn, có các bậc thang bằng đá granit nối xuống ống cống họ đang đứng. Cố Hạo cẩn thận bước qua các bậc đá trơn trượt, rồi quay lại đỡ Khương Đình theo. Sau đó, ông giơ đèn pin rọi bên trái và bên phải, đều chỉ thấy bóng tối vô tận.
Cố Hạo đứng im vài giây, thình lình hét lên, “Tô Lâm!” Tiếng hét của ông va đập vào thành công, và lan dần ra xa. Khương Đình giật mình, lập tức nín thở, cẩn thận lắng nghe âm thanh. Sâu thẳm bóng tối vẫn tịch mịch như chết.
Khương Đình nhìn Cố Hạo, “Nên đi đằng nào bây giờ hở bác?”
Cố Hạo suy nghĩ một lúc rồi rọi đèn pin xuống chân. Dòng nước đang từ từ chảy sang phải, có vẻ lối ra là ở bên này. Hơn nữa, mọi người thường chọn bên phải khi không chắc chắn về hướng đi, hoặc khi đang tràn đầy cảm xúc. Cố Hạo quyết định kéo dây câu đi về phía bên phải, “Nào, hôm nay chúng ta đặt cược vào bên này.”
Ngả mới không khác gì ngả họ vừa đi qua, chi được cái rộng rãi hơn nên mùi khó chịu cũng loãng hơn. Cố Hạo kéo khẩu trang xuống cằm, cẩn thận thả dây câu rồi khụt khịt mũi tiến tới.
Đi được một quãng rất dài, khi cuộn dây câu thứ hai thả hết, Cố Hạo phát hiện trên thành cống xuất hiện một ô cửa, chắc lại dẫn vào một ống cống khác. Cố Hạo đoán rằng đoạn họ vừa đi qua là cống chính trong hệ thống cống nước mưa dưới lòng đô thị, đoạn mới phát hiện đây thì là cống nhánh. Điều này phù hợp với hình dung ban đầu của ông. Mạng lưới cống ngầm chết tiệt này tỏa đi nhiều hướng và rất phức tạp. Không phải vô cớ mà Thai Vỹ lo ông “đi lạc”.
Cố Hạo cố gắng tiến bước, và nhận thấy rằng ở cả hai bên thành cống chính, cứ cách một đoạn lại có ô cửa dẫn sang cống nhánh. Nghĩa là Tô Lâm có thể đi theo bất cứ ngả nào.
Khương Đình cũng nhận ra điều này. Khi đi qua một ô cửa khác, em leo lên các bậc thang và nhìn vào cống nhánh, do dự một chút rồi run rẩy gọi, “Tô Lâm.”
Không có phản hồi. Khương Đình cúi đầu, quay xuống thang với vẻ ủ rũ.
Cố Hạo nhìn em, “Mệt không?”
Khương Đình im lặng gật đầu.
Cố Hạo mở túi vải bạt, lấy áo mưa trải xuống bậc thang. Nghĩ sao, ông lót giày bên dưới áo mưa và ra hiệu cho Khương Đình ngồi xuống, lấy bánh mì và bình giữ nhiệt ra, đưa cho em. Xem chừng đói thật, Khương Đình lập tức xé một miếng bánh mì lớn, chỉ cần hai ba miếng là hết, đoạn rót nước nóng ra nắp bình giữ nhiệt rồi nhấp từng ngụm nhỏ.
Cố Hạo cũng ngồi xuống, ăn một miếng bánh mì và uống một ít nước nóng. Dù có áo mưa ngăn cách, nền đá cứng trơ lạnh lẽo vẫn khiến người ta khó chịu. Tuy nhiên, Cố Hạo không muốn đứng dậy. Đôi chân tê nhức cần được nghỉ ngơi, và ông cũng cần suy xét rõ ràng về một số việc.
Trong đó, quan trọng nhất là: Tô Lâm còn sống không?
Giả thuyết 1: Còn sống, suy ra đang mắc kẹt trong cống. Chứ nếu đã lên được mặt đất, Tô Lâm sẽ gọi công an hoặc về nhà ngay lập tức, và không xảy ra những việc sau này. Tuy nhiên, nó đã mất tích một thời gian rồi, làm thế nào nó sống sót được ở đây? Chí ít như ông quan sát được, ngoài nước, không có gì để ăn ở cống ngầm. Điều này củng cố giả thuyết thứ hai.
Giả thuyết 2: Tô Lâm đã chết ở đây, xác đã trôi ra sông Lệ Thông do mưa lớn. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Thai Vỹ thì chưa tìm thấy xác chết nào không rõ danh tính. Do đó, Cố Hạo vẫn luôn chú ý phân biệt các mùi trong không khí bẩn của công ngầm. Hồi đẩy lùi quân Ấn, ông đã quá quen với mùi khắm của xác chết phân hủy, dù trải nghiệm này đã khá lâu, đấy vẫn là thứ mùi không dễ gì quên được. Mặc dù tìm kiếm chưa có kết quả, ông vẫn chuẩn bị tinh thần để nhìn thấy một cái xác rữa nát với khuôn mặt gớm ghiếc, trương phềnh và thậm chí bị chuột gặm nhấm.
Cố Hạo nhìn Khương Đình đang co ro bên cạnh. Dù thế nào cũng không thể để đứa trẻ này chứng kiến cảnh ấy. Mặc dù giả thuyết thứ hai có nhiều khả năng hơn, Cố Hạo vẫn muốn tin vào giả thuyết đầu tiên. Đây rõ ràng là một hi vọng vô vọng, nhưng hi vọng lại là điều đẹp đẽ nhất trên đời.
Nếu còn sống trong cống ngầm, chắc Tô Lâm đang ở một vị trí thích hợp cho sinh tồn. Suy ra, cống chính và công nhánh đều không phù hợp yêu cầu. Chưa nói gì khác, chỉ riêng nước đọng đã đủ khiến người ta không thể nấn ná lâu dài. Về thức ăn, hãy cứ tin rằng nó có thể và sẽ bắt được chuột, thạch thùng... rồi ăn sống.
Cố Hạo hút hai điếu thuốc, quay đầu nhìn Khương Đình, “Cô bé, đi tiếp được chứ?”
Khương Đình uống hết nước nóng trong nắp bình rồi gật đầu.
Cố Hạo cất áo mưa, giày, bình giữ nhiệt và bánh mì thừa vào túi vải bạt rồi lại kéo dây câu, “Đi nào.”
Cuộc tìm kiếm bất tận lại bắt đầu. Vẫn nước đọng. Vẫn thành cống phủ rêu. Vẫn các bậc thang và những ô cửa dẫn sang cống nhánh. Vẫn bóng tối và tịch mịch. Đôi khi, Cố Hạo ngờ rằng họ chỉ loanh quanh tại chỗ, chứ cống chính làm sao mà dài đến vậy được.
Hễ gặp cống nhánh, họ sẽ dừng lại một lúc, chui vào tìm kiếm một đoạn và gọi to tên Tô Lâm. Cái nơi quỷ quái này cứ như có ma thuật khiến người ta muốn im lặng, tưởng đâu phát ra tiếng động là sẽ chọc giận con quái vật đang lặng lẽ thu mình dưới vực sâu tăm tối. Vì vậy, mỗi khi hét lên, họ (nhất là Khương Đình) đều hoảng hốt. Cô vừa mong cô bạn kia trả lời, vừa sợ phải nghe thấy một âm thanh kinh dị.
Tiến bước không biết bao lâu, Cố Hạo đột ngột dừng lại, đồng thời thở dài. Khương Đình cũng dừng lại theo và nhìn ánh đèn pin rọi xuống chân ông... Dây câu đang bập bềnh trong nước. Em nghe lòng chùng xuống, bất giác liếc cuộn dây trên tay Cố Hạo. Chỉ còn lõi ống.
Cố Hạo nhặt dây câu, quấn hai vòng vào lõi mà không nói một lời. Khương Đình hiểu rằng đây là cuộn cuối cùng, cuộc tìm kiếm hôm nay không thể tiếp tục được nữa. Em đứng lặng, không xác định được mình đang thất vọng hay vui mừng.
Cố Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi ngập ngừng hỏi, “Cháu cầm lõi ống đợi tôi ở đây nhé? Tôi sẽ lần mò thêm một đoạn xem sao.
Khương Đình lập tức mở to mắt kinh hãi, lắc đầu quầy quậy. Cố Hạo cũng không thuyết phục nữa, tuy ông chắc chắn mình sẽ tìm được đường quay lại thôi, nhưng bỏ cô bé này một mình trong bóng tối quả thật là làm khó nó, mà chính ông cũng không yên tâm. Chưa nản lòng, nhưng bất lực, ông cầm đèn pin rọi xa rọi gần một lúc rồi định rút lui.
Đột nhiên, ông thoáng thấy gì đó trên thành cống cách mình tầm chục mét, màu sắc khác với màu bê tông bên cạnh, hình dạng cũng khác. Ông quay sang Khương Đình, “Cháu ở đây chờ nhé, tôi sẽ quay lại sớm.”
“Không, không.” Cô bé lắc đầu như trống bỏi. “Cháu không muốn ở đây một mình.”
“Tôi ra đằng kia thôi mà.” Cố Hạo giơ tay chỉ. “Trong tầm mắt cháu thôi.”
Khương Đình kéo tay áo ông, “Không, cháu đi cùng bác.”
Cố Hạo khó xử, nghĩ ngợi một lát thì lấy bình giữ nhiệt trong túi ra, thử sức nặng rồi quấn dây câu quanh bình, đặt xuống nước.
“Đi nào.”
Vẫn đội hình bác trước cháu sau, cả hai chậm rãi tiến về phía đó, đèn pin rà trên thành cống. Đến gần hơn, Cố Hạo nhìn thấy một cánh cửa sắt tròn đang mở, to đủ cho một người đi qua. Ông ghé sát lại, rọi đèn pin, và phát hiện bên trong có một cái hang.
Sát cửa sắt là mấy bậc thang, nước mấp mé ở cửa, các bậc dưới cùng đều chìm trong nước. Làn nước đục ngầu, ước chừng ngập sâu một mét. Không gian này tương tự như “tiền sảnh”, kết nối với một không gian rộng hơn ở sâu hơn. Cố Hạo giơ đèn rọi xa, lờ mờ thấy tường bám rêu xanh, hình như góc tường có gắn thang sắt.
Nơi này trông giống một cái ao khổng lồ.
Khương Đình ló ra từ đằng sau, tò mò nhìn ngó.
“Nhiều nước thế này...” Em đột nhiên khịt mũi, nhíu mày. “Đây là mùi gì?”
Cố Hạo không trả lời, chỉ ra hiệu cho Khương Đình dừng ngoài cửa sắt, rồi tiếp tục rọi đèn pin xuống vùng nước chết. Ngay từ đầu ông đã ngửi thấy mùi khó chịu lơ lửng trên khoảng không của cái ao... Mùi xác chết. Đủ để đánh thức trí nhớ khứu giác của ông.
Có gì đó đã chết ở đây. Dù là người hay động vật thì cũng sẽ trương phềnh như cái trống và nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, xét trong tầm chiếu của đèn pin thì mặt nước rất phẳng lặng, chẳng có gì ngoài vài nhánh cây và cỏ lá khô héo. Hay nó đang chìm dưới đáy?
Trang bị hiện có không thích hợp để lặn xuống thăm dò. Hơn nữa, ngay cả khi tìm được thứ gì thật, Cố Hạo cũng không muốn Khương Đình bắt gặp. Để xác minh nguồn gốc mùi xác chết này, e rằng phải đến vào một ngày khác. Cố Hạo quay lại, thấy Khương Đình đã lên theo vào, đang tò mò ngó nhìn xuống bậc đá.
“Ở đây không có gì cả, ra ngoài thôi.”
“Bác Cố,” Khương Đình vẫn duy trì tư thế cái nhìn, giơ tay chi, “Kia là cái gì?”
Cố Hạo soi đèn pin, phát hiện ở góc giữa bậc thang và tường có một búi đen thùi lùi dập dềnh trong nước. Ông cố nhìn thật kĩ, nhưng vẫn không nhận ra hình dáng ban đầu của nó. Cố Hạo lưỡng lữ rồi nằm sấp xuống thêm, nhoài người ra với, ngón tay bắt được cảm giác trơn nhuội ghê rợn. Búi đen ngấm nước và khá nặng.
Cố Hạo kéo nó lên thềm, trải rộng và nhận ra là một chiếc áo khoác dạ ngắn màu tím sẫm của nữ. Ông nhìn kĩ hơn, rồi ngước lên hỏi Khương Đình, “Lúc đi học các cháu không được mặc loại trang phục này đâu nhi?”
“Vâng.” Khương Đình nhìn chiếc áo khoác dạ sũng nước, cau... mày. “Bắt buộc phải mặc đồng phục.”
Cố Hạo ngẫm nghĩ, rồi móc đầu ngón chân rê chiếc áo khoác ra cửa. “Hôm nay thế thôi. Về nào.”
Cả hai quay ra cống chính, tìm chiếc bình giữ nhiệt quấn dây rồi trở về. Có dây câu định hướng và họ cũng không muốn nấn ná thêm nữa nên tốc độ di chuyển nhanh hơn nhiều so với khi vào.
Cuối cùng, họ cũng nhìn thấy luồng sáng rọi vào cống. Cố Hạo tháo dây câu khỏi thang sắt và đỡ Khương Đình leo lên thang trước. Tuy nhiên, cô bé ngừng di chuyển ngay khi nhoài người lên mặt đất, đôi chân dài vẫn ở trên thang. Cố Hạo bị kẹt lưng chừng, lên không được xuống không xong, cứ luôn miệng giục giã. Mất một lúc nữa Khương Đình mới leo được ra ngoài, Cố Hạo lồm cồm bò khỏi miệng cống, vừa định hít thở không khí trong lành thì sững lại, mắt mở to.
Ngọc Thục đứng ngay bên miệng cống, tức giận nhìn ông.
“Bác Cố!” Chị từ trên cao nhìn xuống, giọng hung hăng. “Tôi nghĩ là đã nói rõ với bác, chúng tôi không muốn nhúng tay vào vụ này nữa.”
“Cô... đừng nóng giận, nghe tôi giải thích.” Cố Hạo chống hai tay xuống đất. “Để tôi lên hẳn đã nhé.”
Ngọc Thục khịt mũi, tránh ra nhường đường. Cố Hạo chật vật bò khỏi miệng cống. Đứng dưới nắng trời, ông mới nhận ra người mình và Khương Đình đầy bụi bặm, mạng nhện, vết bẩn, lại còn bốc mùi hôi.
Khương Đình vặn vẹo hai tay, lúng túng đứng bên mẹ, “Mẹ, mẹ đang đi làm cơ mà?”
“Đi làm? Tôi về nấu cơm cho cô đấy!” Ngọc Thục tức giận. “Cô có biết tôi tìm cô bao lâu rồi không?”
“Cô đừng mắng cháu nó.” Cố Hạo phủi bụi trên người. “Đều tại tôi cả...”
“Tất nhiên là tại bác rồi!” Ngọc Thục lại quay phắt sang ông già. “Đưa một đứa bé xuống cái nơi nguy hiểm như vậy, bác đã tính đến hậu quả chưa?”
Khương Đình lẩm bẩm, “Không nguy hiểm chút nào, chi hơi tối thôi...”
“Hành động của tôi đúng là không ổn.” Cố Hạo cúi đầu với Ngọc Thục. “Tôi xin lỗi cô.”
“Sao mẹ lại trách Bác Cố chứ!” Nhìn bộ dạng luống cuống của Cố Hạo, Khương Đình bất bình càu nhàu. “Con đòi đi mà.”
“Con đòi đi làm gì? Con giỏi lắm hả?” Ngọc Thục đẩy Khương Đình. “Nếu không về nấu cơm, mẹ đã không...”
“Suốt ngày cơm với nước!” Khương Đình chỉ xuống dưới chân. “Mẹ có nghĩ đến Tô Lâm không? Bạn ấy có gì ăn, mẹ đã quan tâm bao giờ chưa?” Dứt lời, em quay mình rời đi.
Ngọc Thục nhìn con gái, nhìn Cố Hạo, rồi giậm chân chạy theo con.
Cố Hạo không biết nên lên tiếng hay không, cứ thế giương mắt nhìn hai mẹ con lần lượt khuất dạng ở góc ngoặt của tòa nhà. Ông thở dài, cúi xuống đây lại nắp cống, thay sang giày, tháo khẩu trang và găng tay, chậm rãi đi về đằng xa.
Bẩn thỉu và hôi hám, Cố Hạo bỏ ý định bắt xe buýt. Cuốc bộ gần một tiếng đồng hồ mới về đến nhà. Sau khi rửa mặt rửa tay, ông tống cả túi vải bạt lẫn quần áo giày ủng bẩn thỉu vừa thay vào góc nhà. Định nằm nghỉ nửa tiếng rồi dậy nấu ăn, nhưng đầu vừa chạm gối ông đã ngủ li bì.
Khi thức giấc, trời đã tối đen, Cố Hạo nằm yên trên giường hơn mười phút mới lồm cồm bò dậy, tự nhủ phải tìm cái gì bỏ bụng. Vừa mở tủ lạnh thì nghe gõ cửa dồn dập, Cố Hạo lại quay ra.
Cửa mở, Thai Vỹ thò ngay đầu vào, nhìn ông từ đầu xuống chân, “Sao bác không nghe điện thoại?”
Cố Hạo ngẩn người, “Tao ngủ mới dậy, nên không nghe thấy. Sao vậy?”
“Con tưởng bác gặp chuyện gì rồi.” Thai Vỹ thở phào nhẹ nhõm. “Xong việc là con vội vàng chạy qua đây luôn đấy.”
“Chưa ăn gì?”
“Bác nghĩ sao?” Thai Vỹ cau có nói rồi ngồi phịch xuống giường hít hà. “Mùi gì thế này?” Mắt liếc đến đống quần áo và giày ủng bẩn trong góc nhà, anh chợt hiểu ra, liền cau mày. “Bác thật ương bướng. Con đã bảo là không được xuống một mình mà.”
“Tao đi tiền trạm xem sao.” Cố Hạo lấy trong tủ lạnh ra hai quả trứng. “Ăn chút mì tương đen lót dạ nhá?”
“Sao cũng được.” Thai Vỹ mở cửa sổ cho thoáng, lại đi tới gần túi vải bạt, ngồi xổm xuống lục xem. “Chuẩn bị đầy đủ ghê. Bác có tìm được gì không?”
“Chẳng tìm được gì. Cống rộng quá, tao không đi được bao xa." Cố Hạo với lấy tạp dề treo trên tường. “Tao tìm thấy một nơi như ao nước, vớt được một chiếc áo khoác dạ.”
Thai Vỹ ngẩng đầu chớp mắt, “Áo khoác dạ?”
“Chà, màu tím, của nữ.” Cố Hạo bước tới cửa. “Không biết là của ai, trông còn khá mới.”
Thai Vỹ níu lấy ông già, trợn to mắt, “Bác nói lại lần nữa xem nào!”