← Quay lại trang sách

Chương 9 CHÍNH BIẾN THÁNG SƯƠNG MÙ

Tôi trở về Pháp vào một khoảnh khắc thuận lợi, khi Chính phủ hiện thời tồi tệ tới mức nó không thể tiếp tục. Tôi trở thành người đứng đầu nó; mọi thứ khác cứ thế nối theo – đó là câu chuyện của tôi tóm tắt trong vài từ.

• Napoleon nói trên đảo St Helena

Những người đã làm thay đổi thế giới không bao giờ thành công bằng cách chiếm đoạt quyền lực, mà luôn bằng cách khuấy động đám đông. Phương pháp thứ nhất viện đến mưu đồ ngấm ngầm và chỉ đem lại những kết quả hạn chế. Phương pháp thứ hai là con đường của thiên tài và làm thay đổi bộ mặt thế giới.

• Napoleon nói trên đảo St Helena

⚝ ✽ ⚝

Napoleon lên đường tới Paris từ Saint-Raphaël qua Aix (ở đây hành lý của ông đã bị lấy trộm), Avignon, Valence, Lyon và Nevers, tới thủ đô vào sáng Thứ tư, 16 tháng Mười năm 1799. Ông tận hưởng “một cuộc diễu hành khải hoàn” suốt dọc đường đi, được chào đón như một người anh hùng ở khắp nơi với tư cách vị cứu tinh của Pháp. Khi ông tới Lyon, một vở kịch mang tên Người anh hùng trở về được biểu diễn để chào mừng ông, trước đám đông quần chúng đứng chật các đường phố. Họ reo hò vang dội tới mức các câu thoại của vở kịch bị chìm nghỉm, và có lẻ cũng tốt vì chúng chỉ vừa được viết ra trong đêm và chưa được tập dượt. Cậu thanh niên 17 tuổi, sĩ quan kỵ binh tương lai Jean-Baptiste de Marbot nhớ lại: “Người ta nhảy múa ở những nơi công cộng và trong không trung âm vang tiếng hô “Hoan hô Bonaparte! Ông ấy sẽ cứu đất nước!” Cậu ngây ngất trước Napoleon và các đồng nghiệp cao cấp của ông, nhất là “phong thái thượng võ, khuôn mặt màu đồng hun vì ánh Mặt trời phương Đông, những bộ trang phục lạ mắt, cùng những thanh kiếm Thổ của họ được đeo bằng những sợi dây thao.”

Trước khi có thể quyết định xem sẽ làm gì về chính trị, Napoleon cần quyết định xem ông muốn gì về gia thất. Cho dù ông không biết điều đó, nhưng Josephine đã cố gắng chấm dứt mối quan hệ của bà với Hippolyte Charles vào tháng Hai năm 1799. “Anh có thể tin chắc, sau cuộc gặp gỡ này, cũng là cuộc gặp cuối cùng, là anh sẽ không còn bị giày vò bởi những lá thư hay sự hiện diện của em nữa”, bà viết cho tình nhân. “Người phụ nữ trung thực, người đã bị lừa dối, rút lui và im lặng”. Trên thực tế, bà tiếp tục viết thư cho anh ta về những vụ làm ăn ám muội mà họ cùng thực hiện trong các hợp đồng liên quan tới Đạo quân Italy cho tới tận tháng Mười, và thậm chí sau đó bà còn cố gắng (không thành công) tìm việc cho một người bạn của anh ta. Chính Charles là người rốt cuộc, giống như tiểu thuyết, đã chối bỏ Josephine đơn côi, và cùng với việc này, chàng sĩ quan khinh kỵ bảnh bao chuyên lượn lờ trên những đại lộ bước ra khỏi các trang lịch sử. Khi Napoleon lên nắm quyền lực tuyệt đối không lâu sau đó, ông không tìm cách truy cứu hay trừng phạt anh ta.

Đã 16 tháng trôi qua kể từ khi ông biết được chuyện ngoại tình của Josephine, phần lớn cơn giận dữ của ông đã trôi qua, và ông đã trả miếng không chịu kém cạnh với Pauline Fourès. Một vụ ly dị có thể gây tổn hại cho ông về chính trị, nhất là với những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, trong khi Josephine lại hữu dụng cho ông về mặt chính trị với những mối quan hệ xã hội và với phe bảo hoàng của bà, cũng như trong việc làm dịu đi sự nhạy cảm của những người bị xúc phạm bởi sự cục cằn của ông. Cho dù việc tiêu pha hoang phí của bà đã trở thành căn bệnh, nhưng các hóa đơn mà những người bán hàng cho bà gửi tới đều có thể thương lượng được, và thường họ vui vẻ chấp nhận mức thanh toán 50 centime cho 1 franc và vẫn đem về cho họ món lợi đáng kể.

Napoleon tới phố Victoire trước tiên, có lẽ bản thân hành động này cũng là một dấu hiệu cho thấy ông sẽ tha thứ cho bà, và khi Josephine từ Malmaison – một lâu đài đẹp đẽ nằm cách Paris hơn 11 km về phía tây được mua với giá 325.000 franc (bằng tiền đi vay) khi Napoleon đang ở Ai Cập – trở về đó ngày 18 tháng Mười sau khi đi đón ông nhưng sai đường, họ đã có một cảnh sóng gió gia đình. Đã có những tiếng la hét, tiếng khóc và màn quỳ gối cầu xin bên ngoài cánh cửa khóa trái. Đồ đạc được đóng gói, Hortense và Eugène đang bị thương đều được mẹ họ huy động để chạm đến tình cảm cha dượng của Napoleon (vốn sâu sắc và chân thành), và cuối cùng đã có một màn làm lành đầy kịch tính. Khi Lucien tới gặp anh trai sáng hôm sau, liền được dẫn vào phòng ngủ nơi cặp đôi đang ngồi trên giường. Thật khó mà không nghi ngờ rằng Napoleon đã diễn kịch ở một mức độ nào đó trong nỗ lực quan trọng để đảm bảo sự kiểm soát hoàn toàn với bà trong thời gian còn lại của cuộc hôn nhân giữa hai người: từ đó về sau bà chung thủy với ông, dù chắc chắn ông không như vậy với bà.

Những giả thiết khác về lý do ông ở lại với bà gồm có ông đã “mềm lòng trước những giọt nước mắt của bà”, đã bùng lên ham muốn xác thịt và bất cẩn, đã tin vào những lời phủ nhận của bà (ít có khả năng nhất), quá bận tâm tới chính trị nên không có thời gian cho xung đột gia đình, muốn có một đứa con, và ông thực sự yêu bà bất chấp tất cả. Cho dù lý do nào kể trên có là lời giải thích đúng đi nữa, hay là tổng hợp các lý do này, thì ông cũng đã tha thứ hoàn toàn cho Josephine, và chẳng bao giờ ám chỉ đến sự không chung thủy của bà nữa, dù với bà hay với bất cứ ai khác. Từ đó về sau, họ chuyển sang một giai đoạn hạnh phúc gia đình êm ấm, cho tới khi những mối quan tâm về triều đại xuất hiện tròn một thập kỷ sau đó. Giờ đây bà có vẻ đã thực sự yêu ông, dù bà luôn gọi ông là “Bonaparte”. Câu chuyện về Napoleon và Josephine do vậy chắc chắn không phải là chuyện tình lãng mạn kiểu Romeo và Juliet huyền thoại mà là một thứ gì đó tế nhị hơn, đáng quan tâm hơn, và cũng không ít đáng ngưỡng mộ hơn theo một cách nào đó.

•••

Từ khi trở về Paris cho tới lúc làm lành với Josephine, Napoleon đã gặp Louis Gohier, một luật sư – chính khách đã gia nhập Đốc chính vào tháng Sáu và đang đứng đầu thể chế này theo cơ chế xoay vòng chức Chủ tịch ba tháng một lần. Vào ngày 17 tháng Mười, ông được tôn vinh trong một buổi mít-tinh rộng rãi, tại đó ông đội một chiếc mũ tròn kiểu Ai Cập, mặc một chiếc áo khoác màu xanh ô liu và đeo một cây kiếm Thổ được buộc bằng dây lụa. Để đáp lại lời ca tụng của Gohier, Napoleon nói ông sẽ chỉ rút kiếm của mình ra để bảo vệ nền Cộng hòa và chính quyền của nó. Nội bộ Đốc chính đã phải quyết định xem nên bắt Napoleon vì tội đào ngũ (ông đã rời khỏi đạo quân của mình ở Ai Cập mà không có lệnh) và phá vỡ quy định cách ly, hay chúc mừng ông vì đã chiến thắng trong các trận Kim tự tháp, núi Tabor và Aboukir, đã chinh phục Ai Cập, mở ra con đường tới phương Đông, thiết lập một thuộc địa mới rộng lớn cho Pháp, như những người tuyên truyền cho ông đã loan tin rộng rãi. Nếu các Ủy viên Đốc chính từng có lúc nào đó cân nhắc nghiêm túc một đề xuất từ Bernadotte rằng phải đưa ông ra tòa án binh, thì họ cũng nhanh chóng phải dẹp bỏ nó sau khi nghe thấy đội cận vệ của chính họ đồng loạt hô vang “Bonaparte muôn năm!” ngay khi nhận ra ông bên ngoài phòng họp của họ.

Trong những ngày kế tiếp, phố Victoire bị vây quanh bởi đám đông những kẻ tò mò và những người ủng hộ. Tướng Paul Thiébault, người đã chiến đấu tại Rivoli, đang có mặt tại Palais – Royal khi nghe tin Napoleon đã trở về, cho biết:

⚝ ✽ ⚝

Dẫu vậy, vẫn cần phải lên kế hoạch cho cuộc tấn công đó. Mưu đồ lật đổ Hiến pháp Năm III – mà Napoleon đã trịnh trọng tuyên thệ trung thành – là tội phản quốc, có thể bị trừng phạt bằng máy chém. Hơn nữa, có quá nhiều âm mưu lật đổ Đốc chính đang manh nha ở Paris nên rất có thể Napoleon sẽ không phải là người đầu tiên thực hiện điều đó. Vào tháng Sáu đó, chỉ một ngày sau khi các viện lập pháp thay thế Jean-Baptiste Treilhard bằng Gohier một cựu thành viên phái Jacobin, đã xảy ra một cuộc đảo chính nhỏ, biến cố được gọi là ngày nghị viện , khi Tướng Joubert, với sự ủng hộ của Barras và Sieyès, đã dùng vũ lực thay thế La Révellière và Douai ở vị trí Ủy viên Đốc chính bằng Pierre-Roger Ducos và nhân vật cựu Jacobin, Tướng Jean-François Moulin. Trừ Barras, Carnot và Sieyès, không ai trong số 13 người từng giữ chức Ủy viên Đốc chính từ năm 1795 đến 1799 là những chính khách thực sự ấn tượng.

Trong số những người tới thăm Napoleon ở những ngày tiếp theo có hầu hết các nhân vật chủ chốt của cuộc đảo chính sắp diễn ra. Người đầu tiên bước vào cửa là Talleyrand, đã phải từ chức Bộ trưởng Ngoại giao vào tháng Bảy khi ông ta bị bắt quả tang đòi hỏi nhiều lần và ráo riết 250.000 đô-la “thù lao” từ ba phái viên Mỹ có tiếng nghiêm túc (một trong số này sau đó là Thẩm phán Tòa án Tối cao John Marshall), trước khi ông ta hạ cố đàm phán với họ về việc trả các khoản vay. Talleyrand lo rằng Napoleon sẽ để bụng vì chuyện mình đã không có mặt ở Constantinople, song ông ta đã lập tức được tha thứ. Một vị khách đến sớm nữa là Pierre-Louis Roederer một chính khách dễ bảo song rất thông minh đã được bầu vào Hội nghị các Đẳng cấp năm 1789 và đã sống sót qua mọi chế độ kế tiếp nhau; ông ta sẽ trở thành một trong những cố vấn gần gũi nhất của Napoleon. Michel Regnaud de Saint-Jean d’Angély, cựu chủ bút mà Napoleon đã để lại để quản lý Malta, cũng xuất hiện; tương tự là Antoine Boulay de la Meurthe, một người ủng hộ chủ chốt từ Hội đồng Năm trăm, hạ viện của cơ quan lập pháp. Những người đồng mưu khác trong những ngày tháng Mười đó còn có Phó Đô đốc Eustache Bruix của hải đội Brest, một viên chức “có giáo dục và lịch lãm” Hugues-Bernard Maret, và một quan chức cảnh sát cao cấp, Pierre-François Réal, một cựu thành viên phái Jacobin.

Tất cả những người này đều giữ các vị trí chủ chốt trong chính quyền của Napoleon sau đảo chính; một số trở thành thành viên của Hội đồng Nhà nước, và gần như tất cả đều trở thành nghị sĩ Pháp. Một nhân vật then chốt nữa trong cuộc đảo chính là Lucien Bonaparte, người đã được bầu vào Hội đồng Năm trăm vào tháng Sáu năm 1798 ở tuổi 23, và không lâu sau đó trở thành Chủ tịch Hội đồng, cho phép những người âm mưu có cơ hội khoác lên cuộc đảo chính của họ một tinh thần hiến pháp giả tạo. “Cao lớn, thiếu cân đối, với tứ chi như của một con nhện đồng, và một cái đầu nhỏ thó”, Laure d’Abrantès mô tả Lucien, “cận thị nặng, điều khiến anh ta luôn phải nheo mắt và cúi gằm mặt xuống”. Vì chỉ người 30 tuổi mới đủ tiêu chuẩn để là ứng viên trong bầu cử, nên giấy khai sinh của Lucien đã được chỉnh sửa để đáp ứng yêu cầu.

“Brumaire” có nghĩa là “mùa của sương muối và sương mù”, và thực sự khó ghép các mảnh thuộc cơ chế của những gì xảy ra sau đó với nhau, vì Napoleon đã không để lại gì trên giấy tờ một cách có chủ ý; chỉ còn hai lá thư của ông lưu lại trong 23 ngày kể từ lúc ông về đến Paris trong khoảng 16 tháng Mười và ngày 18 tháng Sương mù khi cuộc đảo chính xảy ra, cả hai đều không chứa đựng điều gì nguy hiểm. Với một người viết trung bình 15 lá thư mỗi ngày, thế mà lần này mọi thứ cần được thực hiện qua nói miệng. Trong đời mình, đã một lần ông từng bị lục soát thư từ để tìm bằng chứng đưa ông lên máy chém, nên ông sẽ không cho phép việc này xảy ra lần nữa. Khi xuất hiện trước công chúng, ông trở lại khoác bộ đồng phục của Tổng Hàn lâm viện Pháp quốc thay vì quân phục của một vị tướng.

Cuộc đảo chính không phải là ý tưởng của Napoleon, mà là của Tu viện trưởng Sieyès, người đã thay Reubell trở thành Ủy viên Đốc chính vào tháng Năm năm 1799, nhưng nhanh chóng đi đến kết luận rằng chính quyền mà ông ta là một thành viên lãnh đạo đơn giản là quá thiếu năng lực và tham nhũng trong việc giải quyết những vấn đề mà Pháp phải đối mặt. Những đồng mưu với ông ta, trong đó có vị đồng chức Ủy viên Đốc chính và người bạn thân Ducos, chỉ huy cảnh sát Joseph Fouché và Bộ trưởng Tư pháp Jean-Jacques-Régis de Cambacérès, có ảnh hưởng chính trị lớn hơn nhiều so với bạn bè của Napoleon (ngoại trừ Talleyrand), và Sieyès nhìn nhận Napoleon đơn thuần chỉ là “thanh kiếm”, hay cơ bắp, cần thiết để thực hiện sự nghiệp. Sieyès là một trong những người căm ghét Napoleon từ góc độ cá nhân, một cảm xúc hoàn toàn tương đồng từ cả hai phía. Cá nhân Sieyès đã đề xuất rằng Napoleon phải bị bắn vì đào ngũ khỏi vị trí của mình ở Ai Cập, còn Napoleon từng nói là Sieyès nên bị mất chức Ủy viên Đốc chính vì đã bán mình cho Phổ (không có bằng chứng nào về việc này). Tướng Joubert từng là lựa chọn số một để làm “thanh kiếm” của Sieyès, nhưng lại bị bắn xuyên tim trong trận Novi ở phía bắc Genoa (trùng với sinh nhật của Napoleon), nên ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc quay sang Napoleon: trong số các tướng lĩnh hàng đầu khác, Jourdan thì ủng hộ Hiến pháp, Schérer đã bị mất lòng tin do thất bại, Jacques Macdonald (con trai của một người Jacobin vùng Highlander) và Moreau có vẻ đã từ chối lời đề nghị, còn Pichegru vào thời điểm đó đang chiến đấu cho kẻ thù. Giống như sự kiện Vendémiaire, vai trò chủ chốt rơi vào tay Napoleon hầu như là do quá trình loại trừ.

Chính Talleyrand là người cuối cùng đã thuyết phục được một Sieyès đầy miễn cưỡng lựa chọn Napoleon trên cơ sở lý lịch cộng hòa không thể chê vào đâu được của ông, trong khi đang thiếu người thay thế. Ông ta được cho là đã nói với Napoleon, “Ông muốn quyền lực và Sieyès muốn hiến pháp, vì thế hãy hợp sức”. Thiện cảm của công chúng Paris dành cho Napoleon hiển nhiên là một yếu tố trong quyết định của Sieyès; trong một lần tới nhà hát Celestins vào thời gian này, Napoleon ngồi phía sau lô ghế và để Duroc ngồi phía trước, song những lời kêu gọi Bonaparte trở nên thật mạnh mẽ và đồng lòng” tới mức họ phải đổi chỗ, như Napoleon có lẽ đã trông đợi điều đó sẽ diễn ra.

Napoleon và Sieyès chỉ gặp nhau lần đầu tiên vào chiều 23 tháng Mười. “Tôi đang đảm nhiệm việc thương thảo các điều kiện chính trị cho một thỏa thuận”, Roederer nhớ lại. “Tôi chuyển tiếp cho người này và người kia quan điểm của mỗi người về hiến pháp sẽ được thiết lập, và vị trí mà mỗi người sẽ nắm giữ”. Napoleon muốn để ngỏ các lựa chọn của mình và đang cân nhắc những lời đề nghị khác, dù không có đề nghị nào tới từ một nhóm có mối quan hệ chính trị tốt như vậy. Có lẽ đã có tới 10 âm mưu nhằm lật đổ Đốc chính được bí mật thương thảo trong những tháng đó.

•••

Không thất bại nào trong vô vàn những thất bại của Đốc chính ở bốn năm trước đó có thể quy trách nhiệm đích danh cho Napoleon khi ấy không có mặt. Các thất bại ở nước ngoài đã tước mất của Pháp những lãnh thổ mà ông giành được trong giai đoạn 1796-1797 và đã khiến quốc gia này bị cắt đứt khỏi thị trường Đức và Italy. Trong khi Nga, Anh, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Áo đã gia nhập Chiến tranh của Liên minh Thứ hai chống lại Pháp, còn có cả cái gọi là “Gần như chiến tranh” với Mỹ về việc trả những khoản nợ mà họ lập luận rằng mình nợ Hoàng gia Pháp chứ không phải quốc gia Pháp. Trong tám tháng của năm đó tại Pháp đã có không dưới bốn Bộ trưởng Chiến tranh thay thế nhau, với quân đội bị nợ lương dài hạn và đào ngũ, trộm cắp và cướp đường hoành hành dữ dội ở vùng nông thôn. Cuộc nổi dậy của các phần tử bảo hoàng ở Provence và Vendée lại bùng lên. Một cuộc phong tỏa của Hải quân Hoàng gia Anh đã làm sụp đổ thương mại viễn dương, và tiền giấy gần như vô giá trị. Việc đánh thuế đất cũng như cửa ra vào và cửa sổ, bắt những người bị tình nghi ủng hộ nhà Bourbon làm con tin, và Luật Jourdan năm 1798 biến việc gọi quân dịch khẩn cấp hàng loạt trước đó trở thành một thứ gần như là chế độ quân dịch toàn dân, tất cả đều rất không được ủng hộ. Tham nhũng trong các hợp đồng chính phủ thậm chí còn lan tràn hơn bình thường, và được phỏng đoán một cách chính xác là có dính dáng tới các Ủy viên Đốc chính như Barras. Tự do báo chí và hội họp bị hạn chế gắt gao. Các cuộc bầu cử một phần ba đại biểu lập pháp vào các năm 1798 và 1799 đã bị gian lận tràn lan, và quan trọng nhất là những người trung lưu mua các tài sản quốc hữu hóa đang lo sợ cho sự an toàn của những gì họ mua được.

Ít có điều gì làm một xã hội bị hủy hoại toàn diện hơn là siêu lạm phát, và những phần thưởng chính trị lớn lao sẽ thuộc về bất cứ ai có thể dẹp bỏ nó. (Các đại biểu của bộ máy lập pháp trả lương cho chính mình theo cách chống lại ảnh hưởng của lạm phát, bằng việc gắn liền mức lương của họ với giá trị của 30.000 kg lúa mì). Đốc chính đã xóa bỏ Luật Tối đa, có vai trò duy trì mức giá thấp với các mặt hàng như bánh mì, bột mì, sữa và thịt, vì vậy vụ mùa thất bát năm 1798 đã khiến giá 1 livre bánh mì lên cao hơn 3 sol (*) lần đầu tiên trong hai năm, dẫn tới nạn đầu cơ, bạo động và cảnh túng quẫn thực sự. Có lẽ điều tồi tệ hơn cả là dân chúng không thể nhìn thấy có cách nào để có thể cải thiện bất cứ điều gì, vì việc xem xét lại hiến pháp phải được phê chuẩn ba lần bởi cả hai viện theo các chu kỳ ba năm, và sau đó bởi một hội nghị đặc biệt ở cuối quá trình kéo dài chín năm. Đây là chuyện khó lòng xảy ra ở một chế độ lập pháp lỏng lẻo và bất ổn như vào cuối năm 1799, trong đó bao gồm các phần tử bảo hoàng ngấm ngầm, những người theo chủ nghĩa hợp hiến Feuillant (trung dung), các cựu thành viên Girondin, những “người ái quốc” tân-Jacobin, song chỉ có rất ít ỏi những người quý giá ủng hộ Đốc chính. Ngược lại, các bản hiến pháp mà trước đó không lâu Napoleon đã áp đặt lên các nền Cộng hòa Cisalpine, Venice Ligurian, Lemanic, Helvetian, và Rome, cùng với các cải cách hành chính của ông ở Malta và Ai Cập, làm ông trông có vẻ giống một nhà cộng hòa nhiệt thành, hiệu quả, người tin vào bộ máy hành pháp mạnh và tập quyền trung ương, những giải pháp rất có thể cũng sẽ vận hành tốt cho chính quốc Pháp.

Pháp không hoàn toàn là một nhà nước thất bại vào mùa thu năm 1799, quả thực ở một số lĩnh vực Đốc chính có lý do để lạc quan. Một số cải cách kinh tế đã được thực thi, Nga đã rời khỏi Liên minh Thứ hai, tình hình ở Vendée đang cải thiện, lực lượng Anh đã bị đẩy bật khỏi Hà Lan, và Masséna đã giành được một số chiến thắng tại Thụy Sĩ đồng nghĩa với việc Pháp không còn ở trong mối nguy hiểm cận kề của việc bị xâm lược nữa. Dẫu vậy, những điều này không đủ để dẹp bỏ ấn tượng phổ biến trong người Pháp rằng Đốc chính đã thất bại, như Napoleon nói vào thời điểm đó, “quả lê đã chín”. Cũng không có chỗ cho Napoleon trong hệ thống chính trị hiện thời, vì tuổi tối thiểu để trở thành Ủy viên Đốc chính vẫn là 40, trong khi Napoleon mới 30 tuổi, và Gohier không có vẻ gì là hăng hái thay đổi hiến pháp vì ông.

Napoleon bị buộc tội tiêu diệt nền dân chủ Pháp tại Brumaire, và ông đã làm thế thật, song ngay cả nghị viện ở Westminster cũng khó có thể coi là một mẫu mực cho các lý tưởng của Jefferson, với nhiều ghế chỉ có vài chục cử tri và nằm chắc trong tay một tập đoàn quý tộc chính trị chóp bu tới tận nửa sau thế kỷ 19. Cho dù cuộc đảo chính bị mô tả là đã thủ tiêu cả nền tự do Pháp, kể từ sau Chính biến Thermidor lật đổ Robespierre và hình thành nên chế độ Đốc chính vào tháng Bảy năm 1794 đã xảy ra cuộc đảo chính bất thành Vendémiaire năm 1795, cuộc thanh trừng tháng Quả năm 1797 và Ngày Nghị viện vào tháng Sáu năm 1799. Bất chấp tính vi hiến hiển nhiên của nó, đảo chính Brumaire khó có thể coi là một khởi đầu mới trong nền chính trị Pháp. Napoleon đã thề bảo vệ hiến pháp, và phần lớn uy tín của ông đã dựa trên niềm tin rằng ông là một nhà cộng hòa chân chính. Nhưng “Khi ngôi nhà đang sụp đổ, liệu có phải là thời điểm để bận tâm về khu vườn không?” Napoleon đã hỏi Marmont đầy ẩn dụ. “Ở đây, một sự thay đổi là rất cần thiết.”

•••

Trong bữa sáng tại phố Victoire ngày 26 tháng Mười, Napoleon công khai chỉ trích Đốc chính với Thiébault, đặt tinh thần người lính trong chiến dịch Italy đối lập với sự ngủ gật của chính quyền. “Một dân tộc luôn là thứ mà người có trí tuệ cần tạo dựng nên”, ông nói. Sự đắc thắng của phe phái, bè đảng, chia rẽ, là lỗi của chỉ những người cầm quyền… Không dân chúng nào xấu dưới một chính quyền tốt, cũng như không binh lính nào tồi dưới quyền các tướng lĩnh giỏi… Những người này đã lôi Pháp xuống ngang hàng với sự sai lầm của chính họ. Họ đã hủy hoại thanh danh đất nước này, và đất nước đang bắt đầu từ bỏ họ”. Những quan điểm thẳng thắn như thế từng khiến người ta mất mạng vào thời kỳ trước đó của Cách mạng, song Napoleon cảm thấy đủ an toàn để xúi giục nổi loạn với một người đồng đội mà ông đang hy vọng thuyết phục, và kết thúc bằng một trong những lời buộc tội quen thuộc nhất của ông: “Thế đấy, các tướng lĩnh còn có thể trông đợi gì từ chính quyền của các luật sư này?”

“Không có ai nhát gan như tôi khi tôi thiết lập một kế hoạch quân sự”, Napoleon nói với Roederer ngày 27. “Tôi phóng đại mọi mối nguy hiểm có thể và tất cả tác hại có thể trong các hoàn cảnh. Tôi lâm vào một tình trạng rất căng thẳng mệt mỏi. Điều này không ngăn cản tôi bình tĩnh nhìn thẳng vào những thứ xung quanh mình. Tôi giống như một phụ nữ chuẩn bị lâm bồn. Và khi tôi hành động, mọi thứ đều bị quên đi ngoại trừ những thứ có thể làm kế hoạch thành công”. Tương tự, Napoleon áp dụng sự chú tâm đến ám ảnh này vào việc lên kế hoạch cho đảo chính Brumaire. Không thể nào biết được chính xác những hành động của ông do thiếu vắng hoàn toàn các bằng chứng văn bản đương thời, nhưng một khi kế hoạch được thực hiện, dường như mọi người đều đã biết cần phải ở đâu và làm gì.

Vài ngày trước cuộc đảo chính, Đốc chính, nhiều khả năng đang nghi ngờ những gì được tiến hành, đề nghị Napoleon lựa chọn một chức chỉ huy ở ngoại quốc, nhưng ông đã từ chối viện cớ sức khỏe. Họ cũng bí mật buộc tội ông thông qua báo chí về việc tham ô ở Italy, điều mà ông cực lực phản bác. Về giai đoạn này, một câu chuyện được kể rằng Napoleon đang bàn kế hoạch ở nhà Talleyrand thì nghe thấy tiếng động vang lên từ con phố bên dưới. Sợ rằng họ sắp sửa bị bắt, những người âm mưu bèn thổi tắt nến, lao ra ban công và vô cùng nhẹ nhõm khi biết tiếng ồn ào là do một vụ tai nạn xe ngựa dính líu tới những con bạc đang từ Palais-Royal trở về.

Canh bạc họ dấn thân vào được trợ giúp rất nhiều vào ngày 29 tháng Mười bởi một đạo luật mới, đình chỉ việc trả tiền ứng trước cho các nhà thầu của chính quyền cho tới khi tài khoản của họ đã được kiểm toán. Nhà thầu Jean-Pierre Collot, một người được Cambacérès che chở, người sẽ cung cấp tiền cho âm mưu, giờ đây cảm thấy mình có ít thứ để mất hơn.

Khoảnh khắc quyết định để Napoleon vượt qua Giới hạn cuối cùng của mình đã tới vào hôm sau, khi ông ăn tối với Barras tại điện Luxembourg, nơi toàn bộ thành viên Đốc chính sống và làm việc. Sau bữa tối, Barras đề xuất rằng Tướng Gabriel d’Hédouville, người mà Napoleon cho là “cực kỳ kém cỏi”, nên trở thành Tổng thống Pháp để “cứu” nền Cộng hòa. Cho dù ông ta đã chiến đấu ở Valmy, nhưng d’Hédouville mới đây đã buộc phải tháo chạy khỏi Saint-Domingue (Haiti ngày nay) bởi cuộc khởi nghĩa của lãnh tụ dân tộc chủ nghĩa người da đen Toussaint L’Ouverture, và rõ ràng không thích hợp để trở thành tổng thống. “Về ông, Tướng quân”, Barras nói với Napoleon, “ý định của ông là trở lại quân đội; còn tôi, ốm yếu, bị căm ghét, kiệt quệ, tôi là kẻ vô tích sự ngoại trừ trở về cuộc sống riêng tư”. Trong một lần Napoleon hồi tưởng về dịp đó, ông kể mình chỉ nhìn chằm chằm vào Barras không trả lời, nhưng vào một lần khác, “tôi trả lời với một thái độ có cân nhắc để thuyết phục ông ta rằng tôi không phải là người để ông ta bịp. Ông ta nhìn xuống và lẩm bẩm vài nhận xét khiến tôi lập tức quyết định. Từ căn hộ của ông ta tại Luxembourg, tôi đi thẳng tới căn hộ của Sieyès… Tôi nói với ông ta là tôi đã quyết định hành động cùng ông ta.”

Nhận ra sai lầm khủng khiếp của mình, Barras tới thăm phố Victoire vào 8 giờ sáng hôm sau để cố sửa chữa, song Napoleon trả lời rằng ông “mệt mỏi, khó ở, rằng mình không thể quen được với khí hậu ẩm ướt ở thủ đô sau khi trở về từ khí hậu khô của các cồn cát Ả rập”, rồi kết thúc cuộc gặp “với những lời vô vị tương tự”. Napoleon bí mật gặp Sieyès tại nhà Lucien ngày 1 tháng Mười một để phối hợp các chi tiết của cuộc đảo chính mà lúc đó Talleyrand và Fouché cũng đã gia nhập.

Joseph Fouché không phải là một chỉ huy cảnh sát bình thường. Là một thành viên giáo đoàn Oratory dự định gia nhập Giáo hội khi 23 tuổi, ông ta trở thành một người theo phái Jacobin tán thành xử tử nhà vua năm 1793. Quan tâm đến quyền lực nhiều hơn ý thức hệ, ông ta duy trì nhiều mối quan hệ trong hàng ngũ bảo hoàng, và ông ta bảo vệ các tu sĩ, nhất là các thành viên Oratory, bất chấp việc là thủ lĩnh của một đảng phái chống tăng lữ. “Ai cũng biết nhân vật này”, sĩ quan phụ tá trong tương lai của Napoleon, Bá tước Philippe Ségur viết, “với tầm vóc trung bình, mái tóc màu sợi lanh thưa và xơ xác, dáng người gầy gò nhanh nhẹn, khuôn mặt dài và linh hoạt, ánh mắt sắc sảo song giảo hoạt làm người ta phải nhớ đến, đôi mắt nhỏ thó đỏ vằn máu, cách nói năng nhát gừng giật cục hòa nhịp với bộ dạng bứt rứt, bất an của ông ta.”

Fouché tuyển mộ gián điệp từ những người bán hàng rong, đồ tể, thợ làm đầu, thợ khóa, thợ làm tóc giả, người bán nước hoa, người phục vụ quầy bar, người hầu phòng cũ của Louis XVI, một cựu thành viên phái Jacobin có biệt danh “Collin Chân gỗ”, nữ Nam tước Lauterbourg, bà chủ nhà thổ tại số 133 Palais-Royal, bên cạnh nhiều loại người khác. “Một ngày nào đó ông ta sẽ ngó vào giường tôi”, Napoleon nói đùa về ông ta, “rồi hôm sau vào ví của tôi”. Việc Fouché ủng hộ cuộc đảo chính là tin mừng với Napoleon, vì ông ta không bao giờ có mặt ở bên thua cuộc (cho dù ông ta cũng có các kế hoạch phòng xa để bắt giữ “những kẻ nổi loạn” nếu đảo chính thất bại.) Thái độ của Napoleon với Fouché cả trong cuộc đảo chính lẫn sau đó là “Fouché và chỉ Fouché, mới có khả năng điều hành Bộ Cảnh sát. Chúng ta không thể tạo nên những người như thế, chúng ta buộc phải sử dụng người nào ta tìm được.”

•••

Ngày 6 tháng Mười một, cả hai viện lập pháp tổ chức một buổi dạ tiệc phải đóng phí tham dự có 700 người tham gia, nhằm tôn vinh Napoleon và Tướng Moreau tại nhà thờ St-Sulpice – được đổi tên thành đền Victory (Chiến thắng) trong Cách mạng – không gian mênh mông bên trong nơi này giống với một đại thánh đường, các ngọn tháp của nó cao tới mức được chính quyền sử dụng làm cột tín hiệu. Với những bức tường màu đen và khả năng truyền âm được thiết kế để biến những lời nói thành âm thanh ngân nga, đây có lẽ là nơi duy nhất để lựa chọn cho một dạ tiệc quy mô lớn như vậy vào một tối tháng Mười một lạnh lẽo, mang dáng vẻ uy nghi không thể chối cãi. Phần lớn chính giới Pháp đều có mặt ở đó, nhưng không có Bernadotte, người (theo lời Barras) từ chối ghi tên mình vào danh sách đóng phí “cho tới khi Bonaparte giải thích một cách thỏa đáng những lý do đã khiến ông bỏ mặc đạo quân của mình”, và thêm: “Tôi không định ăn tối cùng một kẻ mang dịch bệnh trong người”. Người ta kể rằng Napoleon “không ăn gì ngoài trứng” trong bữa tối, vì sợ bị Đốc chính đầu độc, và ra về sớm. Trong bài diễn văn của mình, ông tập trung vào tầm quan trọng của sự đoàn kết giữa người Pháp, một chủ đề an toàn đủ để ông còn tiếp tục trở lại với nó trong những tuần và tháng sắp tới.

Ngoài ra, trong tất cả những người đã đề nghị tổ chức dạ tiệc để vinh danh ông sau khi ông trở về từ Ai Cập, gần như lời mời duy nhất được Napoleon chấp nhận là từ Cambacérès, người mà ông nói mình “đánh giá rất cao”. Là một người đồng tính béo tốt, màu mè, sành ăn và ưa lạc thú, Cambacérès xuất thân từ một gia đình luật tiếng tăm ở Montpellier. Ông ta đã bỏ phiếu ủng hộ hành quyết Louis XVI, nhưng chỉ khi người Áo xâm lược. Ông ta là một trong số ít luật sư được Napoleon ưa thích, và sau này cùng Duroc trở thành cố vấn gần gũi và được tin cậy nhất của ông. “Ông ta có năng lực trò chuyện vĩ đại”, Laure d’Abrantès nhớ lại, “những câu chuyện của ông ta có sự mới lạ và duyên dáng qua thứ ngôn ngữ uyển chuyển… Ông ta mang… tính cách của nhân vật dân sự có năng lực nhất trong nước”. Bà ta cũng nói thêm rằng ông ta “cực kỳ xấu xí… mũi dài, cằm dài, và nước da vàng vọt”. Cambacérès tìm kiếm ảnh hưởng hơn là quyền lực và không bao giờ là sự nổi tiếng, và sau này ông ta được phép bày tỏ sự phản đối riêng tư với những gì Napoleon đã làm vì sự trung thành của ông ta là không thể nghi ngờ. (Napoleon không phải là người tin tưởng mù quáng; bên cạnh sự gần gũi của ông với Cambacérès, ông còn bổ nhiệm Joseph Fiévée, cũng là một người đồng tính công khai, làm Tỉnh trưởng tỉnh Nièvre, tại đây ông này và bạn tình suốt đời của mình đã khiến các cư dân bị sốc mạnh.)

Đánh giá của Cambacérès về cả con người lẫn các thước đo đều mẫu mực. “Chỉ có hai người có thể làm dịu những cơn thịnh nộ của Bonaparte là Cambacérès và Josephine”, một vị bộ trưởng nhớ lại. “Người thứ nhất luôn đảm bảo không bao giờ lao vào hay phản bác lại tính cách dữ dội này. Điều đó khiến ông ấy trở nên thịnh nộ hơn; nhưng Cambacérès để ông ấy tiếp tục với cơn thịnh nộ của mình, để ông ấy có thời gian đọc lại những sắc lệnh bất hợp lý nhất, và chờ đợi một cách khôn ngoan và kiên nhẫn tới khi cơn giận dữ cuối cùng đã nguôi ngoai đưa ra vài nhận xét với ông ấy”. Bên cạnh sự “duyên dáng” trong lời nói của mình, Cambacérès còn có một nét hài hước bao trùm rộng hơn. Sau khi tin tức về một chiến thắng của Napoleon tới trong một bữa tối, và Josephine tuyên bố tại bàn rằng họ đã “vaincu” (chiến thắng), Cambacérès vờ rằng ý bà muốn nói là “vingt culs” (20 cái mông) và châm biếm: “Giờ chúng ta phải chọn!” Về sau trong triều đại của mình Napoleon cố thuyết phục Cambacérès không dùng quá nhiều thuốc phiện nữa, nhưng rồi phải nhượng bộ vì “đây là thói quen của một anh chàng độc thân cả đời” và không cố thêm nữa. Sự tin tưởng Napoleon dành cho Cambacérès lớn tới mức ông cho phép Cambacérès điều hành Pháp trong những lúc ông vắng mặt đi chiến dịch, một sự tin tưởng được đáp lại bằng các báo cáo hằng ngày của Cambacérès gửi cho ông về mọi chủ đề có thể nghĩ đến.

•••

Cuộc đảo chính được lên kế hoạch gồm hai giai đoạn riêng rẽ. Vào Ngày Một, ban đầu dự định là Thứ năm, 7 tháng Mười một (16 tháng Sương mù) năm 1799, Napoleon sẽ tham dự một phiên đặc biệt của Thượng viện tại trụ sở của nó ở Tuileries, để thông báo với họ rằng vì những âm mưu do người Anh hậu thuẫn và mối đe dọa tân-Jacobin mà nền Cộng hòa đang lâm nguy, vì thế họ cần triệu tập cuộc họp ngày hôm sau của cả Thượng viện lẫn Hạ viện, tức Hội đồng Năm trăm, diễn ra cách Paris bảy dặm về phía tây, tại cung điện Saint-Cloud của nhà Bourbon trước đây. Theo đề xuất của Sieyès, Thượng viện sẽ chỉ định Napoleon làm tư lệnh tất cả lực lượng tại quân khu 17 (tức Paris). Cùng ngày, Sieyès và Ducos sẽ từ chức Đốc chính, và Barras, Gohier và Moulin sẽ bị buộc từ chức bằng một sự kết hợp hợp lý giữa đe dọa và mua chuộc, để lại một khoảng trống quyền lực. Sau đó, vào Ngày Hai, Napoleon sẽ tới Saint-Cloud và thuyết phục các nhà lập pháp rằng vì tình hình khẩn cấp của quốc gia, Hiến pháp Năm III cần được bãi bỏ và một hiến pháp mới cần được thiết lập để thay thế Đốc chính bằng một chính quyền hành pháp ba thành viên, được gọi – với âm hưởng La Mã rất phù hợp – là Tổng tài, gồm Sieyès, Ducos, và chính ông, cùng những cuộc bầu cử được tổ chức sau đó cho các tân nghị viện mà Sieyès đã cơ cấu. Sieyès tin rằng ông ta đã kiểm soát được Thượng viện. Nếu Hạ viện không chịu tự giải thể, vị chủ tịch mới được bầu của họ là Lucien sẽ giải thể cơ quan này.

Những khiếm khuyết trong kế hoạch là rất rõ. Một cuộc đảo chính kéo dài hai ngày có thể khiến những người âm mưu đánh mất thế chủ động tối quan trọng, nhưng nếu không di chuyển tới Saint-Cloud thì lại e rằng các đại biểu Cánh tả có thể hô hào người dân Paris tại các vùng ngoại ô và các Khu nổi dậy bảo vệ Hiến pháp Năm III, và giao chiến giữa trung tâm Paris có thể sẽ phá hỏng các cơ hội thành công. Vấn đề thứ hai là giữ bí mật cuộc đảo chính để ngăn Barras, Gohier, và Moulin thực hiện các biện pháp đáp trả, trong khi vẫn mua chuộc được đủ số thành viên Thượng viện để đảm bảo kết quả khả quan khi bỏ phiếu về việc chuyển phiên họp tới Saint-Cloud.

Điều đầu tiên diễn ra không như dự kiến là việc toàn bộ cuộc đảo chính buộc phải hoãn lại 48 tiếng, khi một số thành viên chủ chốt tại Thượng viện – “những gã đần độn này” như Napoleon gọi họ – bắt đầu do dự trước toàn bộ viễn cảnh vào phút chót và cần được trấn an trở lại. “Tôi cho họ một chút thời gian để thuyết phục họ rằng tôi có thể hành động mà không cần đến họ”, Napoleon nói đầy lạc quan, tận dụng hai ngày này một cách hữu ích để thuyết phục Jourdan không cản trở cuộc đảo chính dù ông ta không thể ủng hộ nó. Khi đội ngũ sĩ quan của doanh trại Paris được triệu tập tới trình diện Napoleon, ông bảo họ sẵn sàng đi theo mình lúc 6 giờ sáng 9 tháng Mười một, Ngày Một mới.

Vào tối ngày 7, ông ăn tối cùng Bernadotte và gia đình ông ta trên phố Cisalpine, cùng với Jourdan và Moreau, cố gắng trấn an ba vị tướng về những biến cố sắp diễn ra. Bernadotte, người đã kết hôn với vị hôn thê cũ của Napoleon (và cũng là em vợ Joseph) là Désirée Clary trong khi Napoleon đang ở Ai Cập, tỏ ra rất hoài nghi, và khi nhìn nhận cuộc đảo chính từ bên ngoài đã nói với Napoleon: “Ông sẽ bị lên máy chém”, và Napoleon “lạnh lùng” trả lời, “Chúng ta cứ để xem sao”. Moreau, trái lại, đồng ý trợ giúp bằng việc bắt giữ các Ủy viên Đốc chính tại điện Luxembourg vào Ngày Một, trong khi đó Jourdan trung thành với quan điểm của mình, chỉ đơn thuần không cản trở cuộc đảo chính. (Tinh thần cộng hòa của ông ta đồng nghĩa với việc ông ta sẽ không bao giờ thực sự hòa giải với Napoleon, và sau này là người duy nhất trong số 26 thống chế của Đế chế không được Napoleon phong tước quý tộc.)

Ngày 8 tháng Mười một, hôm trước đảo chính, Napoleon tiết lộ kế hoạch với Đại tá Horace Sébastiani, người đã bị thương tại Dego và từng chiến đấu tại Arcole; ông này hứa rằng Trung đoàn long kỵ 9 sẽ sẵn sàng tuân lệnh Napoleon vào sáng hôm sau. Hôm đó Napoleon ăn tối với Cambacérès tại Bộ Tư pháp và được kể lại là rất thoải mái, hát một bài hát cách mạng ưa thích, “Pont-Neuf”, bài hát mà những người thân cận nói là ông chỉ hát khi “tinh thần ông thanh thản và trái tim cảm thấy hài lòng”. Tất nhiên, rất có thể ông đã diễn một màn kịch cho những người đồng mưu với mình, còn trong thâm tâm lại đang ngấm ngầm căng thẳng tột độ, như ông đã ám chỉ trong lá thư gửi Roederer khi so sánh mình với “một phụ nữ đang lâm bồn.”

•••

Vào lúc 6 giờ của buổi sáng lạnh lẽo và xám xịt ngày 9 tháng Mười một (18 tháng Sương mù) năm 1799, 60 sĩ quan thuộc quân khu 17 và các chỉ huy Vệ binh Quốc gia tập hợp trong sân ngôi nhà trên phố Victoire. Mặc đồ dân sự, Napoleon “giải thích với họ một cách sinh động đầy thuyết phục về tình trạng nguy ngập của nền Cộng hòa, và yêu cầu họ một bằng chứng về sự tận tụy với ông qua lời tuyên thệ trung thành cùng hai viện”. Đây là một nước cờ khôn ngoan khi gợi ý rằng trên thực tế ông đang bảo vệ hai viện, ngay cả khi ông đang trong tiến trình rốt ráo xóa bỏ họ.

Cùng lúc đó, tại Tuileries, ảnh hưởng của Sieyès đảm bảo rằng tất cả các sắc lệnh cần thiết đều được Thượng viện thông qua lúc 8 giờ sáng, bao gồm cả sắc lệnh chỉ định Napoleon làm Tư lệnh quân khu 17 và Vệ binh Quốc gia, cho dù trên lý thuyết quyền chỉ định này nằm trong tay Bộ trưởng Chiến tranh, người chịu sự quản lý của Đốc chính, chứ không thuộc thẩm quyền Thượng viện. Một sắc lệnh thứ hai nêu rõ Thượng viện đã thay đổi địa điểm họp của mình từ Tuileries tới Saint-Cloud “để vãn hồi hòa bình trong nước”, và ra lệnh cho người dân Paris “bình tĩnh”, khẳng định rằng “sau một thời gian ngắn, sự hiện diện của Cơ quan Lập pháp sẽ được trả về với các bạn”. Những thành viên Thượng viện nhiều khả năng sẽ chống lại sắc lệnh, vì đơn giản là không được thông báo chính xác về phiên họp bất thường (và bắt đầu sớm một cách bất thường) này, một trong những mánh khóe cổ xưa nhất trong chính trị. Không phát hiện được những gì đang diễn ra, Gohier đã cả tin ký phê chuẩn sắc lệnh Saint-Cloud.

Khi nhận tin mình được Thượng viện bổ nhiệm, Napoleon liền thay sang quân phục cấp tướng của ông và cưỡi ngựa tới Tuileries, đến nơi lúc 10 giờ sáng, tại đây ông gặp Sébastiani và những người lính long kỵ của mình. Tân Bộ trưởng Chiến tranh, nhân vật tân-Jacobin Edmond Dubois de Crancé, đã đặc biệt cấm bất cứ hành vi chuyển quân nào tại thủ đô mà không có lệnh của chính mình “dưới hình phạt tử hình”, song điều này đơn giản đã bị lờ đi. Napoleon được đón chào một cách trang trọng tại phòng họp Thượng viện, ông đưa ra một bài phát biểu nữa kêu gọi thống nhất dân tộc và được đón nhận rất tích cực. “Các quý vị là sự sáng suốt của dân tộc”, ông tán dương họ, “mọi thứ phụ thuộc vào các quý vị trong việc đề ra các biện pháp có thể cứu nguy cho đất nước chúng ta trong bối cảnh hiện tại. Tôi tới đây, với tất cả các tướng lĩnh tập hợp quanh mình, để hứa với các quý vị về tất cả sự ủng hộ của họ. Tôi cử Tướng Lefebvre làm cấp phó cho mình. Tôi sẽ thực thi trung thành sứ mệnh các quý vị đã tin tưởng giao phó cho tôi. Không nên cố nhìn vào quá khứ để tìm ví dụ cho những gì đang diễn ra: không có điều gì trong lịch sử lại giống với cuối thế kỷ 18”. Cứng rắn và can đảm, François-Joseph Lefebvre là con trai một chủ cối xay, từng là một trung sĩ khi Cách mạng nổ ra, đã chiến đấu tại Bỉ và Đức; ông ta dường như là hiện thân đầy thuyết phục của các phẩm chất cộng hòa.

Khi Napoleon cưỡi ngựa đi qua quảng trường Cách mạng tối hôm đó, nơi mà Louis XVI, Marie Antoinette, Danton, Babeuf, anh em Robespierre, và nhiều người khác đã phải lên máy chém, ông được cho là đã nói với những người đồng mưu: “Ngày mai chúng ta hoặc sẽ ngủ tại Luxembourg, hoặc chúng ta sẽ kết thúc ở đây.”

Vào Ngày Hai, 10 tháng Mười một (19 tháng Sương mù), Napoleon dậy lúc 4 giờ sáng và cưỡi ngựa tới Saint-Cloud. Cùng lúc đó, tại Điện Luxembourg, Gohier bị đánh thức bởi một tin nhắn từ Josephine do Eugène đích thân đưa tới, mời ông ta và vợ đến ăn sáng lúc 8 giờ, nơi họ sẽ bị quản thúc nếu nhận lời. Dubois de Crancé đã buộc tội Napoleon tổ chức một cuộc đảo chính, song Gohier từ chối tin vào các tin đồn vì ông ta đã nói chuyện với Bộ trưởng Cảnh sát của mình để hỏi về tin tức, và Fouché đã trả lời: “Tin tức ư? Sự thật là chẳng có gì cả”. Gohier không ngây thơ tới mức bị thuyết phục, nên đã để vợ mình, vốn là một người bạn của Josephine, tới ăn sáng thay vì đích thân đi. Lavalette kể lại là Josephine đã phải “dựa vào sự hoảng hốt của bà Gohier để buộc chồng bà ta quy phục.”

Moreau tới Luxembourg sau đó vào buổi sáng và giải tán lực lượng bảo vệ cung điện; ông ta bắt giữ Barras, Gohier và Moulin, yêu cầu họ từ chức Ủy viên Đốc chính. Barras được thuyết phục bởi Talleyrand và Bruix, họ đề nghị với ông ta một thỏa thuận theo đó ông ta được giữ lại lãnh địa rộng lớn của mình cũng như tất cả thành quả từ nhiều năm biển thủ tham ô khi đứng đầu Chính phủ. Gohier và Moulin cầm cự thêm 24 tiếng, nhưng rồi đã ký đơn từ chức vào hôm sau.(*) Talleyrand như thường lệ lại thủ lợi từ tình thế. Khi nhiều năm sau Napoleon hỏi ông ta làm thế nào để kiếm gia tài của mình, ông ta thản nhiên trả lời “Chẳng có gì đơn giản hơn: tôi đã mua trái phiếu chính phủ vào ngày 17 tháng Sương mù và bán chúng đi vào ngày 19.”

Napoleon phát biểu trước Thượng viện tại Saint-Cloud, song đây là một màn trình diễn hùng biện không mấy ấn tượng mà khi đọc thì có vẻ hay hơn so với khi nó vang lên:

⚝ ✽ ⚝

Ông nhắc tới những người lính thủ pháo của mình, “tôi thấy mũ của họ tại các cửa của căn phòng này”, và kêu gọi họ nói với Thượng viện, “Đã bao giờ tôi lừa dối các bạn chưa? Đã bao giờ tôi phản bội những lời hứa của tôi, khi mà tại các doanh trại, giữa cảnh thiếu thốn, tôi đã hứa với các bạn chiến thắng và sung túc, và khi dẫn đầu các bạn, tôi đã đưa các bạn từ thành công này tới thành công khác hay không? Giờ hãy nói với họ: việc này là vì lợi ích của tôi hay lợi ích của nền Cộng hòa?” Tất nhiên ông nhận được một tràng hoan hô từ binh lính, nhưng sau đó một thành viên Thượng viện tên là Linglet đứng dậy và nói lớn: “Tướng quân, chúng tôi hoan nghênh những gì ông nói; vì thế hãy thề cùng chúng tôi tuân thủ Hiến pháp Năm III, đó là thứ duy nhất giờ đây có thể duy trì nền Cộng hòa”. Những lời nói này đã tạo ra “sự im lặng bao trùm”: Napoleon đã bị kẹt trong một cái bẫy. Ông trấn tĩnh lại trong giây lát, rồi nói: “Các quý vị không còn Hiến pháp Năm III nữa: các quý vị đã vi phạm nó ngày 18 tháng Quả, khi chính phủ tìm cách xâm phạm sự độc lập của cơ quan lập pháp”. Sau đó, ông nhắc lại với họ về cuộc đảo chính tháng Đồng cỏ, lập luận rằng vì hiến pháp đã “bị vi phạm, chúng ta cần một thỏa ước mới, những đảm bảo mới”, song lờ đi không nhắc tới chuyện một trong những nhân vật chính chủ mưu cuộc đảo chính tháng Quả lại là mình.

Được lắng nghe một cách tôn trọng và phù hợp từ các thành viên Thượng viện, và được trợ sức bởi các đồng ngũ bên ngoài, sau đó Napoleon đi bộ trên quãng đường chừng hơn 90 m ngược lên triền dốc thoai thoải tới chỗ Hội đồng Năm trăm đang nhóm họp ở điện Orangery. Tại đó, ông nhận được một sự tiếp đón khác hẳn. Quãng thời gian giữa Ngày Một và Ngày Hai đã cho phép phe đối lập có thời gian tổ chức để tìm cách ngăn chặn việc thông qua Tổng tài lâm thời mà Napoleon và Lucien sắp đề xuất. Hội đồng Năm trăm có nhiều nhân vật tân-Jacobin hơn so với Thượng viện và thành viên cũng đông gấp đôi; viện này luôn khó thuyết phục hơn nhiều. Ngay từ đầu phiên họp được bắt đầu từ giữa trưa, các thành viên Hạ viện đã điểm danh tuyên thệ trung thành với Hiến pháp Năm III. Lucien, Boulay và tất cả những người ủng hộ Bonaparte buộc phải tuyên thệ trung thành theo thứ tự ABC, trong tiếng huýt sáo từ những người tân-Jacobin nhằm chế giễu sự đạo đức giả của họ. Những lời tuyên thệ này cho phép các đại biểu có lời phát biểu ngắn về vinh quang của hiến pháp, được lính gác cùng lắng nghe.

Lúc Napoleon tới nơi cùng các sĩ quan thuộc cấp và binh lính, những đại biểu trẻ hơn thuộc Cánh tả bày tỏ sự phẫn nộ của họ khi thấy những người mặc quân phục nơi cửa một phòng họp dân chủ. Napoleon tự bước vào và phải rảo bước qua căn phòng để tới bục diễn thuyết, trong lúc đó các đại biểu bắt đầu la hét nhằm vào ông. Một nhân chứng tại chỗ, nhân vật tân-Jacobin Jean-Adrien Bigonnet, nghe thấy Napoleon hét trả: “Tôi không muốn có thêm chủ nghĩa bè phái nữa, việc này phải chấm dứt; tôi không muốn nó nữa!” Bigonnet nhớ lại: Thú thực là giọng nói đầy quyền uy của một chỉ huy lực lượng quân đội trước sự hiện diện của những người thực thi quyền lực hợp pháp khiến tôi phẫn nộ… Cảm giác này về mối nguy hiểm hiện rõ trên hầu như mọi khuôn mặt”. Napoleon được mô tả là “tái nhợt, xúc động, do dự”, và ngay khi dường như ông có khả năng bị nguy hiểm đến mình, Lefebvre và bốn người lính thủ pháo cao lớn tay cầm kiếm – một người cao hơn 1,83 m kể cả khi không đội mũ – bước vào phòng đứng vây quanh ông, hành động này chỉ làm các đại biểu thêm phẫn nộ.

“Đánh đổ tên bạo chúa!”, các đại biểu bắt đầu hò hét, “Cromwell!”(*), “Bạo chúa!”, “Đánh đổ tên độc tài!”, “Kẻ ngoài vòng pháp luật!”. Những tiếng hò hét này mang một âm thanh cộng hưởng nguy hiểm đối với những người âm mưu, vì trong Thời kỳ Kinh hoàng – mới chỉ kết thúc trước đó năm năm – việc đặt ai đó ra ngoài vòng pháp luật thường được tiếp nối bằng việc hành quyết họ, và gần đây nhất tiếng la hét “Đánh đổ tên độc tài!” đã vang lên khi Robespierre bước lên đoạn đầu đài. Lucien cố gắng vãn hồi trật tự, gõ mạnh cái búa chủ tọa của mình và lớn tiếng yêu cầu im lặng, nhưng sau đó một số đại biểu từ chỗ ngồi của họ đã lao xuống dưới sảnh chính của Orangery và bắt đầu xô đẩy, giật lắc, la ó, huých và tát Napoleon, một số tóm lấy cổ áo cao thêu kim tuyến của ông, buộc Lefebvre và những người lính thủ pháo phải đứng chắn giữa ông và các đại biểu đang nổi cơn thịnh nộ.

Lavalette đã được phái tới phòng họp ở Orangery trước đó vào ngày hôm ấy để báo cáo cho Napoleon mọi thứ đang diễn ra tại đây, và anh ta nhớ lại Napoleon “đã bị ép chặt giữa các đại biểu, các sĩ quan tùy tùng của ông ấy và những người lính thủ pháo… tới mức trong giây lát tôi đã nghĩ ông ấy sẽ bị ngạt thở. Ông ấy không thể tiến hay lùi lại”. Cuối cùng, Napoleon được đưa ra khỏi Orangery trong cảnh chen lấn xô đẩy, với ống tay áo của người lính thủ pháo Thomé bị giật đứt trong cuộc ẩu đả. “Ông ấy ra được ngoài sân, Lavalette nhớ lại, “lên ngựa dưới chân cầu thang, và gửi đi một yêu cầu Lucien ra gặp mình. Lúc này, các cửa sổ phòng họp đều mở tung, và các thành viên Hội đồng Năm trăm chỉ vào ông ấy, tiếp tục hò hét ‘Đánh đổ tên độc tài!’ và ‘Kẻ ngoài vòng pháp luật!’” Một nhân chứng tại chỗ khác, đại biểu Théophile Berlier, kể lại “Sau khi ông ấy rút lui, kéo theo là một cuộc rối loạn lớn, cộng thêm vài tiếng la hét ‘Kẻ ngoài vòng pháp luật,’ cậu em trai Lucien của ông ấy xuất hiện trên bục diễn thuyết để biện minh cho anh mình, chẳng có ai nghe; đến mức anh ta bực dọc, cởi bỏ bộ đồng phục của mình, rời khỏi phòng”. Một số đại biểu tìm cách ấn Lucien ngồi xuống ghế chủ tịch để giữ cho phiên họp diễn ra hợp pháp về mặt lý thuyết trong khi họ đưa ra kiến nghị đặt Napoleon ngoài vòng pháp luật, song những người lính thủ pháo đã thu xếp đưa được cả anh ta ra khỏi Orangery.

Montrond, thư ký của Talleyrand, sau này kể với Roederer về “vẻ tái nhợt thất thần” của Napoleon khi ông nghe nói về bản kiến nghị mà Hội đồng Năm trăm đang biểu quyết. Song lời chứng này rất đáng ngờ, vì Talleyrand và Montrond chỉ theo dõi các diễn biến từ xa, trên lầu của cung điện. Collot cũng có mặt ở đó, mang theo người 10.000 franc tiền mặt để phòng trường hợp thất bại. Sieyès – người ở cận cảnh các diễn biến hơn, dù ông ta cũng đã chuẩn bị một cỗ xe sáu ngựa – giữ được bình tĩnh, và lập luận rằng bất cứ ai coi Napoleon là kẻ ngoài vòng pháp luật, thì chính họ sẽ là một kẻ ngoài vòng pháp luật theo đúng nghĩa, đây cũng là thứ lập luận được sử dụng trong Thời kỳ Kinh hoàng dành cho những ai bảo vệ giới quý tộc, song bất chấp tất cả sự thiếu logic của nó, lập luận này đã động viên những người âm mưu.

Napoleon bị buộc tội đã dao động trong khoảng nửa tiếng sau khi ông bị đuổi khỏi Orangery. Lavalette tin rằng đây là khoảnh khắc nguy kịch nhất trong tất cả, vì nếu “một vị tướng nào đó có chút tiếng tăm lúc ấy đứng ra chỉ huy lực lượng quân đội trong nước” – chẳng hạn như Augereau, Jourdan, hay Bernadotte – “sẽ thật khó đoán điều gì đã có thể xảy ra”. Liệu có thực là Napoleon đã mất tinh thần vào ngày 19 tháng Sương mù như một số người đã nghi ngờ khi chỉ trích ông hèn nhát, hay thậm chí đã ngất xỉu và phải được các cận vệ khiêng ra ngoài? Việc bị đối xử thô bạo hẳn đã rất khó chịu, song khó có thể coi là nghiêm trọng nếu so với bị một ngọn giáo đâm vào đùi hay chứng kiến sĩ quan phụ tá của mình bị giết bởi một quả đạn đại bác. “Tôi thà nói chuyện với những người lính còn hơn với các luật sư”, ông nói với Hội đồng Năm trăm hôm sau. “Tôi không quen được với các nghị viện; điều đó phải có thời gian.”

Napoleon bị bất ngờ trước sự hung hãn trong phản ứng của các đại biểu, song nếu nói rằng ông đã để mất bình tĩnh và giao phó mọi thứ cho Lucien thì là cường điệu. Cho dù Lavalette thuật lại rằng anh ta thấy Napoleon “đi đi lại lại đầy chấn động trong một căn phòng không có đồ đạc gì ngoài hai chiếc ghế bành”, nói với Sieyès: “Giờ ông thấy họ đang làm gì rồi đấy!” và “cầm roi ngựa quật xuống đất” thốt lên “Việc này phải kết thúc!”, mọi chi tiết này đều diễn ra trong khoảng thời gian trước khi ông nói chuyện với Thượng viện vào Ngày Hai, chứ không phải sau khi ông đã nói chuyện với Hội đồng Năm trăm, và do đó là bằng chứng về sự bồn chồn sốt ruột của ông hơn là mất tinh thần. Vì trong giai đoạn sau khi ông trốn thoát bị trục xuất khỏi Orangery, những người âm mưu đã có một kế hoạch tức thời được thực hiện ngay khi Lucien cũng đã thoát ra. Nửa tiếng đó là để đợi Lucien xuất hiện, tập hợp những người âm mưu, loan đi tin tức Napoleon bị các đại biểu hành hung, và lên kế hoạch thuyết phục lực lượng bảo vệ Cơ quan Lập pháp ủng hộ cuộc đảo chính.

Chính trong giai đoạn nguy hiểm này, Augereau, một thành viên Hội đồng Năm trăm nhưng chưa ngả về phía nào, đã ra gặp Napoleon tại Gallery Mars để nói kiểu vô thưởng vô phạt, “Giờ ông đang ngập rất sâu dưới nước rồi”, nghe xong Napoleon đáp: “Thế thì sao, ở Arcole còn từng tồi tệ hơn nhiều”. Trong hồi tưởng sau này của Napoleon, thậm chí lúc ấy ông còn đe dọa Augereau, rằng, “Tin tôi đi, hãy giữ im lặng nếu ông không muốn là một nạn nhân. Nửa tiếng nữa ông sẽ thấy mọi thứ ngã ngũ ra sao”. Cho dù câu trả lời nào là chính xác hơn, nhưng cả hai đều cho thấy Napoleon biết mình đã làm hỏng phần khởi đầu giai đoạn hai của cuộc đảo chính, và đang lâm vào tình thế khó khăn, song cũng cho thấy khó có khả năng sự can đảm của ông đang bị suy giảm nghiêm trọng. Thêm nữa, cả hai câu trả lời đều ám chỉ là ông đã có một kế hoạch để lật ngược tình thế.

•••

Bước tiếp theo là giành lấy sự ủng hộ của lực lượng bảo vệ Cơ quan Lập pháp gồm 400 người dưới quyền chỉ huy của Đại úy Jean-Marie Ponsard. Việc này đạt được không phải nhờ vào một mình Napoleon, mà là vào một màn trình diễn thuần chất kịch, có thể nghi ngờ là đã được dàn dựng, thậm chí là tập dượt trước. Nó mang sự tương đồng rõ nét với một nhận xét Napoleon nói với Tilly, Lãnh sự Pháp ở Genoa, ngay trước khi ông bị bắt năm 1794, khi ông đề cập về Augustin Robespierre, “Cho dù ông ta có là anh trai tôi