Chương 3 KHÁT VỌNG
Khi đám đông giành được phần thắng, họ thôi không còn là đám đông nữa. Khi đó họ được gọi là dân tộc. Còn nếu họ không thắng, sao ư, khi đó một số sẽ bị hành quyết, và họ sẽ bị gọi là lũ tiện dân, bọn nổi loạn, quân trộm cắp và tương tự.
• Napoleon nói với bác sĩ Barry O’Meara trên đảo St Helena
Ta chẳng chinh phục được gì ngoài các trận đánh, còn Josephine, với sự nhân hậu của nàng, chinh phục mọi trái tim.
• Napoleon nói với thị thần của ông, Nam tước Louis de Bausset-Roquefort
⚝ ✽ ⚝
Ngày 7 tháng Hai năm 1794, Napoleon được điều động làm chỉ huy pháo binh của Đạo quân Italy. Ông đóng một vai trò đáng khen ngợi nhưng không nổi bật trong chiến dịch kéo dài năm tuần của Tướng Pierre Dumberion chống lại đồng minh của Áo, vương quốc độc lập Piedmont ở Tây bắc Italy (vương quốc này cũng cai quản đảo Sardinia), trong chiến dịch này đã có ba chiến thắng nhỏ, và ông có dịp làm quen với địa hình của những ngọn núi con đèo đẹp đẽ nhưng đầy bất trắc tiềm tàng thuộc dãy Ligurian Alps. Ông chiến đấu bên cạnh viên tướng nóng nảy và tài năng André Masséna, người chỉ huy chiến dịch vào tháng Năm năm đó để đánh đuổi quân Piedmont khỏi Ventimiglia, đánh tạt sườn quân Áo và Piedmont tại đèo Tenda, đem đến cho vị tướng này biệt danh “con cưng của chiến thắng.”
Chiến dịch kết thúc chóng vánh, và đến đầu mùa hè Napoleon đã trở lại Nice và Antibes, nơi ông bắt đầu theo đuổi Eugénie Désirée Clary, cô con gái xinh đẹp 16 tuổi của một triệu phú ngành dệt và sản xuất xà phòng theo khuynh hướng bảo hoàng. Chị gái Julie của Désirée kết hôn với anh trai Joseph của Napoleon ngày 1 tháng Tám năm 1794, mang theo một món hồi môn đáng kể tới 400.000 franc, khoản tiền cuối cùng đã kết thúc những lo lắng tài chính của nhà Bonaparte. Mối quan hệ giữa Napoleon và Désirée diễn ra hầu như hoàn toàn qua thư và họ đính hôn vào tháng Tư năm sau. Một năm trước đó, chàng thanh niên 19 tuổi Lucien Bonaparte đã kết hôn với Christine Boyer, cô con gái 22 tuổi duyên dáng nhưng mù chữ của một chủ nhà trọ. Chàng trai đã ghi bí danh cách mạng cậu lựa chọn – Brutus – lên đăng ký kết hôn, người duy nhất trong nhà Bonaparte sửa tên theo cách như vậy.
Tháng Tư năm 1794, Napoleon đệ trình một kế hoạch tấn công Italy qua Piedmont lên Ủy ban An toàn Công cộng. Bản kế hoạch được mang tới Paris bởi Augustin Robespierre, người được biệt phái tới Đạo quân Italy. Thật may là nó được viết bởi nét chữ viết tay dễ đọc của Junot thay vì những nét chữ ngày càng nguệch ngoạc khó đọc của Napoleon, bản kế hoạch chứa đựng những diễn đạt mang tính chiến lược như: “Các cuộc tấn công không được tản mát mà phải tập trung”, “Chính [Áo] là đối tượng cần tiêu diệt; khi việc này hoàn tất, Tây Ban Nha và Italy sẽ tự sụp đổ” và “Không một người tỉnh táo nào có thể nghĩ tới việc chiếm Madrid. Hệ thống phòng thủ cần được thiết lập ở phía Tây Ban Nha, và tấn công về phía biên giới Piedmont”. Là một người ủng hộ tập quyền trung ương lúc bấy giờ, Napoleon viết: “Các đạo quân vùng Alps và Italy nên được hợp nhất để tuân theo cùng mệnh lệnh.”
Viên tiểu đoàn trưởng bất hạnh dưới quyền Napoleon, Thiếu tá Berlier, phải chịu đựng gánh nặng từ sự nóng nảy bồn chồn, từ sự chú trọng vào chi tiết và đòi hỏi mọi thứ được làm nhanh hơn và hiệu quả hơn của ông. “Tôi cực kỳ phiền lòng với cách nạp đạn được thực hiện cho 16 khẩu [pháo]”, một lá thư viết. “Ông hẳn sẽ muốn trả lời các câu hỏi sau đây… và tôi cho ông 24 tiếng cho việc đó”. Thư khác: “Tôi ngạc nhiên vì ông chậm trễ đến vậy trong việc thực hiện các mệnh lệnh, luôn cần phải bảo ông cùng một điều đến ba lần”. Ông chú ý đến từng khía cạnh dù nhỏ của đơn vị dưới quyền chỉ huy. “Hãy bắt giam viên hạ sĩ Carli, khẩu đội trưởng”, ông ra lệnh cho Berlier, “bởi đã vắng mặt khỏi đơn vị để kiếm rượu vang ở Antibes.”
Trong chiến dịch Piedmont, Napoleon nhận được xác nhận chính thức về việc ông được thăng thiếu tướng, trong đó yêu cầu ông trả lời câu hỏi “Quý tộc hay không phải quý tộc?” Rất nhạy bén, nếu tính tới hoàn cảnh Thời kỳ Kinh hoàng vẫn đang diễn ra, ông trả lời là không, một câu trả lời không trung thực về mặt kỹ thuật. Việc xử tử trên máy chém phe Hébertist cực đoan ngày 5 tháng Ba và Georges Danton cùng Camille Desmoulins ngày 5 tháng Tư, cả hai vụ đều do Ủy ban An toàn Công cộng của Robespierre ra lệnh, cho thấy Cách mạng đang tàn nhẫn sát hại chính những đứa con của nó. Một người đương thời ghi nhận “hàng nghìn phụ nữ và trẻ em ngồi trên những hòn đá trước các hàng bánh mì”, và “hơn một nửa Paris đang sống nhờ khoai tây. Tiền giấy không còn giá trị”. Thành phố đã chín muồi cho một hành động chống lại những người Jacobin mà rõ ràng đã thất bại trong việc đem lại thức ăn hay hòa bình. Với việc Đồng minh đang phải rút lui ở Tây Ban Nha, Bỉ và dọc theo sông Rhine vào năm 1794, một nhóm những người âm mưu theo phái Girondin cảm thấy đủ tự tin để lật đổ những người Jacobin và chấm dứt Thời kỳ Kinh hoàng.
•••
Trong sáu ngày vào trung tuần tháng Bảy, Napoleon tham gia vào một sứ mệnh bí mật ở Genoa, thay mặt Augustin Robespierre để lập báo cáo về hệ thống phòng thủ của thành phố, thực hiện một cuộc gặp kéo dài năm giờ với người đại diện của Pháp tại đó, Jean Tilly, và thuyết phục viên tổng trấn về sự cần thiết của mối quan hệ Pháp-Genoa tốt đẹp hơn. Sứ mệnh này đưa ông xích lại gần hơn nhóm chính trị thân cận với anh em Robespierre vào đúng thời điểm xấu nhất, vì “Cuộc phản kháng tháng Nóng”(*) do Barras và Fréron cầm đầu đã lật đổ Maximilien Robespierre ngày 27 tháng Bảy (ngày 9 tháng Nóng theo lịch cách mạng). Cả hai anh em và 60 kẻ khủng bố khác bị xử tử trên máy chém hôm sau. Nếu Napoleon có mặt ở Paris vào thời điểm đó, rất có thể ông cũng đã bị bắt và điệu lên máy chém cùng với họ. Ông vừa mới trở về sau khi dự đám cưới người anh trai Joseph, và đang ở doanh trại quân đội tại Sieg gần Nice vào ngày 5 tháng Tám khi biết tin về số phận anh em Robespierre. “Tôi ít nhiều cảm thấy xúc động trước số phận người em nhà Robespierre”, ông viết cho Tilly, “người tôi quý mến và tin là trung thực, song cho dù anh ta có là anh trai tôi đi nữa, nếu anh ta mong mỏi ách độc tài, hẳn tôi cũng sẽ tự tay đâm chết anh ta.”
Sự bảo trợ của Augustin Robespierre nghiễm nhiên đưa Napoleon vào diện bị nghi ngờ. Ngày 9 tháng Tám, ông bị một sĩ quan và 10 người lính tới bắt tại nơi ở tại Nice rồi đưa tới pháo đài ở Nice trong một ngày, trước khi bị giam tại Fort-Çarré ở Antibes trong 10 ngày. (Cả hai nơi này trước đó ông đều từng tới thanh tra chính thức trong sự nghiệp của mình.) Saliceti, xuất phát từ động cơ bảo vệ bản thân hoàn toàn có thể biện minh được, đã không làm gì để bảo vệ ông, và trên thực tế đã lục tung giấy tờ của Napoleon để tìm kiếm bằng chứng phản bội. “Ông ta chẳng buồn hạ cố nhìn xuống tôi từ trên đỉnh cao chót vót vĩ đại của mình”, là lời bình phẩm đầy oán hận Napoleon dành cho một đồng hương người Corse, cũng là đồng minh chính trị của ông trong năm năm.
Vào năm 1794, có vô tội cũng chẳng tránh được máy chém, và cả sự anh dũng chứng tỏ trong chiến đấu phụng sự nền Cộng hòa cũng không, vì thế Napoleon đang thực sự lâm vào nguy hiểm. Lý do chính thức cho việc bắt giữ ông là một số người dân Marseilles tin việc ông bố trí một khẩu đội ở mặt thành phố hướng vào đất liền là có dụng ý chống lại họ chứ không phải một kẻ xâm lược. Hồi tháng Một ông từng viết thư gửi Bouchotte, Bộ trưởng Chiến tranh: “Các khẩu đội bảo vệ cảng Marseilles đang ở trong một tình trạng lố bịch. Việc bố trí các khẩu đội này được thực hiện hoàn toàn thiếu hiểu biết”. Lý do thực sự tất nhiên là chính trị; ông đã hưởng lợi từ sự bảo trợ của Augustin Robespierre và đã viết một bài chính luận, Le Souper de Beaucaire (Bữa tối ở Beaucaire), bài viết mà Robespierre đã giúp ông xuất bản. “Người ta có thể bất công với tôi, Junot thân mến”, ông viết cho người sĩ quan phụ tá trung thành của mình, “nhưng chỉ cần vô tội là đủ; lương tâm của tôi chính là tòa án để tôi phán xử hành động của mình”. (Junot, một người trung thành nhưng bốc đồng, đã vạch ra một kế hoạch theo kiểu Scarlett Pimpernel(*) nhằm đánh tháo Napoleon ra khỏi nhà tù, kế hoạch này đã bị người tù nhạy bén và cương quyết này bác bỏ: “Không được làm gì hết. Anh sẽ chỉ khiến tôi gặp nguy hiểm”.)
Napoleon gặp may vì những người thực hiện Chính biến Thermidor không truy bức kẻ thù của họ khốc liệt như cách những người Jacobin đã làm, hay dung túng cho những kẻ sát nhân ngoài vòng pháp lý trong các nhà tù như các cuộc Thảm sát tháng Chín. Ông được thả vào ngày 20 tháng Tám vì thiếu bằng chứng. Điều kiện giam giữ của ông không mấy khắc nghiệt về thể chất, và sau khi lên nắm quyền ông đã dùng người gác ngục của mình làm một phụ tá trong cung điện. Sau khi được tự do, ông trở lại với việc lên kế hoạch cho một cuộc viễn chinh tới đảo Corse và hành hạ Thiếu tá Berlier khốn khổ. Ông cũng có thời gian để tiếp tục theo đuổi Désirée Clary – cô gái ông gọi là Eugénie – và nói với cô vào ngày 10 tháng Chín, “sự quyến rũ từ con người và tính cách của tiểu thư đã chinh phục trái tim của người yêu tiểu thư”. Để tăng cường sức hấp dẫn từ học thức của cô, ông đã gửi cho cô một danh sách những cuốn sách ông muốn cô đọc, và hứa tiếp theo chúng sẽ là những suy nghĩ của ông về âm nhạc. Ông cũng hối thúc cô cải thiện trí nhớ và “hình thành nên lý trí” của mình.
Cho dù Napoleon nói chung nhìn nhận phụ nữ như những thực thể thấp kém hơn, ông vẫn có những ý tưởng rõ ràng về cách họ nên được giáo dục nhằm trở thành những người bạn đời phù hợp với nam giới. Ông hỏi Désirée về hiệu ứng của việc đọc sách “lên tâm hồn” cô, và tìm cách làm cho cô nghĩ về âm nhạc một cách trí tuệ, vì nó “có những hiệu ứng hạnh phúc nhất lên cuộc sống”. (Hector Berlioz sau này có nói rằng Napoleon là một người sành sỏi, hiểu rất rõ âm nhạc của Giovanni Paisiello, người đã được nhà Bonaparte đặt hàng ở Paris và Rome để sáng tác gần như liên tục từ năm 1797 đến 1814). Những lá thư Napoleon gửi Désirée không đặc biệt bay bướm hay thậm chí là lãng mạn, song mối quan tâm ông dành cho cô được thể hiện rõ, và mọi sự tập trung chú ý của ông nhắm đến mục tiêu là làm cô hài lòng, thậm chí bất chấp cách xưng hô mới, không kiểu cách theo kiểu cộng hòa, ông vẫn nhất quyết gọi cô là “tiểu thư.”
Ông dường như rất thích cô chơi trò trừng phạt. “Thưa tiểu thư, nếu tiểu thư có thể chứng kiến”, ông viết vào tháng Hai năm 1795, “các cảm xúc mà những lá thư của tiểu thư thổi bùng lên trong tôi chắc hẳn tiểu thư sẽ thấy được sự bất công trong những lời trách cứ của mình. Không có niềm vui nào mà tôi lại không ước mong có cả tiểu thư trong đó, không giấc mơ nào lại không có một nửa là về tiểu thư. Vì thế xin hãy tin chắc rằng ‘người phụ nữ nhạy cảm nhất yêu người đàn ông lạnh lùng nhất’ là một điều phi lý và một phán xét sai lầm, một câu nói bất công mà tiểu thư đã không hề tin khi viết ra. Trái tim tiểu thư đã phản bác nó ngay trong lúc bàn tay tiểu thư viết những từ đó ra”. Ông nói thêm rằng viết thư cho cô vừa là niềm vui lớn nhất của ông vừa là “sự cần thiết khẩn cấp nhất” của tâm hồn ông. Ông đặt dài hạn một tờ báo về đàn clavico cho cô để cô có thể nhận được những bản nhạc mới nhất, và quan ngại rằng giáo viên dạy nhạc không dành đủ sự quan tâm cho những bài học xướng âm của cô. Ông thêm vào một đoạn dài viết về kỹ thuật hát cho phép phỏng đoán ông có kiến thức (hay ít nhất cũng có quan điểm) về thanh nhạc. Đến ngày 11 tháng Tư năm 1795, cuối cùng ông cũng sử dụng cách xưng hô thân mật “em” và viết rằng ông “là của em trọn đời”. Napoleon đã yêu.
•••
Ngày 3 tháng Ba năm 1795, Napoleon ra khơi từ Marseilles với 15 tàu, 1.174 đại bác và 16.900 quân để tái chiếm Corse từ tay Paoli và người Anh. Lực lượng viễn chinh của ông sớm bị đánh tan tác bởi một hải đội Anh gồm 15 tàu với ít đại bác hơn và chỉ có quân số bằng một nửa. Hai tàu Pháp bị chiếm. Napoleon không bị quy trách nhiệm vì thất bại, nhưng ông, một người mà tài năng chủ yếu giới hạn trên đất liền, lại không học được bài học của việc chiến đấu trên biển chống lại một lực lượng được triển khai với quy mô tương đương nhưng thiện chiến hơn nhiều của Hải quân Hoàng gia Anh. Từ năm 1793 đến 1797, người Pháp mất 125 tàu chiến so với 38 chiếc phía Anh, trong đó có 35 chiến hạm chủ lực (tàu thiết lập đội hình) so với 11 chiếc bị mất của người Anh, phần lớn thiệt hại của người Anh lại do hỏa hoạn, tai nạn hay các cơn bão chứ không phải do người Pháp tấn công gây ra. Khía cạnh hàng hải trong chiến lược quy mô lớn luôn là một trong những điểm yếu của Napoleon: trong danh sách dài những chiến thắng của ông, không có chiến thắng nào trên biển.
Khi cuộc viễn chinh được bãi bỏ, Napoleon trên lý thuyết bị thất nghiệp và chỉ đứng thứ 139 trong danh sách tướng lĩnh về mức độ cao cấp. Tư lệnh mới của Đạo quân Italy, Tướng Barthélemy Schérer, không muốn sử dụng ông, vì cho dù là một chuyên gia đã được thừa nhận về pháo binh, nhưng ông được cho là “quá chăm chú vào việc mưu tính để thăng cấp”. Điều này hiển nhiên là đúng: Napoleon không thấy có sự tách biệt nào giữa hai lĩnh vực quân sự và chính trị, giống như các bậc anh hùng Caesar hay Alexander mà ông ngưỡng mộ. Nhưng chỉ tám ngày sau khi về cảng từ cuộc viễn chinh tới Corse, ông đã được lệnh nắm quyền chỉ huy pháo binh thuộc Đạo quân Tây của Tướng Hoche, đóng quân tại Brest, khi đó đang đàn áp cuộc nổi loạn của những kẻ bảo hoàng ở vùng Vendée.
Chính quyền, lúc này bao gồm đa số là những người Girondin đã sống sót qua Thời kỳ Kinh hoàng, đang tiến hành một cuộc chiến bẩn thỉu tàn khốc ở miền Tây nước Pháp, nơi nhiều người Pháp bị giết hơn so với trong toàn bộ Thời kỳ Kinh hoàng ở Paris. Napoleon biết ở đấy sẽ chẳng có mấy vinh quang để giành lấy, cho dù nếu ông có thành công đi nữa. Hoche chỉ hơn ông có một tuổi, nên cơ hội thăng tiến của Napoleon rất mong manh. Sau khi đã chiến đấu chống lại người Anh và Piedmont, ông không hề hào hứng với viễn cảnh chiến đấu chống lại những người Pháp khác; ngày 8 tháng Năm, ông lên đường tới Paris để cố gắng tìm kiếm một vị trí tốt hơn, mang theo cậu em trai 16 tuổi Louis với hy vọng tìm được cho cậu một chỗ theo học tại trường pháo binh ở Châlons-sur-Marne, cùng hai sĩ quan phụ tá Marmont và Junot (lúc này Muiron là sĩ quan phụ tá thứ ba của ông).
Sau khi đã thu xếp chỗ nghỉ tại Khách sạn Liberté ở Paris vào ngày 25 tháng Năm, Napoleon tới cầu kiến Bộ trưởng Chiến tranh lâm thời, Hạm trưởng Aubry, người trên thực tế đã hạ thấp đề nghị bổ nhiệm của ông xuống chức chỉ huy bộ binh ở Vendée. “Điều này có vẻ là một sự sỉ nhục với Napoleon”, em trai Louis của ông ghi lại “anh tôi từ chối, và sống ở Paris mà không có việc làm, bằng lòng với khoản thu nhập của một viên tướng thất nghiệp”. Ông lại viện cớ bị ốm và sống chật vật với mức lương bị cắt giảm một nửa, song vẫn gửi Louis tới Châlons. Ông tiếp tục tảng lờ yêu cầu từ Bộ Chiến tranh rằng ông phải tới Vendée, hoặc cung cấp bằng chứng bệnh tật, hoặc giải ngũ hẳn. Đó là những tháng ngày rất khó khăn cho ông, nhưng ông rất bình thản về số phận của mình và nói với Joseph vào tháng Tám: “Em rất ít gắn bó với đời sống… thấy mình thường xuyên ở trong trạng thái chỉ tìm thấy chính mình trong mỗi trận chiến, chỉ bị thuyết phục bởi cảm xúc cho rằng khi cái chết chực chờ trong trận chiến sẽ kết thúc tất cả, thì lo lắng là điều điên rồ”. Tiếp theo, ông đưa ra một lời tự giễu cợt bản thân, được các sử gia nhìn nhận một cách nghiêm túc nên đã bị tước hết vẻ thú vị hài hước của nó: “Luôn rất tin tưởng giao phó bản thân cho Số phận và định mệnh, nếu chuyện này tiếp tục, anh thân mến, em sẽ chấm dứt nó bằng việc không tránh đường khi một cỗ xe ngựa chạy tới nữa.”
Napoleon trên thực tế đang quyết tâm tận hưởng những nét quyến rũ của Paris. “Ký ức về Thời kỳ Kinh hoàng chỉ còn là một cơn ác mộng nơi đây”, ông viết cho Joseph. “Mọi người có vẻ quyết tâm bù đắp lại những gì họ đã phải chịu đựng; quyết tâm cũng vì tương lai bất định, nên không muốn để lỡ bất cứ khoái lạc nào của hiện tại”. Ông gồng mình bước vào đời sống xã hội lần đầu tiên trong đời, cho dù không hề thoải mái khi ở bên cạnh phụ nữ. Điều này có lẽ một phần cũng vì ngoại hình của ông; một phụ nữ từng gặp ông vài lần, vào một mùa xuân nọ đã gọi ông là “tạo vật gầy gò nhất và kỳ lạ nhất tôi từng gặp… gầy tới mức anh ta khiến người ta thương hại”. Một phụ nữ khác đặt biệt danh cho ông là “Con mèo đi hia”. Người phụ nữ quảng giao Laure d’Abrantès, vốn quen biết Napoleon vào thời kỳ này, dù nhiều khả năng không như mức độ bà ta tuyên bố trong hồi ký đầy ác ý của mình sau này, nhớ về ông “với một cái mũ tròn tồi tàn lụp xụp trước trán, và mái tóc giả rắc bột cẩu thả buông trùm qua cổ áo khoác màu xám của anh la, không có găng tay vì anh ta nói đấy là một thứ xa xỉ vô ích, đi đôi ủng được đóng cẩu thả và đánh xi tồi tàn, với bộ dạng gầy còm và nước da tái mét”. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên về chuyện Napoleon không thoải mái trong các phòng khách hợp thời trang của Paris cũng như việc ông có ác cảm với những người ở đó: ông chỉ trích những kẻ ăn chơi chưng diện với Junot (người sau này kết hôn với Laure d’Abramès) về nhưng kiểu mốt váy áo và giọng nói bắt chước ngọng của họ, và khi trở thành hoàng đế, ông tin chắc rằng các nữ chủ nhân của những phòng khách thành thị hợp thời trang này luôn cổ vũ cho sự đối lập với ông, các hình thức giải trí ưa thích của ông thường mang tính trí tuệ hơn là xã giao; ông tới các buổi thuyết trình trước công chúng, thăm đài quan sát thiên văn, nhà hát kịch và nhà hát opera. “Bi kịch kích thích tâm hồn”, về sau ông từng nói với một trong số các thư ký của mình, “chắp cánh cho trái tim, có thể và nhất định tạo ra những anh hùng.”
•••
Trên đường lên Paris vào tháng Năm năm 1795, Napoleon đã viết thư cho Désirée rằng ông “rất phiền muộn trước ý nghĩ phải cách xa em đến thế trong thời gian dài đến vậy”. Vào thời điểm này, ông đã có đủ tiền tiết kiệm từ lương của mình để cân nhắc tới việc mua một lâu đài nhỏ tại Ragny thuộc Burgundy, lập danh sách các nguồn thu nhập tiềm năng ông có thể kiếm được từ việc trồng trọt các loại ngũ cốc khác nhau ở đó, ước tính rằng phòng ăn của lâu đài rộng gấp bốn lần kích thước của phòng ăn tại Casa Bonaparte, và đưa ra một nhận xét rất hợp phong cách cộng hòa rằng “Nếu phá bỏ ba hay bốn tòa tháp vốn đem đến cho nó vẻ quý tộc, tòa lâu đài sẽ chỉ còn là một ngôi nhà gia đình rất đồ sộ bắt mắt”. Ông nói với Joseph về mong muốn lập gia đình.
“Anh đã thấy nhiều phụ nữ đẹp với tính tình dễ mến tại nhà Marmont ở Châtillon”, Napoleon viết cho Désirée trong một nỗ lực quả thực khá lộ liễu để khiêu khích sự ghen tuông của cô vào ngày 2 tháng Sáu, “nhưng anh chưa bao giờ cảm thấy, dù là trong một khoảnh khắc, rằng bất cứ ai trong số họ có thể sánh cùng Eugénie tốt bụng, yêu dấu của anh”. Hai ngày sau ông lại viết: “Người bạn được tôn thờ, anh không nhận được thêm lá thư nào từ em nữa. Làm sao em có thể trải qua 11 ngày liền mà không viết cho anh?” Có lẽ ông hiểu ra rằng phu nhân Clary đã thuyết phục con gái mình không nên để mối quan hệ đi xa hơn nữa, vì nghĩ rằng một Bonaparte trong gia đình bà ta đã là quá đủ. Một tuần sau Napoleon chỉ còn gọi cô gái là “tiểu thư”. Đến ngày 14 tháng Sáu, ông thừa nhận tình hình: “Tôi biết là tiểu thư sẽ luôn lưu giữ tình cảm dành cho người bạn của tiểu thư, nhưng nó sẽ chỉ là sự trân trọng đầy trìu mến, không hơn”. Những lá thư ông gửi Joseph cho thấy rõ ông vẫn còn yêu Désirée, song tới tháng Tám, trở lại gọi nàng là “cô”, ông viết: “Hãy làm theo bản năng của cô, hãy cho phép bản thân cô được yêu những gì ở gần mình… Cô biết là định mệnh của tôi nằm trong sự bất trắc của chinh chiến, trong vinh quang hay trong cái chết. Bất chấp tính kịch màu mè của chúng, những lời ông nói có ưu thế ở chỗ đúng sự thực.
Liệu đó là cảm giác thương thân trong tình cảm với Désirée, hay tình cảm anh em đã đẩy Napoleon tới chỗ rơi nước mắt khi viết thư cho Joseph ngày 24 tháng Sáu, một lá thư bề ngoài là về những chuyện bình thường như kế hoạch tham gia buôn bán dầu ô liu của Genoa. “Cuộc sống giống như một giấc mơ trống rỗng đang tan biến”, ông viết cho Joseph, tìm kiếm hình ảnh của mình. “Chúng ta đã sống khá nhiều năm bên nhau, đã rất gắn bó với nhau, đến mức trái tim chúng ta hòa làm một, và anh biết rõ hơn ai hết trái tim em hoàn toàn thuộc về anh như thế nào”. Đến ngày 12 tháng Bảy, ông cố thuyết phục bản thân rằng ông đã vượt qua được mối tình với Désirée, viết những dòng dữ dội gửi cho Joseph chỉ trích sự nhu nhược của những người đàn ông quan tâm tới phụ nữ, những người “hóa điên vì họ, chỉ nghĩ đến họ, chỉ sống vì họ và cho họ. Một người phụ nữ chỉ cần ở Paris sáu tháng là đủ để biết họ có quyền gì và phạm vi ‘vương quốc’ của họ là gì.”
Việc Désirée từ chối Napoleon đã góp phần vào thái độ hoài nghi chua chát sâu sắc nơi ông về phụ nữ, và thậm chí về cả chính tình yêu. Trên đảo St. Helena, ông định nghĩa tình yêu là “mối bận tâm của kẻ vô công rồi nghề, thú tiêu khiển của chiến binh, trở ngại cho bậc quân chủ”, và nói với một trong các tùy tùng của mình: “Tình yêu không thực sự tồn tại. Đó là một thứ cảm xúc nhân tạo được sinh ra từ xã hội”. Chưa đầy ba tháng sau khi chấm dứt theo đuổi Désirée, ông đã lại yêu, cho dù dường như ông vẫn giữ lại một chỗ trong trái tim cho cô, ngay cả sau khi cô đã kết hôn với Tướng Jean-Baptiste Bernadotte, và cuối cùng trở thành Hoàng hậu Thụy Điển.
•••
“Chúng ta tin chắc về sự vượt trội của bộ binh Pháp nên chúng ta cười nhạo những đe dọa của người Anh”, Napoleon viết cho Joseph sau khi quân Anh đổ bộ lên bờ ở vịnh Quiberon, gần Saint-Nazaire, vào cuối tháng Sáu năm 1795 để hỗ trợ cuộc nổi dậy ở Vendée. Đây là một ví dụ sớm cho thấy sự tự tin thái quá của ông trước người Anh sau trận Toulon (dù phải thừa nhận là nó đã được chứng minh trong trường hợp này, vì tới tháng Mười cuộc tấn công đã thất bại hoàn toàn). Ngoài trận Toulon, ông chỉ chiến đấu với người Anh thêm hai lần nữa, ở Acre và trong chiến dịch Waterloo.
Tới đầu tháng Tám, ông vẫn còn đang đi vận động cho một vị trí chỉ huy pháo binh của Đạo quân Italy, nhưng ông cũng nghiêm túc cân nhắc lời đề nghị tới Thổ Nhĩ Kỳ để hiện đại hóa pháo binh cho Quốc vương. Theo hồi ký của Lucien, giữa thời kỳ hoàn toàn bất ổn này trong sự nghiệp của mình, Napoleon thậm chí đã xem xét tới việc gia nhập quân đội của Công ty Đông Ấn, vì những lợi ích tài chính nó đem lại hơn là cơ hội về quân sự, khi nói “Tôi sẽ trở về sau vài năm như một triệu phú giàu có, mang theo những món hồi môn đáng kể cho ba em gái mình”. Mẫu phu nhân, như sau này người ta gọi mẹ ông như vậy, trước giả định đó đã nghiêm túc quở trách ông cho dù chỉ mới nghĩ tới nó, bởi bà nghĩ Napoleon rất có thể sẽ làm điều đó “trong một khoảnh khắc bực bội với Chính phủ”. Cũng có dấu hiệu cho thấy người Nga khi đó muốn đề nghị ông giúp họ đánh người Thổ.
Đến giữa tháng Tám năm 1795, vấn đề trở nên nghiêm trọng khi Bộ Chiến tranh yêu cầu Napoleon đến trình diện hội đồng y tế của Bộ nhằm đánh giá liệu ông có thực sự bị ốm hay không. Ông đã thỉnh cầu tới Barras, Fréron và những mối quan hệ chính trị khác của mình, một trong những người này đã bố trí cho ông một vị trí tại Cục Lịch sử và Đồ bản của Bộ Chiến tranh. Dù có tên như thế, nhưng cơ quan này trên thực tế là bộ phận lên kế hoạch điều phối chiến lược quân sự của Pháp. Vậy là ngày 17 tháng Tám, trong khi Napoleon viết cho Simon Sucy de Clisson, quản lý nhân sự của Đạo quân Italy ở Nice “Tôi đã được chỉ định vào một vị trí chỉ huy của Đạo quân Vendée: tôi sẽ không chấp nhận”, thì ba ngày sau ông hân hoan viết cho Joseph: “Hiện tại em được phân công về Cục Đồ bản của Ủy ban An toàn Công cộng phụ trách chỉ đạo các đạo quân”. Cục nằm dưới quyền quản lý của Tướng Henri Clarke, một người có sự bảo trợ của nhà quản lý quân sự xuất sắc Lazare Carnot, người được biết đến với biệt danh “Nhà tổ chức Chiến thắng.”
Cục Đồ bản là một tổ chức nhỏ gọn, rất hiệu quả thuộc Bộ Chiến tranh, được mô tả là “tổ chức thiết lập kế hoạch tinh vi nhất hiện thời”. Được Carnot xây dựng và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban, Cục thu thập thông tin từ các tư lệnh, vẽ sơ đồ di chuyển quân, chuẩn bị các mệnh lệnh tác chiến chi tiết và điều phối hậu cần. Dưới quyền Clarke, nhân sự cao cấp của Cục gồm các Tướng Jean-Girard Lacuée, César-Gabriel Berthier và Pierre-Victor Houdon, tất cả đều là các chiến lược gia tài năng và mẫn cán. Napoleon không thể có nơi nào tốt hơn để học hỏi mọi thứ cần thiết về cung ứng, hỗ trợ và hậu cần làm nên chiến lược (cho dù từ này chỉ gia nhập từ vựng quân sự vào đầu thế kỷ 19 và chưa bao giờ được Napoleon sử dụng). Giai đoạn từ giữa tháng Tám tới đầu tháng Mười năm 1795 này – ngắn ngủi, nhưng rất căng thẳng về đầu óc – là thời gian Napoleon học hỏi về các vấn đề thực tiễn trong chiến lược chiến tranh, khác biệt hẳn với khía cạnh chiến thuật chiến đấu mà ông đã thể hiện hoàn hảo tại Toulon. Thành công về quân sự của Napoleon bắt nguồn từ tài năng và khả năng làm việc căng thẳng cao độ của mình, ngoài ra vào thời gian này Pháp cũng có một số nhà tư tưởng và quản lý quân sự tài năng hiếm thấy, có thể chỉ bảo cho ông và sau cùng là thực hiện những công việc cụ thể cần thiết để biến các ý tưởng của ông thành hiện thực. Cục Đồ bản cũng là nơi tốt nhất để ông đưa ra đánh giá của mình về những vị tướng nào có năng lực và có thể trông cậy vào.
Cục không quyết định chiến lược tổng thể, mà do các chính trị gia của một tổ chức rất dễ rơi vào đấu đá phe phái là Ủy ban An toàn Công cộng quyết định. Chẳng hạn, cuộc tranh cãi xem nên vượt sông Rhine ở đâu và khi nào để tấn công Áo năm 1795 đã diễn ra tại Ủy ban, còn Cục chỉ đưa ra tư vấn cho mỗi lựa chọn. Vào tháng tám, mọi kế hoạch tác chiến giúp đỡ – hoặc chống lại – Thổ Nhĩ Kỳ dù đã bị Ủy ban bác bỏ, và Ủy ban cũng quyết định rằng Napoleon không thể rời đất nước cho tới khi chiến tranh kết thúc, ông vẫn gặp phải một số vấn đề từ các bộ phận khác nhau trong Bộ Chiến tranh về chuyện ông đang tại ngũ hay đã giải ngũ, và thậm chí ngày 15 tháng chín ông còn bị gạch tên khỏi danh sách tướng lĩnh đang tại ngũ. “Tôi đã chiến đấu như một con sư tử cho nền Cộng hòa”, ông viết thư cho bạn mình, diễn viên François-Joseph Talma, “và để trả công, nó đã bỏ mặc tôi chết đói”. (Sau đó ông đã sớm được khôi phục).
Thời gian làm việc lạ lùng của Cục Đồ bản – từ 1 giờ chiều tới 5 giờ chiều và từ 11 giờ đêm tới 3 giờ sáng – cho phép Napoleon có nhiều thời gian để viết một cuốn tiểu thuyết lãng mạn có tên Clisson et Eugénie (Clisson và Eugénie), khúc vĩ thanh cho mối tình đơn phương của ông với Désirée. Được viết bằng những câu ngắn, súc tích theo truyền thống anh hùng ca, tác phẩm này vô tình hay hữu ý đã chịu ảnh hưởng của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Nỗi đau của chàng Werther được Goethe sáng tác năm 1774, được Napoleon đọc không ít hơn sáu lần trong chiến dịch Ai Cập, và nhiều khả năng ông đã đọc tiểu thuyết này lần đầu năm 18 tuổi. Là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất trong trào lưu Bão táp và Xung kích (*) ở châu Âu và là tác phẩm bán chạy nhất thời ấy, Werther có ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào văn học Lãng mạn và những sáng tác của Napoleon. Cho dù cái tên “Clisson” được mượn từ một trong những người bạn thời đó của ông, Sucy de Clisson, nhưng nhân vật này chính là Napoleon, khi hai người giống nhau rất nhiều điểm, thậm chí cả hai đều 26 tuổi. “Từ khi chào đời Clisson đã bị chiến tranh thu hút mạnh mẽ”, câu chuyện mở màn. “Trong khi những đứa trẻ khác cùng lứa tuổi còn háo hức lắng nghe những câu chuyện kể bên lò sưởi, anh đã khao khát mơ về chiến trận”. Clisson gia nhập Vệ binh Quốc gia cách mạng và “Chẳng mấy chốc anh đã vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhân dân đặt vào mình: chiến thắng luôn đồng hành cùng anh.”
Clisson vượt lên trên những thú vui tiêu khiển phù phiếm của những người cùng thời với anh như tán tỉnh, cờ bạc và chuyện phiếm: “Một con người có trí tưởng tượng mãnh liệt, với trái tim nhiệt huyết, trí tuệ không thỏa hiệp và cái đầu tỉnh táo như anh không thể nào không khó chịu trước lối nói chuyện màu mè giả tạo của những người đàn bà đỏm dáng, những trò chơi quyến rũ, những thứ tư duy bên bàn tiệc và việc tung ra những lời nhục mạ châm biếm”. Một tính cách tuyệt vời như thế chỉ tìm được sự bình yên khi gần gũi với thiên nhiên giống như Rousseau trong các khu rừng, nơi “anh cảm thấy bình yên với chính mình, khinh miệt sự xấu xa của con người và ghê tởm sự điên rồ cũng như sự tàn nhẫn”. Khi Clisson gặp Eugénie 16 tuổi tại một điểm chăm sóc thư giãn, “nàng hé lộ những chiếc răng trắng như ngọc trai đẹp lộng lẫy”. Sau đó,
⚝ ✽ ⚝
Clisson và Eugénie kết hôn, có con và sống hạnh phúc bên nhau, được những người nghèo khó rất ngưỡng mộ vì lòng từ ái, khoan dung hào phóng của họ. Song câu chuyện thần tiên hoàn mỹ này tốt đẹp đến mức khó dài lâu. Một ngày kia, một thông báo được gửi tới, chỉ thị cho Clisson phải lên đường tới Paris trong vòng 24 tiếng. “Tại đó, anh được giao một nhiệm vụ quan trọng, cần đến một người tài năng như anh”. Được bổ nhiệm chỉ huy một đạo quân, Clisson “thành công trong mọi việc; anh vượt quá kỳ vọng của mọi người và quân đội; kỳ thực, anh là lý do duy nhất tạo nên thành công của quân đội”. Tuy nhiên, vì bị thương nặng trong một cuộc giao chiến, Clisson đã phái Berville, một trong những sĩ quan dưới quyền, báo tin cho Eugénie, “và làm bạn với nàng cho tới khi anh bình phục hoàn toàn”. Độc giả chẳng thể nhận ra một cách rõ ràng vì lý do gì mà Eugénie lập tức ngủ với Berville, rồi Clisson đang bình phục phát hiện ra, và muốn trả thù, một điều có thể hiểu được. “Nhưng làm sao anh có thể rời khỏi quân đội và bổn phận của mình? Tổ quốc cần anh ở đây!” Giải pháp là một cái chết vinh quang trên chiến trường, vì thế khi “Trống rền vang báo hiệu cuộc tấn công hai bên cánh, và cái chết hoành hành trong các hàng quân, Clisson viết một lá thư xúc cảm đúng lối Eugénie thích và trao cho một sĩ quan phụ tá, và theo đúng bổn phận, đã đích thân dẫn đầu đợt xung phong – ở thời điểm chiến thắng được quyết định – và ngã xuống, bị cả ngàn phát đạn xuyên qua người.” Chấm hết .
Chúng ta nên cố gắng nhìn nhận Clisson et Eugénie qua lăng kính văn học thế kỷ 18 hơn là như một cuốn sách lãng mạn rẻ tiền ngày nay. Truyện ngắn dài 17 trang này được mô tả như “lời tuyên ngôn cuối cùng về một Chủ nghĩa lãng mạn phôi thai nơi con người sau này sẽ khiến người ta kinh ngạc vì tính thực tế xuất chúng của mình”, và rõ ràng trong trường hợp này Napoleon đã sử dụng câu chuyện để tưởng tượng, bằng cách biến Eugénie thành kẻ phản bội tội lỗi trong khi ông vẫn anh hùng nghĩa hiệp, trung thành và thậm chí cuối cùng còn tha thứ cho sự thiếu chung thủy của nàng. Nhưng Napoleon không thể biện hộ về chất kịch, giọng điệu ủy mị và sáo mòn, bởi câu chuyện được ông sáng tác trong một khoảnh khắc kích động của tâm trạng phẫn uất thiếu chín chắn: Clisson et Eugénie đã được xóa đi viết lại nhiều lần.
•••
Vào nửa cuối năm 1795, các thủ lĩnh phái Girondin của Pháp nhận ra rằng đất nước này cần một hiến pháp mới nếu muốn bỏ lại đằng sau những tháng ngày của Thời kỳ Kinh hoàng Jacobin. “Phe bảo hoàng đang trỗi dậy”, Napoleon viết cho Joseph vào ngày 1 tháng Chín, “chúng ta sẽ xem việc này kết thúc ra sao”. Alexis de Tocqueville sau này có viết các nhà nước luôn dễ bị tổn thương hơn khi chúng định cải cách chính mình, và điều đó chắc chắn đúng với Pháp vào mùa thu năm 1795.
Ngày 23 tháng Tám, bản hiến pháp thứ ba kể từ khi ngục Bastille thất thủ, được biết đến dưới tên gọi Hiến pháp Năm III, thiết lập một hệ thống lập pháp lưỡng viện và một chính quyền hành pháp năm thành viên gọi là Đốc chính, và được Quốc ước phê chuẩn. Bản hiến pháp này bắt đầu có hiệu lực vào cuối tháng Mười. Một Nghị viện bao gồm một Hội đồng Năm trăm(*) và Hội đồng Nguyên lão sẽ thay thế Quốc ước, và Đốc chính sẽ thay thế Ủy ban An toàn Công cộng, một tổ chức vốn đã trở nên đồng nghĩa với Thời kỳ Kinh hoàng. Thời điểm cải cách này cung cấp cơ hội phản công cho các đối thủ của cả Cách mạng lẫn Cộng hòa. Trong khi quân Áo quay trở lại sông Rhine trong một cuộc phản công lớn vào ngày 20 tháng Chín, thì nền kinh tế Pháp vẫn rất yếu ớt và tham nhũng lan tràn, các kẻ thù của nền Cộng hòa liên kết để lật đổ chính quyền mới vào tuần đầu tiên của tháng Mười, bí mật tuồn một lượng lớn vũ khí và đạn vào Paris.
Mặc dù Thời kỳ Kinh hoàng đã kết thúc và Ủy ban An toàn Công cộng sẽ được giải thể khi Đốc chính mới nắm quyền, nhưng những hận thù cay đắng mà tổ chức này tạo ra giờ đây lại bị sử dụng để chống lại thể chế kế tục nó. Chính tại các “Khu”, 48 quận của Paris được thiết lập vào năm 1790 để kiểm soát các hội đồng và đơn vị Vệ binh Quốc gia địa phương, là nơi cuộc bạo động được tập trung nhất. Dù trên thực tế chỉ có bảy Khu nổi dậy, thành viên Vệ binh Quốc gia từ các tỉnh khác cũng gia nhập cuộc bạo động.
Không phải tất cả – hay thậm chí là chủ yếu – người của các tỉnh là các phần tử bảo hoàng. Vị tướng kỳ cựu Mathieu Dumas viết trong hồi ký của mình: “Mong muốn lớn nhất của dân chúng Paris là trở lại với hiến pháp năm 1791”, và không mấy ai hào hứng với những gì cuộc nội chiến nhằm phục hồi vương triều Bourbon sẽ gây ra. Các Khu bao gồm những thành viên tầng lớp trung lưu của Vệ binh Quốc gia, các phần tử bảo hoàng, một số người trung dung và tự do và những thường dân Paris phản đối chính quyền vì nạn tham nhũng cũng như những thất bại về đối nội và đối ngoại. Chính bản chất hỗn tạp về thành phần chính trị của lực lượng bạo động khiến cho bất cứ sự điều phối nào từ trung ương trong việc ấn định ngày hành động đều bất khả thi, và việc này cũng không thể giữ được bí mật trước chính quyền.
Người mà Quốc ước ban đầu trông cậy vào để xử lý cuộc bạo động sắp nổ ra, Tướng Jacques-François Menou, Tư lệnh Đạo quân Nội địa, đã tìm cách thương lượng với các Khu để tránh đổ máu. Các nhà lãnh đạo Quốc ước hiểu nhầm động thái này là manh nha sự phản bội nên cho bắt giữ viên tướng. (Sau này ông ta được tha bổng). Với thời gian đang cạn dần trước thời điểm cuộc tấn công được dự kiến, những người Girondin cử một trong các thủ lĩnh của họ là Chủ tịch Nghị viện Paul Barras làm chỉ huy Đạo quân Nội địa, bất chấp việc ông này không có kinh nghiệm quân sự nào từ năm 1783. Chỉ thị dành cho Paul Barras là cứu lấy cuộc Cách mạng.
Vào tối Chủ nhật 4 tháng Mười, lúc Napoleon đang ở Nhà hát Feydeau xem vở kịch Beverley của Saurin thì nghe tin các Khu có dự định nổi dậy vào hôm sau. Ngay sớm tinh mơ hôm sau – ngày 13 tháng Hái nho theo lịch cách mạng – Barras cử ông làm Phó Tư lệnh Đạo quân Nội địa, và ra lệnh cho ông dùng mọi biện pháp cần thiết để đè bẹp cuộc bạo động. Napoleon đã gây ấn tượng với những người ra quyết định quan trọng nhất trong đời mình – trong số đó có Kéralio, anh em du Teil, Saliceti, Doppet, Dugommier, Augustin Robespierre và giờ đây là Barras, người nghe Saliceti nói về ông sau chiến thắng ở Toulon. Từng phục vụ tại Cục Đồ bản, ông được những nhân vật hàng đầu Chính phủ như Carnot và Jean-Lambert Tallien biết đến. (Sau này ông thích thú nhớ lại rằng chính khách ít do dự nhất về việc gây đổ máu vào tháng Hái nho lại là vị tu sĩ và lý thuyết gia chính trị, Tu viện trưởng Emmanuel Sieyès.) Đáng ngạc nhiên là có quá ít sĩ quan cao cấp khác ở Paris để đảm nhiệm việc này, hay ít nhất là những người sẵn sàng bắn vào thường dân trên đường phố. Từ phản ứng của Napoleon với hai cuộc tấn công vào Tuilerie mà ông đã chứng kiến năm 1792, chẳng có gì để nghi ngờ về điều ông sẽ làm.
Đây là lần đầu tiên Napoleon can dự vào chính trị quốc gia ở cấp độ cao trên tuyến đầu, và ông nhận thấy điều này thật phấn khích. Ông ra lệnh cho Thống chế Joachim Murat cùng 100 kỵ binh của Trung đoàn Khinh kỵ 21 phi nước đại tới doanh trại Sablons cách đấy hơn 3 km để đoạt lấy số đại bác ở đó và đưa chúng vào trung tâm Paris, và chém ngay bất cứ ai tìm cách ngăn cản. Các Khu đã để lỡ một cơ hội lớn vì những khẩu pháo tại Sablons vào thời điểm ấy chỉ có 50 người canh gác.
Trong thời gian từ 6 giờ đến 9 giờ sáng, sau khi đảm bảo về sự trung thành từ sĩ quan và binh lính dưới quyền, Napoleon bố trí hai khẩu pháo ở lối vào phố Saint-Niçaise, một khẩu nữa đối mặt với nhà thờ Saint-Roch ở cuối phố Dauphine, hai khẩu khác trên phố Saint-Honoré gần quảng trường Vendôme, và hai khẩu đối mặt với cầu Royal trên kè Voltaire. Ông tổ chức bộ binh đằng sau các khẩu pháo, và phái lực lượng dự bị tới quảng trường Carrousel để bảo vệ điện Tuilerie, nơi nhóm họp của Quốc ước và là trụ sở của Chính phủ. Kỵ binh của ông được bố trí tại quảng trường Cách mạng (nay là quảng trường Concorde). Sau đó, ông dành ra ba giờ đồng hồ đi kiểm tra lần lượt từng khẩu pháo của mình. “Những người tử tế và chính trực cần được thuyết phục bằng những cách lịch sự”, Napoleon sau này viết. “Còn lũ cặn bã phải bị trấn áp bằng bạo lực.”
Napoleon chuẩn bị sử dụng đạn chùm, cách gọi thông dụng cho đạn bi hay đạn hộp, bao gồm hàng trăm viên đạn hỏa mai được chứa trong một hộp đựng bằng kim loại sẽ vỡ toang ra ngay khi rời khỏi nòng pháo, giải phóng các viên đạn chì bay tỏa ra thành một hình quạt tương đối rộng với vận tốc còn cao hơn vận tốc khoảng 536 m trên giây của một phát đạn hỏa mai. Tầm bắn tối đa của loại đạn này là khoảng 550 m, tầm bắn tối ưu khoảng 230 m. Việc sử dụng đạn chùm chống lại thường dân cho tới lúc ấy chưa từng có tiền lệ tại Paris, và việc Napoleon sẵn sàng xem xét đến cách đó là minh chứng cho sự tàn nhẫn của ông. Ông sẽ không làm một kẻ ngốc. “Nếu ta đối xử với đám đông bằng lòng tốt”, sau này ông nói với Joseph, “những kẻ đó sẽ hoang tưởng rằng chúng là bất khả xâm phạm; nếu ta treo cổ vài tên, chúng sẽ phát chán với trò chơi, và trở nên ngoan ngoãn biết điều như đáng ra chúng phải thế.”
Lực lượng của Napoleon bao gồm 4.500 lính và chừng 1.500 “người ái quốc”, hiến binh, và các thương binh ở điện Invalides. Đối đầu với họ là một lực lượng hỗn tạp gồm tới 30.000 người từ các Khu, trên danh nghĩa dưới sự chỉ huy của Tướng Dancian, người lãng phí gần hết ngày vào việc tiến hành các cuộc thương lượng. Mãi đến 4 giờ chiều, các cánh quân bạo động mới bắt đầu xuất phát từ các phố nhánh ở phía bắc điện Tuileries. Napoleon không nổ súng ngay lập tức, nhưng ngay khi những phát súng hỏa mai đầu tiên vang lên từ phía các Khu vào thời điểm trong khoảng từ 4:15 đến 4:45 chiều, ông liền tung ra một đòn đáp trả khủng khiếp bằng pháo. Ông cũng cho bắn đạn chùm vào lực lượng của các Khu tìm cách vượt qua những cây cầu bắc ngang sông Seine, khiến họ chịu tổn thất nặng nề và nhanh chóng bỏ chạy. Tại phần lớn các khu vực ở Paris, cuộc tấn công đến 6 giờ chiều đã chấm dứt, nhưng tại nhà thờ Saint-Roch trên phố Saint-Honoré, nơi thực tế đã trở thành bản doanh của cuộc bạo động, và là nơi những người bị thương được đưa tới, các tay súng bắn tỉa tiếp tục nã đạn từ trên các mái nhà và sau các chiến lũy. Cuộc chiến đấu tiếp tục kéo dài thêm nhiều giờ, cho tới khi Napoleon đưa pháo của ông tới cách nhà thờ chỉ 55 m và đầu hàng là lựa chọn duy nhất. Khoảng 300 người tham gia bạo động bị giết hôm đó, trong khi chỉ có 6 người bên phía Napoleon chết. Tỏ ra khoan dung so với thông lệ của thời ấy, Quốc ước sau đó chỉ hành quyết hai thủ lĩnh Khu.(*) “Nhát quất bằng đạn chùm” – như sự kiện này được biết đến – đồng nghĩa với việc quần chúng Paris không còn đóng vai trò nào nữa trong nền chính trị Pháp trong ba thập niên kế tiếp.
Vào năm 1811, Tướng Jean Sarrazin xuất bản tại London một cuốn sách mang tên Confession of General Buonaparté to the Abbé Maury (Lời thú tội của Tướng Buonaparté với Tu viện trưởng Maury). Lúc đó Napoleon đã kết án tử hình vắng mặt Sarrazin về tội phản quốc, và Sarrazin chẳng mất gì khi tuyên bố rằng vào ngày 13 tháng Hái nho, “Không những không chặn đứng sự cuồng nộ mù quáng của binh lính, Buonaparté còn cho họ thấy tấm gương về sự vô nhân đạo. Y dùng thanh kiếm của mình chém gục những con người khốn khổ, những người trong cơn sợ hãi đã vứt bỏ vũ khí và cầu xin sự khoan dung của y”. Sarrazin còn tuyên bố rằng cấp phó của Napoleon, Monvoisin, đã trách cứ Napoleon về sự tàn nhẫn ấy hôm đó và từ chức. Không điều gì trong câu chuyện này là đúng sự thật, nhưng nó đã trở thành một phần trong “Giai thoại Đen” bao quanh Napoleon từ tháng Vendémiaire trở đi.
•••
Mưa lớn trút xuống trong đêm 13 tháng Hái nho nhanh chóng rửa sạch máu trên các đường phố, song ký ức về nó vẫn còn lưu lại. Thậm chí cả tờ Annual Register chống Jacobin dữ dội do Edmund Burke lập ra, cũng chỉ ra rằng “Chính trong cuộc xung đột này mà Buonaparté lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường, bằng lòng dũng cảm và cách hành xử của mình đã đặt nền móng cho sự tin tưởng vào sức mạnh của ông ấy, thứ sau đó đã nhanh chóng đưa ông ấy tới thăng tiến và vinh quang”. Những đòi hỏi cấp thiết về chính trị đồng nghĩa với việc sẽ không còn thêm chuyện vô nghĩa nào tại Bộ Chiến tranh về danh sách thâm niên, hội đồng y tế, vấn đề đào ngũ hay những chuyện tương tự nữa. Trước khi tháng Hái nho kết thúc, Napoleon đã được Barras thăng hàm trung tướng, và không lâu sau được bổ nhiệm làm Tư lệnh Đạo quân Nội địa để ghi nhận công lao của ông trong việc cứu nguy cho nền Cộng hòa và có thể là cả việc ngăn chặn nội chiến. Thật mỉa mai là ông đã từng từ chối tới Vendée phần lớn vì không muốn giết người Pháp, rồi sau đó lại giành được sự thăng tiến nhanh nhất nhờ làm chính điều đó. Nhưng trong suy nghĩ của ông, có sự khác biệt giữa một lực lượng chiến đấu hợp pháp và một đám đông hỗn tạp. Suốt một thời gian sau đó, Napoleon đôi lúc bị gọi sau lưng là “Tướng quân Tháng Hái nho”. Không những không phiền lòng về sự can dự của mình vào cái chết của nhiều đồng bào đến vậy, ông còn ra lệnh kỷ niệm dịp này lúc trở thành Tổng tài Thứ nhất, và khi một quý bà hỏi làm sao ông có thể bắn vào đám đông tàn nhẫn đến như vậy, ông trả lời: “Người lính chỉ là cái máy tuân thủ mệnh lệnh”. Ông đã không chỉ ra việc chính mình là người ra lệnh.
“Nhát quất bằng đạn chùm” đã giúp nhà Bonaparte thăng tiến rất nhiều và nhanh chóng. Napoleon giờ đây được trả 48.000 franc mỗi năm, Joseph được giao cho một công việc trong ngành ngoại giao, Louis trải qua trường pháo binh Châlons và sau này trở thành một thành viên trong đội sĩ quan phụ tá đang hình thành của Napoleon, còn cậu út nhà Bonaparte, Jérôme 11 tuổi, được gửi tới một trường tốt hơn. “Gia đình sẽ không thiếu thốn gì”, Napoleon nói với Joseph, và điều này đã đúng trong 20 năm tiếp theo. Laure d’Abrantès khẳng định bà ta nhận thấy một thay đổi sau biến cố Tháng Hái nho:
⚝ ✽ ⚝
Không còn ai gọi ông là “Con mèo đi hia” nữa.
•••
Ngay sau biến cố Tháng Hái nho, Napoleon giám sát việc đóng cửa Câu lạc bộ Panthéon đối lập và việc loại bỏ các phần tử bảo hoàng bí mật khỏi Bộ Chiến tranh, cũng như việc kiểm duyệt các tác phẩm sân khấu. Trong việc cuối này, ông viết báo cáo gần như hằng ngày gửi tới Chính phủ về thái độ của khán giả tại bốn nhà hát ở Paris: Opéra, Opéra Comique, Feydeau, và La République. Một báo cáo điển hình viết: “Trong khi không khí ái quốc được đón nhận tích cực tại hai [trong số các nhà hát], còn nhà hát thứ ba yên tĩnh, cảnh sát đã phải bắt giữ một người đàn ông (bị cho là một phần tử Vendée) đã huýt sáo trong đoạn điệp khúc cuối bài Marseillaise tại Feydeau”.(*) Một nhiệm vụ khác là theo dõi việc tịch thu tất cả vũ khí của dân thường, mà theo giai thoại trong gia đình, chính việc này đã khiến ông gặp người phụ nữ mà có thể ông đã nghe nói tới qua các cuộc xã giao song trước đó chưa từng gặp: nữ Tử tước Marie-Josèphe-Rose Tascher de la Pagerie, vợ góa của de Beauharnais, người Napoleon sẽ gọi là “Josephine.”
Ông của Josephine, một quý tộc có tên Gaspard Tascher, đã rời Pháp tới Martinique năm 1726, hy vọng gây dựng gia tài nhờ vào một đồn điền trồng mía đường, cho dù những cơn bão lốc, vận đen và sự biếng nhác của chính Gaspard Tascher đã ngăn cản ông ta; La Pagerie là tên một điền sản gia đình sở hữu tại Saint-Dominique (Haiti ngày nay). Bố của Josephine, Joseph, từng là người hầu tại triều đình của Louis XVI nhưng sau đó đã quay về lãnh địa của bố mình. Josephine được sinh ra tại Martinique ngày 23 tháng Sáu năm 1763, dù sau này bà khẳng định mình sinh năm 1767. Bà tới Paris năm 1780, lúc đó 17 tuổi, được giáo dục sơ sài tới mức người chồng đầu tiên của bà – một người anh họ mà bà đã đính hôn năm 13 tuổi, viên tướng Nam tước Alexandre de Beauharnais – không giấu nổi thái độ coi thường trước sự ít giáo dục của bà. Josephine có hai hàm răng chỉ còn là những chân răng đen xỉn, được cho là kết quả của việc thường xuyên nhai mía Martinique khi còn nhỏ, song bà đã học được cách mỉm cười mà không để lộ chúng ra. “Bà ấy chỉ cần có răng thôi”, Laure d’Abrantès, người đã trở thành hầu gái của Mẫu phu nhân, viết “có lẽ bà ấy đã hơn hẳn gần như tất cả các mệnh phụ trong Triều đình ủy viên Đốc chính.”
Cho dù Beauharnais là một người chồng bạo ngược – từng có lần bắt cóc đứa con trai 3 tuổi Eugène của họ từ tu viện nơi Josephine ẩn náu để tránh khỏi những trận đòn của chồng – bà vẫn can đảm tìm cách cứu chồng khỏi máy chém sau khi ông ta bị bắt năm 1794. Từ ngày 22 tháng Tư năm 1794 cho tới ít lâu sau khi chồng bà bị hành quyết vào ngày 22 tháng Bảy cùng năm, bản thân Josephine cũng đã bị xem là đối tượng bị tình nghi là phần tử bảo hoàng và bị giam tại khu hầm bên dưới nhà thờ Saint-Joseph-des-Carmes trên phố Vaugirard.(*) Một trong những người bị giam cùng buồng với bà, một phụ nữ Anh có tên Grace Elliott, nhớ lại “các bức tường và thậm chí cả những chiếc ghế gỗ vẫn còn dính máu và óc của các tu sĩ” như thế nào. Josephine đã phải chịu đựng những điều kiện giam cầm thực sự vô nhân đạo: không khí chỉ lọt vào từ ba cái lỗ sâu xuống những hầm giam ngầm dưới đất, và không hề có nhà vệ sinh; bà và các tù nhân sống trong nỗi sợ hãi ám ảnh hằng ngày về máy chém; họ có một chai nước mỗi ngày cho mỗi người để dùng vào mọi việc; và vì các phụ nữ có thai chỉ bị lên máy chém sau khi đã sinh con, nên ban đêm có thể nghe thấy âm thanh của những cuộc làm tình với các cai ngục ngoài hành lang. Thậm chí giữa mùa hè nhưng các hầm giam dưới nhà thờ Saint-Joseph vẫn lạnh, và sức khỏe các tù nhân suy sụp nhanh chóng, quả thực có thể Josephine sống sót chỉ vì bà quá ốm yếu để có thể lôi ra máy chém. Chồng bà bị hành quyết chỉ bốn ngày trước khi Robespierre bị lật đổ, và nếu Robespierre tồn tại lâu hơn chút nữa, rất có khả năng Josephine đã đi theo chồng mình. Có một nghịch lý đối xứng ở đây, khi Chính biến Thermidor đã giải thoát Josephine ra khỏi nhà tù này và cùng lúc đẩy Napoleon vào nhà tù khác.
Mùi xú uế, bóng tối, sức khỏe suy nhược cùng nỗi sợ hằng ngày về một cái chết thảm khốc trong nhiều tuần liên tục khiến cho Thời kỳ Kinh hoàng trở thành một giai đoạn xứng đáng với tên gọi của nó, và rất có thể trong nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm, sau khi Josephine bị hành hạ bởi một tình trạng mà ngày nay hẳn sẽ được gọi là rối loạn căng thẳng hậu sang chấn. Nếu sau này bà có vẻ buông thả về tình dục, can dự vào những vụ làm ăn bẩn thỉu và ưa thích sự xa hoa – các hóa đơn váy áo của bà còn cao hơn cả Marie Antoinette – và kết hôn vì sự ổn định và đảm bảo tài chính hơn là vì tình yêu, thì cũng thật khó mang những điều đó ra trách cứ bà sau những gì bà đã phải trải qua. Josephine vẫn thường bị nhìn nhận như một người đàn bà hư hỏng đầy cám dỗ, nông cạn và hoang phí, nhưng chắc chắn bà không hề nông cạn về văn hóa, vì có sở thích rất tinh tế về âm nhạc và mỹ thuật trang trí. Bà cũng hào phóng – cho dù thường là với tiền công quỹ – và một trong những nhà ngoại giao xuất chúng nhất thời đó, Clement von Metternich, từng nhắc tới “tài xã giao độc nhất vô nhị” của bà. Bà là một người chơi đàn hạc giỏi – cho dù một số người nói bà chỉ luôn chơi một bản nhạc – và biết làm một thứ được biết đến như “những đường chữ chi” ở trên giường. Bà không biết vẽ, biết chút ít về thêu thùa, thỉnh thoảng chơi cờ thỏ cáo, ngoài việc đón tiếp những người tới thăm hằng ngày và ưa thích những bữa trưa tán chuyện với nhiều người bạn nữ giới của mình.
Đến cuối năm 1795, người đàn bà quyến rũ đến mức không thể phủ nhận đang ở giữa tuổi tam tuần này (với một nụ cười mím miệng không thể bắt chước) cần một người che chở và chu cấp tài chính. Khi ra khỏi tù, bà có mối quan hệ với Tướng Lazare Hoche, người từ chối bỏ vợ để đến với bà nhưng lại là người bà thích kết hôn cùng, thậm chí cho tới tận ngày bà miễn cưỡng kết hôn với Napoleon. Một người tình khác là Paul Barras, nhưng mối quan hệ không kéo dài quá mùa hè năm 1795. “Từ lâu tôi đã trở nên mệt mỏi và phát chán với bà ta”, Barras nhớ lại trong hồi ký của mình, trong đó ông ta với sự hẹp hòi đã mô tả bà là một “gái điếm hạng sang”. Việc một thời kỳ phóng đãng về tình dục theo sau một thời kỳ đổ máu kéo dài là một hiện tượng lịch sử đã được biết rõ: “Những năm 20 náo nhiệt” sau Thế chiến Thứ nhất và sự phóng túng của xã hội La Mã cổ đại sau các cuộc Nội chiến chỉ là hai ví dụ. Quyết định tìm cho mình những người tình có thế lực sau thời kỳ Kinh hoàng của Josephine, cũng giống như nhiều điều khác trong cuộc đời bà, đều là việc thường tình thời đó (dù bà không đến nỗi bừa bãi như người bạn Thérésa Tallien của mình, người mang biệt danh “Tài sản của Chính phủ” vì có quá nhiều vị bộ trưởng đã ngủ với bà ta). Cho dù “những đường chữ chi” có là gì đi nữa, Jose