Chương 14 AMIENS
Người dân Pháp cần ủng hộ tôi với những khiếm khuyết của tôi, nếu họ tìm thấy ở tôi một số lợi thế. Khiếm khuyết của tôi là không thể chấp nhận được những sự sỉ nhục.
• Napoleon nói với Roederer, năm 1800
Các đại sứ về căn bản là những gián điệp có chức danh.
• Napoleon nói với Eugène, năm 1805
⚝ ✽ ⚝
Vào 9 giờ sáng Thứ hai, 4 tháng Một năm 1802, Quận trưởng quận 1 Paris thực hiện thủ tục kết hôn giữa Louis em trai Napoleon và Hortense con gái Josephine. Đây chỉ là một trong số nhiều đám cưới do Napoleon dàn xếp, và việc can thiệp của ông vào đời sống hôn nhân của người khác gần như luôn là thảm họa – và chắc chắn là vậy trong trường hợp này, vì Louis vốn đang yêu một người khác vào thời gian đó không thể ngay lập tức chịu đựng nổi việc chung phòng với Hortense, và Hortense cũng vậy. Napoleon cư xử với Hortense như con gái của chính ông. Mọi người đều yêu quý cô ngoại trừ người đàn ông Napoleon chọn để kết hôn với cô. (Sau này cô mô tả thời đi học như là những ngày hạnh phúc duy nhất của đời mình; chẳng thể có lời giãi bày nào buồn hơn thế.) Josephine cũng đáng trách về cuộc hôn nhân, vốn gắn kết chặt chẽ hơn gia đình bà với gia đình chồng bà bằng cái giá phải trả là hạnh phúc của chính con gái bà.
Cho dù Joseph đã thể hiện mình là một nhà đàm phán khéo léo trong cuộc thương thảo Giáo ước và chấm dứt cuộc Gần như Chiến tranh, và Napoleon hài lòng với cậu em út Jérôme đã gia nhập hải quân Pháp, những người anh chị em của ông giờ đây đang trở thành một niềm vui pha lẫn ưu phiền cho ông trong đời sống xã hội. Lucien đặc biệt khó kiểm soát. Người ta kể Napoleon đã nổi xung vào tháng Mười một năm 1800 khi Lucien, trong vai trò Bộ trưởng Nội vụ, đã cho phép xuất bản tập sách của Louis de Fontanes có tựa Parallèle entre César, Cromwell, Monk et Bonaparte (Sự tương đồng giữa César, Cromwell, Monk và Bonaparte), Napoleon lo ngại một cách đúng đắn rằng tập sách này, dù có thể đoán trước là mang giọng bợ đỡ ở phần kết luận của nó, sẽ thu hút sự chú ý tới thực tế là không ai trong số những người này lên nắm chính quyền một cách hợp hiến. “Không thể so sánh giữa tôi và Cromwell”, sau này ông nói, “tôi đã ba lần được nhân dân của mình bầu lên; và thêm nữa, tại Pháp quân đội của tôi không bao giờ gây chiến với người Pháp, mà chỉ với người nước ngoài”. (Những người fédérés ở Toulon, dân chúng vùng Vendée và các Khu Paris có thể sẽ phản đối nhận xét cuối cùng.) Fontanes là một trong những nhà tuyên truyền chính của Napoleon, vì thế thật khó tin rằng việc xuất bản tập sách lại hoàn toàn bất ngờ; có thể trên thực tế ông đã vờ nổi giận vì phản ứng của công chúng với tập sách lập tức rất thù địch vì sự ám chỉ qua so sánh lịch sử rằng Napoleon sẽ trở thành một nhà độc tài. Việc in ấn bị dừng lại, còn Lucien bị điều đi Tây Ban Nha làm đại sứ ngay sau đó. Sau khi Christine Boyer, người vợ đầu của Lucien, qua đời tháng Năm năm 1800, ông ta tái hôn, một lần nữa lại xuất phát từ tình yêu, với bà góa Alexandrine Jouberthon, và có 10 đứa con với người phụ nữ này. Napoleon không tán thành cuộc hôn nhân thứ hai của em trai vì ông ưa thích một đám có lợi hơn cho gia đình, và vì chuyện này Lucien cắt đứt quan hệ với anh trai và lui về sống ở Rome.
Làm sống lại các quy tắc hoàng gia cổ xưa, theo đó các tướng lĩnh và quan chức cao cấp phải xin phép và được sự đồng ý của người đứng đầu nhà nước để kết hôn, Napoleon tìm cách để tướng lĩnh của mình kết hôn với các gia đình quyền quý thời xưa. Những cuộc hôn nhân bị Napoleon phản đối, như của Lucien và của Jérôme (với người vợ thứ nhất) thường có xu hướng hạnh phúc hơn những cuộc hôn nhân do ông và Josephine sắp đặt. Thậm chí ngay cả khi những cuộc hôn nhân do ông dàn xếp thành công, ông cũng chẳng làm được gì nhiều cho chúng; khi Murat đề nghị được phép rời Italy đi gặp vợ là Caroline em gái Napoleon và đứa con mới sinh của họ, Napoleon đã từ chối với cớ “Một người lính phải chung thủy với vợ mình, song chỉ mong ước gặp lại vợ khi đoan chắc là không còn gì khác để làm”. Không nghi ngờ gì nữa, những mối quan hệ khó khăn giữa Napoleon với một số thành viên gia đình là do chính ông gây ra.
•••
Vào nửa đêm 8 tháng Một năm 1802, Napoleon cùng Josephine lên đường tới Lyon, tại đây ông được đề nghị giữ chức Chánh pháp quan (có nghĩa là Tổng thống) của Cộng hòa Italy mới, sẽ được thành lập từ Cộng hòa Cisalpine và các tỉnh của Italy giành được từ tay Áo theo Hiệp ước Lunéville. Ngày hôm sau, Cambacérès, người được để lại nắm quyền ở Paris, viết lá thư đầu tiên trong tổng số 1.397 lá thư trình bày chi tiết mọi điều đáng quan tâm diễn ra tại Pháp, cho phép Napoleon bám sát tình hình dù ông ở bất cứ đâu tại châu Âu. Trong một bức thư hồi đầu, Napoleon biết là chợ lương thực trung tâm Les Halles được cung cấp hàng chu đáo, Thị trưởng Brussels xin lỗi vì đã bỏ qua cho hoạt động buôn lậu, Tướng Belliard muốn một đoạn văn bản cụ thể được đưa lên tờ Moniteur , Bộ trưởng Hải quân thông báo gió thuận tại Hushing, một ủy ban của Thượng viện đã nhóm họp để thảo luận về cải cách hiến pháp, và Junot đã nhận được báo cáo về hoạt động phản loạn của một thành viên Cơ quan Tư pháp. Về nhiều mặt, những lá thư này là tiền thân của các báo cáo mà Bộ Cảnh sát sẽ gửi cho Napoleon hằng ngày từ năm 1804 đến 1814.
Cuộc Hội kiến ở Lyon kéo dài hai tuần và được đánh dấu bằng nhiều bữa tiệc, diễu binh, các cuộc tiếp tân, và những chuyến thăm nhà máy, song khoảnh khắc then chốt diễn ra ngày 25 tháng Một lúc Napoleon, sau khi duyệt đội ngũ từ Ai Cập trở về tại quảng trường Bellecour, được bầu làm Đại pháp quan của Cộng hòa Italy trong một cuộc họp tại Jesuit College (ngày nay là trường trung học Ampère). Một Ủy ban Ba mươi, đứng đầu là Francesco Melzi d’Eril, đề xuất tên của Napoleon trước 450 đại biểu Italy có mặt, và cây búa của chủ tọa được gõ xuống lập tức sau khi câu hỏi được đưa ra để phòng trường hợp ai đó bạo gan có ý kiến phản đối. Melzi đã tổ chức các đại biểu thành từng nhóm căn cứ vào việc họ tới từ vùng thuộc Áo, Piedmont, Venice hay Giáo hoàng, qua đó cố ý đẩy lên tối đa sự không thống nhất và giảm thiểu nguy cơ bị phản đối. Cho dù thật mất mặt khi nền Cộng hòa Italy mới lại được thành lập trên đất Pháp, nơi Talleyrand có thể dễ dàng kiểm soát các đại biểu hơn, thì đây vẫn là lần đầu tiên từ “Italy” xuất hiện trên bản đồ chính trị châu Âu kể từ khi La Mã sụp đổ vào thế kỷ 5. Napoleon soạn thảo một bản hiến pháp khác xa với nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được Cách mạng ưa chuộng, với quyền bầu cử nằm trọn trong tay các chủ đất, tu sĩ, những người có nghề nghiệp chuyên môn, giới học thuật và thương gia, bỏ phiếu tại các cộng đồng bầu cử để bầu ra các cơ quan lập pháp.
Trở lại Paris ngày 18 tháng Ba, trong khi Napoleon kiểm tra các huy chương của Alexander Đại đế và Julius Caesar tại Louvre và trao thanh kiếm của Henri IV tại Thư viện Quốc gia, Cambacérès thực hiện một cuộc đảo chính lập pháp, thanh lọc Cơ quan Lập pháp và Tư pháp theo một sắc lệnh tổng tài. “Người ta không thể làm việc với một cơ quan chăm chỉ tạo ra sự hỗn loạn như vậy”, Napoleon đã nói về Cơ quan Tư pháp bằng những lời này trong một phiên thảo luận tại Hội đồng Nhà nước không lâu trước khi đi Lyon. Do vậy, những người bị coi là các nhà tư tưởng và “những người cộng hòa nhiệt thành” nay bị loại bỏ khỏi nơi này, bao gồm Chénier, Daunou, Benjamin Constant, Maximin Isnard cựu Girondin, và nhà kinh tế chính trị Charles Ganilh. Phần lớn lực lượng đối lập với Napoleon theo khuynh hướng tự do là các nhà tư tưởng Khai sáng và môn đệ của Hầu tước de Cordorcet đã quá cố, chẳng hạn như triết gia Pierre Cabanis, Antoine Destutt de Tracy (người đã đưa ra khái niệm “hệ tư tưởng”), Giáo sư lịch sử và nhà biên tập Dominique Garat, Giám mục theo Chủ nghĩa hợp hiến Henri Grégoire, tác giả Pierre-Louis Guinguené, và luật sư-chính trị gia Bá tước Jean-Denis Lanjuinais, những người luôn hành động theo quy tắc và không có âm mưu ám sát. Cho dù thỉnh thoảng Napoleon có hành động chống lại họ – chẳng hạn ông đã giải thể ban khoa học chính trị và đạo đức của Tổng Hàn lâm viện Pháp quốc, trục xuất Constant và de Stäel – nhưng ông nhìn chung thường để những người mà ông gọi là những người trung thực được yên (trừ khi ông có thể thuyết phục được họ phục vụ mình, như Jean de Bry đã làm trong vai trò Tỉnh trưởng tại Tỉnh Doubs). Napoleon thậm chí còn cho an táng Cabanis trong Panthéon và để Chateaubriand được bầu vào Học viện, thể hiện rõ rằng ông không hề nhìn nhận những người mà ông gọi một cách miệt thị là các nhà tư tưởng như một mối đe dọa chính trị nghiêm trọng.
•••
Thứ Năm, 25 tháng Ba năm 1802, sau gần sáu tháng đàm phán, Hiệp ước hòa bình Anh-Pháp, trong đó các đồng minh Tây Ban Nha và Hà Lan của Pháp cũng là những bên ký kết, cuối cùng cũng được ký tại Tòa Thị chính Amiens. Những cuộc thảo luận đã diễn ra về quần đảo Falkland, hoạt động đánh cá voi, cướp biển Bắc Phi, chào cờ trên đại dương, và nhiều nữa…, và có đặc trưng là sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, nhất là khi người Anh đưa ra ý tưởng chọn một người thuộc nhà Bourbon làm đại trưởng giáo của Dòng Hiệp sĩ St John ở Malta. Dẫu vậy, công chúng rộng rãi tại Pháp đã rất hoan hỉ, và những bức tranh khắc gỗ màu sắc được chế tác in hình các thiên thần và phụ nữ đại diện cho Pháp đặt vòng nguyệt quế lên những bức tượng bán thân của “nhà kiến tạo hòa bình” Napoleon, phía trên là các câu thơ: “Cả thế giới kính trọng/Anh hùng của nước Pháp/Người là Thần Chiến tranh/Người là Thiên sứ Hòa bình”. Ấn tượng này còn mạnh mẽ hơn vào ngày 26 tháng Sáu, khi Napoleon ký một hiệp ước khác với Thổ Nhĩ Kỳ, cho phép mở cửa eo biển Dardanelles cho thương mại Pháp.
Những điều khoản của Hiệp ước Amiens về căn bản tương tự với Hiệp ước sơ bộ, trong đó Anh hứa rời khỏi Malta và tuyên bố hòn đảo là một cảng tự do trong vòng ba tháng sau khi Hiệp ước được phê chuẩn, trả lại đảo cho Dòng Hiệp sĩ St John, và trao lại quyền kiểm soát Pondicherry, còn Pháp giành lại các thuộc địa của mình với cái giá phải triệt thoái khỏi Naples, Taranto và những phần của Lãnh thổ Giáo hoàng như Ancona không nằm trong Cộng hòa Italy. Thế nhưng Hiệp ước Amiens quan trọng gần như tương đương, vì những điều nó không nhắc đến cũng như vì những gì nó thực sự nhắc đến. Không có điều khoản nào nhắc tới thương mại, và cho dù Hiệp ước quy định “một khoản đền bù thỏa đáng” cho Vương hầu Willem V của Orange-Nassau nhằm bù lại việc ông ta bị mất các lãnh địa và nguồn thu nhập của mình tại Hà Lan khi nước này trở thành Cộng hòa Batavia năm 1795, không có lời nào nhắc tới tương lai của Hà Lan, Thụy Sĩ hay Piedmont, hay bất cứ sự thừa nhận nào dành cho các nền Cộng hòa Italy, Liguria và Helvetia. Đã có một Công ước Pháp-Hà Lan vào tháng Tám năm 1801 quy định quân Pháp sẽ rời Hà Lan khi hiệp ước hòa bình toàn diện được ký, và Hòa ước Lunéville đã đảm bảo sự độc lập của Thụy Sĩ, vì thế người Anh không cảm thấy cần thiết phải nhắc tới cả hai trong bản Hiệp ước.
Sự thiếu vắng một hiệp ước thương mại đi kèm với hiệp ước chính trị đồng nghĩa với việc tầng lớp thương gia Anh hùng mạnh sẽ sớm phản đối một nền hòa bình không đem đến cho họ đặc quyền xâm nhập vào các thị trường Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Genoa, và (sau này) Etruria. Điều này đã bị nhìn nhận như một hành vi thù địch cố ý của Napoleon, đi ngược lại “tinh thần” Amiens, nhưng không quốc gia nào bị đòi hỏi phải ký kết một hiệp ước thương mại mà nó biết sẽ bất lợi cho mình. Napoleon muốn đánh thuế vào hàng nhập khẩu từ Anh, và việc ông không có ý định trở lại với các điều kiện của Hiệp ước thương mại Anh-Pháp rất bất bình đẳng năm 1786 đã khiến thương gia Pháp tại các thành phố như Rouen phấn khởi, vì họ có thể tiếp tục làm ăn sau hàng rào bảo hộ thuế quan của Pháp – khiến cho hàng Anh đắt hơn nhiều – song cũng vì những tuyến đường biển mới được mở ra không còn sự cản trở của Hải quân Hoàng gia Anh. Pháp giờ đây chứng kiến sự bùng nổ nền kinh tế hàng hải của mình, với nguồn cung ứng bông nguyên liệu ùa vào từ ngoại quốc. Những cuộc trao đổi tù binh chiến tranh cũng rất được hoan nghênh tại Pháp, vì khi đó có gần 70.000 tù binh chiến tranh Pháp tại Anh, hầu hết là thủy thủ bị bắt trong hàng chục cuộc hải chiến nhỏ mà Anh đã giành phần thắng từ năm 1793, nhiều người trong số họ đã bị giam giữ nhiều năm trong điều kiện vô cùng tệ hại tại những chiếc tàu cũ dùng làm nhà tù chật chội mất vệ sinh neo đậu ngoài khơi bờ biển phía nam và ở cửa sông Thames.(*)
Khi Joseph trở về Paris từ Amiens, Napoleon đã đẩy anh trai ra trước lô ghế tại nhà hát Opera để đón nhận sự hoan hô của khán giả. Pháp đã giữ lại được tất cả các đường biên giới “tự nhiên” của mình tới tận sông Rhine và dãy Alps, giữ được vị trí bá chủ ở Tây Âu, và được trả lại tất cả các thuộc địa. Nhưng theo cảm nhận, Joseph và Talleyrand đã thành công thái quá: bởi Anh giành được quá ít, và cam kết của nước này với hòa bình cũng lỏng lẻo ở mức tương tự. Anh buộc phải trả Malta lại cho Dòng Hiệp sĩ St John sau cuộc bầu chọn một đại trưởng giáo mới do Giáo hoàng giám sát được tổ chức trong vòng ba tháng kể từ khi Hiệp ước được phê chuẩn; vị thế trung lập và nền độc lập của hòn đảo sau đó sẽ do Pháp, Anh, Nga, Áo, Tây Ban Nha, và Phổ đảm bảo, nhưng không người Pháp hay người Anh nào được chấp nhận gia nhập Dòng này, lúc đó đặt trụ sở tại St Petersburg vì đại trưởng giáo trước đó chính là Sa hoàng Paul đã bị ám sát. Nhưng cho dù Giáo hoàng chỉ định một nhà quý tộc Italy là Giovanni Battista Tommasi làm đại trưởng giáo vào tháng Ba năm 1803, người Anh đã từ chối thừa nhận quyền lực của ông ta và trục xuất ông ta tới Sicily. Pháp triệt thoái khỏi tất cả những vùng lãnh thổ được quy định trong Hiệp ước thậm chí từ trước khi giới hạn thời gian ba tháng kết thúc, song Anh lại thoái thác về Pondicherry và Malta, một phần vì nước này lo sợ (một cách sai lầm) rằng Pháp và Nga đang chuẩn bị phân xẻ Đế quốc Ottoman. Pondicherry nằm trong tay người Anh tới tận năm 1816.
•••
Khi Hiệp ước hòa bình Amiens được ký kết, có khoảng 5.000 người Anh đổ về Paris. Một số tò mò, một số muốn chiêm ngưỡng bộ sưu tập của Louvre, một số muốn mượn cớ này để ghé thăm các ổ trụy lạc tại Palais-Royal (đang làm ăn rất phát đạt), một số muốn nối lại các mối quan hệ cũ, và hầu như tất cả họ đều muốn gặp hay ít nhất cũng trông thấy Tổng tài Thứ nhất. Napoleon rất vui vẻ với bổn phận này, và ra lệnh cho các bộ trưởng của ông tổ chức những bữa tiệc chiêu đãi người nước ngoài có tiếng tăm ít nhất 10 ngày một lần. Dân biểu người Ireland Johnn Leslie Foster đã dự một trong những buổi tiếp kiến của Napoleon tại Tuileries và mô tả về ông như sau:
⚝ ✽ ⚝
Tương tự, một cựu tù nhân của người Pháp tên là Sinclair đã viết về “sự lịch lãm và thu hút trong nụ cười của ông ấy”, và Đại úy Usher nói ông “có phong thái tôn quý”. Sự cuốn hút là một hiện tượng vốn khó mô tả, song những khi Napoleon muốn như vậy thì ông rõ ràng là rất có sức hút. Chắc chắn ông đã thay đổi thói quen của mình để thể hiện tinh thần thân Anh vào thời điểm đó, bày lên hai bên bệ lò sưởi ở Tuileries những bức tượng bán thân của thủ lĩnh đảng Whig là Charles James Fox và Đô đốc Nelson. Người ta có thể hiểu được thái độ của ông đối với chính khách Fox của đảng Whig thân Pháp, song tỏ thái độ trân trọng người đã đánh chìm hạm đội của mình tại vịnh Aboukir mới chỉ bốn năm trước thì quả là bất thường. (Ta có thể đoan chắc về việc Nelson không hề bày tượng bán thân của Napoleon trên bệ lò sưởi nhà mình.)
Với một số người Anh là thành viên đảng Cấp tiến và đảng Whig, sự ngưỡng mộ Napoleon gần như không giảm xuống thậm chí tới tận trận Waterloo. Thủ tướng tương lai Huân tước Melbourne đã viết những bài thơ dành cho Napoleon tại trường đại học, Keats có một hộp đựng thuốc lá hít với chân dung ông trên đó, Byron đặt làm một bản sao giống hệt cỗ xe ngựa của ông để dùng đi lại trên lục địa, và các tờ Weekly Political Register của William Cobbett và Statesman của Daniel Lovell ca ngợi ông bằng những lời lẽ xa xỉ. Các cải cách của ông lôi cuốn những người Anh theo xu hướng tự do, họ nghĩ đất nước mình đang sa lầy trong một Chế độ cũ. Bản thân Fox đã tới thăm Paris cùng ba thành viên gia đình mình trong một chuỗi những cuộc gặp gỡ rất thân mật với Napoleon vào tháng Chín năm 1802; những người Anh khác được giới thiệu với ông bao gồm một thủ tướng tương lai nữa, Bá tước Aberdeen, nhà hoạt động người Ireland Thomas Emmet, học giả cổ điển-mục sư G. H. Glasse, Huân tước và Phu nhân Hà Lan, Huân tước Henry Petty (sau này là Hầu tước Lansdowne đời thứ 3), Huân tước Spencer Smith, cùng hàng chục người tiếng tăm khác. Có khá nhiều người Anh đổ về Paris tới mức James Gillray vẽ một bức biếm họa có tên The First Kiss this Ten Years! (Nụ hôn đầu tiên sau mười năm!), thể hiện một sĩ quan Pháp gầy gò ôm hôn một phụ nữ béo tốt đại diện cho Anh. Và điều này không phải chỉ có một chiều; bình luận về số lượng người Pháp “đáng ngạc nhiên” tới Dover, nhà tự nhiên học James Smithson nhận xét rằng hai nước có vẻ như “đang trao đổi toàn bộ dân số của nhau.”
Napoleon tận dụng cơ hội này để cài cắm gián điệp nhằm thiết lập bản đồ các vịnh ở Ireland, song họ đã nhanh chóng bị phát giác và trục xuất về nước. Nhiều năm sau, khi một người Anh đưa ra với ông giả thiết rằng Chính phủ Anh đã không nghĩ Napoleon chân thành mong muốn hòa bình vì chuyện này, ông phá lên cười và nói: “Ồ! Cái đó không cần thiết, vì tất cả các vịnh ở Anh và Ireland đều đã được biết rõ”. Tất nhiên, điều đáng nói không phải là sự hữu dụng của hoạt động gián điệp này: thực tế rằng nguyên việc thực hiện nó được coi là dấu hiệu của toan tính thù địch là điều có thể hiểu được. Đương nhiên, tình báo Anh cũng tận dụng hòa bình để do thám về các vịnh ở Pháp.
•••
Cho dù nhiệm kỳ 10 năm của chế độ Tổng tài phải đến năm 1810 mới kết thúc, nhưng vào tháng Năm năm 1802, một động thái của Thượng viện nhằm kéo dài nó thêm một nhiệm kỳ 10 năm nữa được thông qua với 60 phiếu thuận và 1 phiếu chống, chỉ có Bá tước Lanjuinais cựu thành viên Girondin bỏ phiếu chống. Việc này dẫn tới những lời kêu gọi có vẻ như tự phát, song trên thực tế đã được dàn dựng chu đáo nhằm đề nghị một Hiến pháp mới của Năm X, theo đó Napoleon sẽ trở thành Tổng tài Thứ nhất suốt đời. “Các vị cho rằng tôi nợ nhân dân một sự hy sinh nữa”, ông nói với Thượng viện một cách không trung thực. “Tôi sẽ thực hiện điều đó nếu tiếng nói của nhân dân ra lệnh cho những gì mà cuộc biểu quyết của các vị lúc này cho phép”. Giống như Julius Caesar đã từ chối vòng nguyệt quế của La Mã hai lần, ông muốn việc này trông có vẻ như mình bị kéo dài một cách miễn cưỡng cái quyền lực suốt đời kia. Đây là sự đảo ngược hoàn toàn các nguyên tắc của Cách mạng, nhưng người Pháp lại ủng hộ nó. Câu hỏi trưng cầu dân ý là: “Napoleon Bonaparte có nên là Tổng tài suốt đời không?” và kết quả, được chỉnh sửa một cách thậm chí còn không cần thiết và triệt để hơn cuộc trưng cầu dân ý tháng Hai năm 1800, là 3.653.600 phiếu ủng hộ và 8.272 phiếu phản đối. Đây được cho là cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên trong lịch sử Pháp với tỉ lệ quá nửa người biết đọc đi bầu, cho dù việc bỏ phiếu hai lần đối với phe “ủng hộ” không hề bị điều tra ở một số vùng; một lần nữa, do tỉ lệ người mù chữ ở nông thôn cao nên họ chẳng có cách nào để biết giới lãnh đạo đã kiểm phiếu bầu của mình ra sao.
Napoleon vậy là được tuyên bố trở thành Tổng tài Thứ nhất suốt đời vào ngày 2 tháng Tám, có quyền chỉ định người kế nhiệm. “Thái độ của ông ấy không hề giả tạo hay kiêu căng”, Huân tước Holland, Nghị sĩ Anh thân Bonaparte, người có mặt khi đoàn đại biểu Thượng viện trao vinh hạnh cho ông, đã mô tả lại, “nhưng chắc chắn thiếu vắng sự tự nhiên và cuốn hút mà người ta cho rằng chỉ có sự gần gũi với giới thượng lưu ngay từ sớm mới có thể tạo ra được”. Joseph được chọn làm người kế nhiệm Napoleon, nhưng vào ngày 10 tháng Mười năm 1802, Louis và Hortense có một con trai, Napoléon-Louis-Charles, sau này được nhắc tới như một ứng viên kế vị (cho dù với bản chất đa nghi, Louis ngờ vực về người cha thật của con trai mình). Với Josephine gần 40 tuổi, Napoleon đã từ bỏ việc mong chờ một người nối dõi từ bà. “Anh yêu em như ngày đầu tiên”, ông viết cho bà khi một lần nữa bà lại tới khu suối khoáng ở Plombières vào tháng Sáu, nơi được cho là giúp ích cho khả năng có con, “vì em tốt bụng và trên hết là đáng yêu”. Lần trước bà tới đó, ông đã viết cho bà về việc chăm lo cho “người em họ bé nhỏ” của bà, song tất cả còn xa mới bằng cách ông yêu bà “vào ngày đầu tiên.”
•••
Vụ mùa thất bát năm 1801 đã dẫn tới việc giá lương thực tăng một cách đáng lo ngại vào mùa xuân năm sau, và vào ngày 16 tháng Năm năm 1802, Napoleon nói với Chaptal: “Dự định của tôi là thực hiện mọi biện pháp có thể để ngăn giá bánh mì tăng lên ở thành phố. Cần phải triệu quản lý các bếp nấu súp tới gặp ông, và ông phải giao cho họ 12.000 franc mỗi tháng, nhiều hơn thế nếu cần thiết, để họ tăng gấp đôi và gấp ba lượng thực phẩm phân phối… Dứt khoát không được tiết lộ bất cứ điều gì về một vấn đề tế nhị như vậy”. Bằng những biện pháp này, và với sự hỗ trợ từ vụ mùa khả quan hơn của năm 1802, Napoleon đã vượt qua được một mối nguy hiểm mà ông luôn ý thức một cách cao độ. Ông bắt đầu cho xây dựng và dự trữ tại các kho lương thực được bố trí theo quy hoạch chiến lược để giảm thiểu nguy cơ. Cũng như bánh mì, Napoleon còn cung cấp các trò ồn ào: có các lễ hội để mừng sinh nhật của ông – ông 33 tuổi vào tháng Tám năm 1802, mừng việc phát giác các âm mưu chống lại ông, việc ông trở thành Tổng tài suốt đời, và kỷ niệm đảo chính Brumaire. Cùng lúc, việc kỷ niệm ngày phá ngục Bastille và ngày hành quyết Louis XVI được hạ cấp xuống một cách thận trọng và từ từ khi Tổng tài Thứ nhất tiến gần hơn tới việc tự phong mình là một quân chủ.
Vào đầu tháng Bảy, ngay khi người Anh triệt thoái khỏi Elba, Napoleon ra lệnh cho Berthier, người đã trở lại với vị trí Bộ trưởng Chiến tranh, chiếm lĩnh hòn đảo như một tỉnh của Pháp (chứ không phải của Cộng hòa Italy), tước vũ khí cư dân Portoferraio, bắt một tá con tin có địa vị để răn đe cư dân địa phương phải cư xử biết điều, rồi đưa con cái của 12 gia đình thế lực nhất tới học các trường tại Pháp như một cách để Pháp hóa họ. (Nói cho cùng, cách này đã hiệu quả với chính ông.) Elba được chính thức sáp nhập vào tháng Tám, sau khi Berthier đã đưa 3.000 franc cho từng người trong số ba đại biểu đến từ hòn đảo này. Những động thái kể trên không hề vi phạm Hiệp ước Amiens, và đều đã được người Anh lường trước.
Khi Hiến pháp Năm X, bản hiến pháp thứ năm của Pháp kể từ Cách mạng, bắt đầu có hiệu lực vào đầu tháng Tám, Napoleon – giờ đây chỉ dùng tên thánh của mình trong các thông điệp gửi tới Thượng viện, giống như các quân chủ vẫn làm – tuyên bố rằng tất cả nam giới trưởng thành của mỗi quận sẽ bầu các thành viên cử tri đoàn cho quận của họ, và các tỉnh sẽ bầu cử tri đoàn từ 600 người đóng thuế nhiều nhất, những người ấy sau đó sẽ giữ vị trí này suốt đời. Sau đó, các cử tri đoàn sẽ đề xuất hai ứng viên cho cả Cơ quan Lập pháp lẫn Tư pháp, từ những ứng viên này Napoleon sẽ chọn một người cho mỗi cơ quan. Ông thận trọng thiết lập một nhóm người ủng hộ chính trị có được vị trí của họ nhờ vào mình. Nhiều quyền của Cơ quan Lập pháp được chuyển giao cho Thượng viện, và Thượng viện cũng có quyền giải thể Cơ quan Lập pháp và Tư pháp. Số lượng thành viên tư pháp bị giảm một nửa xuống còn 50, và giờ chỉ có thể thảo luận trong các phiên họp bí mật, nơi mà như Napoleon nói, “họ có thể huyên thuyên tùy thích”. Ngay cả quyền lực của Hội đồng Nhà nước cũng bị giới hạn và chuyển giao cho một hội đồng tư mật trong lòng nó. Hiến pháp mới do đó có dáng vẻ của sự tham chính, song quyền lực thực sự nằm hoàn toàn trong tay Napoleon. Trong cao trào ủng hộ nhiệt thành có được nhờ các chiến thắng, cải cách, bản Giáo ước, và các hiệp ước hòa bình của Napoleon, chẳng hề ngạc nhiên khi những người ban đầu được bầu vào các cử tri đoàn thường là những người ủng hộ ông mạnh mẽ nhất.
•••
Ngày 5 tháng Chín, Napoleon lệnh cho Thiếu tướng Horace Sébastiani, người đã ủng hộ ông nhiệt thành trong cuộc đảo chính Brumaire, thực hiện một chuyến đi kéo dài bốn tháng tới Tripoli, Alexandria, Cairo, Jaffa, Acre, và Jerusalem, nhằm thúc đẩy lợi ích của Pháp ở một khu vực vốn có thể thông cảm được cho cảm nhận rằng họ đã thấy lá cờ tam tài như vậy là quá đủ. Báo cáo của ông ta khi trở về đã gây chấn động. Muộn hơn, cũng trong tuần đó, Napoleon mời Vua Charles Emmanuel của Piedmont trở lại ngai vàng của mình, trong vai trò một bù nhìn của Pháp. Đang an toàn tại vương quốc thứ hai của mình ở Sardinia, nên ông ta từ chối, vậy là Napoleon chính thức sáp nhập Piedmont vào ngày 21 và biến vùng này thành sáu khu mới của Pháp. Điều này làm thất vọng những nhà lãnh đạo của Cộng hòa Italy, những người muốn Elba và Piedmont gia nhập Italy, song nó đem đến cho Pháp khả năng tiếp cận trực tiếp các lối qua phía tây dãy Alps như hai đèo St Bernard dẫn tới vùng đồng bằng Lombard giàu có, nơi sản xuất gạo, ngũ cốc và tơ lụa, trong đó tơ lụa rất cần thiết cho các ngành sản xuất trang phục và đồ xa xỉ của Lyon.
Tiếng la ó tại London – nơi Napoleon bị nhìn nhận là đang vi phạm tinh thần, dù không phải điều khoản, của Hiệp ước Amiens – đã giúp làm gián đoạn việc thực thi Hiệp ước và khiến việc người Anh triệt thoái khỏi Malta và Pondicherry thậm chí khó xảy ra. Phe diều hâu Anh còn phẫn nộ hơn nữa khi hành động của Napoleon tại một vùng khác cũng không được nhắc tới trong Hiệp ước Amiens, song từ lâu đã nằm trong vùng ảnh hưởng của Pháp, và nơi Anh chưa bao giờ có bất cứ lợi ích quốc gia nào. Ngày 23 tháng Chín, Napoleon viết cho Talleyrand nói rằng vì ông cần đảm bảo an toàn cho vùng biên giới Franche-Comté, nên sẽ phải có hoặc “một chính quyền Thụy Sĩ được tổ chức vững chắc và thân thiện với Pháp” hoặc “không Thụy Sĩ nào cả”. Nhớ lại sự cần thiết phải vượt qua dãy Alps của mình hai năm trước, ông đã yêu cầu nhượng lại vùng Valais để ông có thể xây dựng một tuyến đường quân sự qua đèo Simplon, nhưng 13 bang điều hành liên bang Thụy Sĩ trong ba thế kỷ – cho dù không qua bất cứ phương tiện nào – đã từ chối trao cho ông.
Chính sách của Thụy Sĩ bị phức tạp hóa bởi những rạn nứt giữa các bang do quý tộc kiểm soát và các bang dân túy, và giữa các bang nói tiếng Đức, tiếng Italy và tiếng Pháp. Ngày 30 tháng Chín năm 1802, Luật Hòa giải của Napoleon tái tổ chức Thụy Sĩ thành 19 bang, với một chính quyền trung ương yếu ớt và một quân đội chỉ gồm 15.200 người (ít hơn con số 16.000 người mà nước này phải cung cấp cho Napoleon theo một hiệp ước phòng thủ Pháp-Thụy Sĩ mới ký kết). “Không có loại người nào trơ trẽn và yêu sách hơn dân Thụy Sĩ”, sau này ông nói. “Đất nước của họ bé như lòng bàn tay, nhưng họ lại có những đòi hỏi bất thường nhất.”
Luật Hòa giải vi phạm Hiệp ước Lunéville, nhất là khi Napoleon cử Tướng Michel Ney tới Thụy Sĩ với 40.000 quân để giám sát việc thực thi nó vào ngày 15 tháng Mười, song Áo thì để ông rảnh tay, người Nga và người Phổ thì không phản đối, còn người Thụy Sĩ vốn chưa ưng thuận cũng nhanh chóng chấp nhận. Napoleon nói với một trong những người Thụy Sĩ ủng hộ ông, triết gia cộng hòa Philipp Stapfer, “Việc sở hữu Valais là một trong những vấn đề cận kề trái tim tôi nhất”, vùng đất mà “cả châu Âu cũng không thể khiến ông ấy từ bỏ”. Bất chấp việc Hiệp ước Amiens không nhắc gì tới Thụy Sĩ và Anh, giờ đây nó đình chỉ việc trao trả Pondicherry cho Pháp và Mũi Hảo vọng cho Hà Lan, và binh lính nước này lưu lại Alexandria (nơi Anh đã hứa triệt thoái theo Điều 8) và Malta.
Napoleon ấn tượng trước những hành động của Ney trong nhiệm vụ tại Thụy Sĩ. Là con trai của một thợ đóng thùng gốc Saar, người đã cưới một trong những cô hầu phòng của Marie Antoinette, Ney sinh cùng năm với Napoleon và gia nhập lực lượng khinh kỵ năm 1787. Ông ta sau này có tiếng là người dũng cảm tới mức gần như điên rồ. Từng phục vụ xuất sắc ở Đạo quân Sambre-et-Meuse, ông ta đã không gặp Napoleon tới tận tháng Năm năm 1801, khi được mời tới Paris để gặp các tổng tài. Vào tháng Mười năm 1802, Talleyrand ra lệnh cho ông ta tới Thụy Sĩ với một đạo quân nhỏ để hỗ trợ các phần tử thân Pháp tại đây, Ney đã thực hiện nhiệm vụ này một cách nhanh chóng và thành công, chiếm giữ Zurich mà không phải đổ máu, đóng cửa Nghị viện Schwytz bài Pháp, thả những người thân Pháp khỏi nhà tù, dập tắt một cuộc bạo động do chính quyền Berne lãnh đạo, giám sát việc dựng lên một thống đốc kế nhiệm thân Pháp và thu về 625.000 franc để chi phí cho chiến dịch, đạt được mọi mục tiêu trong hai tháng.
Báo cáo chính thức về cuộc gặp giữa Napoleon và đại biểu các bang Thụy Sĩ tại Saint-Cloud ngày 12 tháng Mười hai ghi: “Châu Âu thừa nhận rằng Italy và Hà Lan, cũng như Thụy Sĩ, nằm dưới sự định đoạt của Pháp”. Vấn đề ở chỗ là Anh không thừa nhận điều đó. Hai tháng trước, Công tước Ferdinand nhà Bourbon của Parma đã qua đời. Công quốc bị sáp nhập vào Pháp, như đã được nhất trí tại Lunéville, và Napoleon cử quan chức Pháp Médéric Moreau de Saint-Méry đến áp đặt luật pháp của Pháp tại đó. Đây không phải là một cuộc sáp nhập vô căn cứ, song tân Đại sứ Anh tại Paris, Huân tước Whitworth, không cho là như vậy và yêu cầu đền bù, cũng như với việc sáp nhập Piedmont và xâm lược Thụy Sĩ, ám chỉ rằng Phổ và Nga vẫn chưa đồng ý đảm bảo cho độc lập của Malta như một sự trao đổi phù hợp. Và mọi thứ đã xoay chiều mà đáng ra với Napoleon, điều đó sẽ không phải là một thỏa hiệp tồi nếu tán thành.
•••
Hiệp ước Amiens đã cho Napoleon thời gian nghỉ ngơi để theo đuổi các kế hoạch nhằm kích thích phát triển kinh tế thông qua sự can thiệp của nhà nước và chính sách bảo hộ, một chính sách được đề xuất đầu tiên bởi Bộ trưởng Tài chính của Louis XIV, Jean-Baptiste Colbert. Napoleon đã đọc tác phẩm Wealth of Nations (Của cải của các quốc gia) của Adam Smith qua bản dịch năm 1802, nhưng cho rằng Cách mạng Công nghiệp Anh là quá tiến bộ so với Pháp để có thể cạnh tranh được trên thị trường mở. Thay vì thế, ông đặt niềm tin vào trợ cấp chính phủ dành cho các ngành công nghiệp chiến lược, trường dạy nghề kỹ nghệ, các giải thưởng cho sáng chế, những chuyến thăm tới các nhà máy Anh (nghĩa là gián điệp công nghiệp), các hội chợ công nghệ, việc cải tiến quy trình dệt lụa Jacquard, một triển lãm công nghiệp tại Paris (tại đó doanh nghiệp sợi bông của Richard Lenoir giành được các đơn đặt hàng trị giá 400.000 franc) và thành lập 22 phòng thương mại trên khắp Pháp vào tháng Mười hai năm 1802. Dẫu vậy, tới cuối thời kỳ cầm quyền của ông, Pháp chỉ đạt tới trình độ công nghiệp hóa mà Anh đã đạt được từ năm 1780, cho thấy sự kém hiệu quả trong chính sách kinh tế của cách mạng, của Đốc chính và Napoleon cũng như quan điểm kiểu Colbert mà tất cả họ theo đuổi. “Tôi chưa bao giờ thấy ông ấy từ chối một đề xuất nhằm cổ vũ và hỗ trợ công nghiệp”, Chaptal nhớ lại. Nhưng bất chấp mọi nỗ lực của Napoleon, và nhất là khi chiến tranh lại nổ ra, tình trạng công nghiệp hóa tại Pháp chỉ luôn ở mức độ nhỏ so với người khổng lồ công nghiệp bên kia eo biển Anh. (Năm 1815, vẫn chỉ có 452 khu mỏ sử dụng 43.395 công nhân trên toàn Pháp, 41 xưởng luyện thép với 1.202 công nhân, 1.219 xưởng cơ khí với 7.120 công nhân, 98 xưởng tinh luyện đường với 585 công nhân; Marseille, trung tâm của công nghiệp xà phòng Pháp, sử dụng 1.000 công nhân trong 73 xưởng.)
Việc sử dụng chính sách bảo hộ kiểu Colbert với các thuế suất chỉ càng làm thương mại trở nên mất cân đối hơn, kết quả là hàng rào thuế quan cao tại Italy khiến tơ lụa thô từ Piedmont vốn thường được đưa tới Lombardy giờ đây được chuyển tới Lyon; các nhà sản xuất Hà Lan phải trả thuế cho hàng hóa đưa vào bán tại Pháp, nhưng ngược lại thì không, và còn nhiều nữa. Đây chính là hành động của chủ nghĩa đế quốc về kinh tế, và khó lòng tránh khỏi gây ra sự phẫn nộ tại các quốc gia vệ tinh của Pháp. Napoleon đã nỗ lực rất nhiều để nâng cao niềm tin vào nền tài chính Pháp cũng như khả năng của nước này trong việc thanh toán các trái phiếu chính phủ, song ngay cả vậy, họ cũng không bao giờ bắt kịp được khả năng tài chính của Anh vào thời kỳ này. Ở tình trạng tốt nhất, ông vẫn buộc phải vay với lãi suất cao hơn so với Anh ở tình trạng tồi nhất.(*)
•••
Sau vụ nổ của mưu toan ma quỷ , Otto, phái viên Pháp tại London, đã gửi cho Talleyrand những ấn bản báo chí, tờ tin, tạp chí tại Anh, bày tỏ một cách ngấm ngầm và đôi khi công khai, rằng hy vọng lần âm mưu tiếp theo sẽ thành công. Báo chí tiếng Pháp do cộng đồng lưu vong xuất bản tại London đặc biệt khiến Napoleon tức giận, như Paris Pendant l’Année và L’Ambigu , cả hai đều do Jean-Gabriel Peltier làm chủ bút, chúng sử dụng những ám chỉ từ kinh điển và thi ca để hô hào ám sát ông. Ông thậm chí đi xa tới mức yêu cầu truy tố Peltier tại các tòa án Anh. Thành viên Hội đồng Nhà nước Joseph Pelet de la Lozère ghi lại rằng báo chí Anh khiến Napoleon “rơi vào cơn cuồng nộ giống như con sư tử trong truyện ngụ ngôn, bị một đàn muỗi đốt đến phát điên”.(*) Cuối cùng, vào tháng Tám năm 1802, ông cấm tất cả báo chí Anh có mặt tại Pháp. Nhà Bourbon từng có những mối quan hệ chặt chẽ với giới báo chí lưu vong, như chính quyền Anh biết rõ đã chặn giữ, sao lại, giải mã trước khi gắn nguyên niêm phong như cũ những lá thư được gửi qua Bưu cục (giống hệt như việc mà văn phòng đen của Lavalette đang làm khi đó tại Paris).
Hawkesbury nhắc đi nhắc lại với Otto rằng Anh không thể làm gì để ngăn cản “tự do báo chí như đã được đảm bảo trong hiến pháp của nước này”, song Otto chỉ ra rằng theo Luật Nhập cư năm 1793, có các điều khoản quy định việc trục xuất những tác giả nước ngoài xúi giục nổi loạn như Peltier. Talleyrand nói thêm rằng không những không thể thay đổi, Hiến pháp Anh còn không có cả văn bản viết và thậm chí cả lệnh không giam giữ cũng đã bị đình chỉ nhiều lần trong Chiến tranh Cách mạng của Mỹ. Napoleon bị cho là quá chuyên quyền nên không hiểu được khái niệm tự do báo chí; trên thực tế vấn đề không chỉ đơn thuần là chuyện tự do hay trấn áp, vì có những tờ báo “thuộc bộ” thuộc quyền sở hữu của các thành viên chính phủ, và bản thân em trai Thủ tướng, Hiley Addington, thậm chí còn viết bài cho chúng. Ông cũng biết London từng là nơi xuất bản những cuốn sách phỉ báng cay độc không kém nhằm vào Louis XV và Louis XVI do những người Pháp bất mãn viết.
Những bài báo công kích của Peltier, Jacques Regnier, Nicolas Dutheil, và các tác giả khác xuất bản tại Anh dẫn tới sự thù ghét, và Napoleon không bao giờ có thể chấp nhận được việc Chính phủ Anh bất lực và đứng ngoài cuộc như họ tuyên bố. Ông đích thân viết không ít hơn năm bài báo đăng trên tờ Moniteur về vấn đề này và cũng cung cấp ý tưởng cho những biếm họa chính trị mà ông ra lệnh vẽ và phân phát. Sau giai đoạn mưu toan ma quỷ , ông nghĩ cũng là hợp lý khi trông đợi một cường quốc hiện được coi là thân thiện giúp đỡ để hạn chế việc cổ vũ cho chủ nghĩa khủng bố.
Napoleon thật không may khi thời gian ông nắm quyền lại trùng hợp với sự nở rộ của thế hệ họa sĩ vẽ biếm họa chính trị thực sự chuyên nghiệp đầu tiên tại Anh – James Gillray, Thomas Rowlandson, và George Cruikshank – vẫn còn ở giai đoạn bùng nổ mạnh nhất, và tất cả họ đều chọn ông làm nạn nhân của mình. Gillray chiến đấu trong chiến dịch Flanders của Công tước York và chưa bao giờ thấy mặt Napoleon, song đã gần như một tay hư cấu nên hình ảnh của ông như một người có vóc dáng nhỏ bé – “Chàng còm Bé nhỏ”. Ấy vậy nhưng kể cả các họa sĩ biếm họa người Anh cũng không bao giờ đạt tới mức độ căm thù thuần túy như họa sĩ người Nga Ivan Terebenev hay họa sĩ Phổ Johann Gottfried Schadow, chưa kể tới họa sĩ người Bavaria Johann Michael Voltz, người vẽ bức biếm họa The Triumph of the Year 1813 (Cuộc khải hoàn của năm 1813) thể hiện cái đầu của Napoleon được tạo thành từ toàn xác chết. Tất nhiên, cũng có những bức tranh khắc ủng hộ Napoleon được bán ở London với giá tới 2 shilling 6 penny vào năm 1801, một lời nhắc nhở rằng ông cũng có những người Anh ngưỡng mộ mình. Song về tổng thể, tinh thần bài Pháp của người Anh dễ dàng sánh ngang tinh thần bài Anh của người Pháp. Thị trường dành cho những bức tranh bêu riếu Napoleon thái quá thì lớn hơn nhiều thị trường dành cho những hình ảnh tích cực về ông, và tác phẩm châm biếm mẫu mực chống Napoleon bằng tiếng Anh dài đến hai tập sách, không có hình minh họa. Trong khi đó, như một người thời đó ghi nhận, chỉ nguyên số lượng các tiểu sử bằng tiếng Anh của Napoleon được xuất bản vào những năm sau 1797 đồng nghĩa với việc chúng “vượt trội nhau ở mức độ tàn nhẫn trong những gì mà chúng mô tả về sự đáng ghét và xấu xa nơi dáng vẻ bề ngoài của ông ấy, cũng như sự méo mó và suy đồi trong tư cách đạo đức của ông ấy”. Giống như báo chí, biếm họa, sách vở, và kể cả những điệu hát ru, Napoleon thường xuyên là đích ngắm của các bản ballad, bài hát, và bài thơ tiếng Anh. Vào một thời kỳ mà tất cả mọi thứ đều được coi là chủ đề thích hợp cho một bài thơ – có bài còn mang tựa đề “Về một bà lão say khướt tình cờ chết đuối trên một chuyến qua phà” – những tội ác được cho là của Napoleon đã kích động nên một dòng thác những bài thơ, nhưng chẳng có bài nào đáng nhớ.
Có không ít sự đạo đức giả trong những lời phản đối của Napoleon, khi mà tờ Moniteur đã nhục mạ thẳng thừng Chính phủ Anh, so sánh họ với đám cướp biển Bắc Phi và Satan của Milton suốt hằng tháng, từ tháng Tám năm 1802 tới tháng Ba năm 1803. Tờ báo này thậm chí còn tuyên bố rằng kẻ khủng bố Chouan Georges Cadoudal lẽ ra đã được tặng Huân chương Garter nếu mưu toan ma quỷ thành công. Những nỗ lực của Napoleon nhằm khiến Cadoudal bị trục xuất khỏi Anh tới Canada vào thời gian này không đi tới kết quả nào, song trong một động thái hỗ trợ nền quân chủ Anh, dù sao ông vẫn trục xuất tất cả các thành viên nhà Stuart đang tị nạn tại Pháp, cho dẫu cuộc bạo động cuối cùng của những người Jacobin đã xảy ra trước đó 58 năm.
Dưới sức ép từ Pháp, Bộ trưởng Tư pháp Anh Spencer Perceval cuối cùng đã quyết định rằng Peltier – một người nước ngoài đã thu của mỗi người 1 shilling để được xem ông ta chặt đầu ngỗng và vịt trong khu vườn của mình bằng một cái máy chém nhỏ làm từ gỗ óc chó – có thể bị xét xử vì tội hình sự, và vụ án đã được xét xử trước Tòa Pháp viện tối cao của Vua vào ngày 21 tháng Hai năm 1803. Ông ta bị kết tội với sự nhất trí của bồi thẩm đoàn chỉ sau một phút thảo luận, nhưng vì chiến tranh tái diễn không lâu sau đó nên ông ta không bao giờ phải vào tù, và tiếp tục đả kích dữ dội Napoleon. Peltier sau này xuất bản một tác phẩm chống Napoleon của tiểu thuyết gia về đề tài ma cà rồng kinh dị phong cách Gothic-Roman lãng mạn của Pháp là Charles Nodier, người đã không phòng xa bằng cách trước hết rời khỏi đất nước như một chuyện dĩ nhiên, nên tác giả liền bị giam vài tháng trong nhà tù Saint-Pélagie.
•••
Việc Napoleon ngờ rằng nền hòa bình đạt được tại Amiens có thể sẽ không kéo dài thể hiện rõ trong mệnh lệnh của ông với Tướng Matthieu Decaen, được ông phái đi Ấn Độ cùng bốn chiến hạm và 1.800 thủy thủ vào tháng Ba năm 1803 để “liên lạc với các sắc tộc hay những ông hoàng đang cảm thấy vô cùng bất mãn dưới ách của Công ty Anh [tức Đông Ấn]”. Ông cũng muốn Decaen báo cáo lại sức mạnh của các pháo đài Anh tại Ấn Độ cũng như cơ hội duy trì một đạo quân Pháp tại đó, tính đến thực tế là người Pháp sẽ “không phải chủ nhân của biển” và viên tướng có thể “trông cậy rất ít vào sự giúp đỡ đáng kể”. Napoleon nói với Decaen rằng, nếu chiến tranh bùng nổ trước tháng Chín năm 1804, ông ta sẽ “ở vào một vị trí giành lấy vinh quang lớn lao, giúp truyền lại ký ức về con người vượt qua chiều dài các thế kỷ”. Ông đang bước trên ranh giới mong manh phân tách giữa sự vĩ đại và sự vĩ cuồng – song những chỉ thị của ông với Decaen cho thấy ông không muốn Hiệp ước bị phá vỡ dễ dàng như thực tế đã diễn ra.
Đến tháng Chín năm 1802, Napoleon đã quay lại với thái độ bài Anh thường lệ của mình; vào tháng đó, ông viết cho Bộ Nội vụ để phàn nàn rằng trong chuyến thăm Louvre kéo dài ba tiếng của mình, ông đã thấy một tấm thảm Gobelins thể hiện cảnh người Anh vây hãm Calais năm 1346. “Những chủ đề như thế không được phép hiện diện trước cái nhìn của công chúng ở Paris”. Ngày 28 tháng Mười hai, ông viết cho Talleyrand từ Saint-Cloud, “Chúng ta không có vẻ đang trong hòa bình, mà chỉ trong ngừng bắn… trách nhiệm nằm hoàn toàn ở phía Chính phủ Anh”. Những vấn đề mà nền hòa bình của Amiens phải đối mặt – những cuộc viễn chinh của Sébastiani và Decaen, việc Cadoudal tiếp tục lưu trú tại London, báo chí của cộng đồng lưu vong, đền bù cho Vua của Sardinia và Vương hầu Willem V của Orange, nền độc lập của Thụy Sĩ, việc không triệt thoái khỏi Hà Lan, Alexandria, Pondicherry, Mũi Hảo vọng, và đặc biệt là Malta, cùng chế độ thuế quan của Pháp – tất cả đều có thể được giải quyết nếu có niềm tin và thiện chí, song đã chẳng có ở bất cứ bên nào. Với nhận xét chí lý đặc trưng của mình – ít nhất khi ông còn tỉnh táo – George III đã mô tả nền hòa bình này là “thử nghiệm”, và đó là tất cả những gì Chính phủ Anh từng nhìn nhận về nó, và với Anh tình hình sớm trở nên rõ ràng là thử nghiệm đã thất bại.
Ngày 30 tháng Một năm 1803, trong báo cáo của Sébastiani về chuyến đi tới Cận Đông của mình, có cho là Ai Cập có thể được lấy lại bằng một cuộc viễn chinh với không đến 10.000 quân được đăng suốt tám trang của tờ Moniteur . Đó là một sự khiêu khích có chủ ý, và nỗi sợ hãi của Anh về việc Pháp-Nga chia nhau Đế quốc Ottoman đương nhiên lại bùng lên. “Vì không ai hình dung được Bonaparte lại làm gì mà không có động cơ”, thành viên Hội đồng Nhà nước Pelet ghi lại, “nên sự suy luận là hiển nhiên”. Napoleon từ chối thảo luận bản báo cáo này với đại sứ Withworth, hay kể cả đưa ra một tuyên bố làm rõ. Song chỉ nguyên việc bản báo cáo được công bố đã cho thấy nó được dùng như một công cụ ngoại giao hơn là một kế hoạch hành động nghiêm túc: nếu Napoleon thực sự đã cân nhắc tới việc trở lại Ai Cập, khó lòng có chuyện ông công bố ồn ào việc này trên Moniteur . Ông không muốn trở lại chiến tranh vào năm 1803, nhưng ông cũng không sẵn sàng hạ thấp vị trí của Pháp để tránh nó. “Mỗi ngày trôi qua sẽ làm yếu dần ấn tượng sâu sắc về thất bại gần nhất của họ và làm mờ đi uy thế chúng ta giành được nhờ những chiến thắng của mình”, ông nói với một thành viên Hội đồng Nhà nước vào thời gian này. Mọi lợi thế từ trì hoãn đều nằm ở phía họ.”
Ngày 9 tháng Hai, người Anh thông báo đình chỉ mọi cuộc rút lui tiếp theo cho tới khi Pháp cung cấp một “lời giải thích thỏa đáng về những động thái gần đây của nước này ở Etruria, Thụy Sĩ, và Cận Đông. Chín ngày sau, Napoleon phàn nàn với Whitworth về cả Malta và Alexandria, và về sự thiếu chuyển biến trong việc dập tắt cuộc công kích trên báo chí nhằm vào ông. “Chúng ta hãy đoàn kết thay vì xung đột với nhau vì việc này”, ông kết luận, bao hàm cả những vấn đề đang đe dọa hòa bình, “và chúng ta sẽ cùng nhau quyết định tương lai của thế giới”. Whitworth coi đây chỉ là những lời diễn kịch, song như đề xuất sau này của Napoleon giống như tinh thần được đưa ra với Sa hoàng Alexander tại Tilsit cho thấy, rất có thể ông đã hoàn toàn nghiêm túc. Tuy nhiên, Whitworth thậm chí còn chẳng cho rằng đó là đề xuất đáng để quan tâm, nên đã trả lời bằng cách nêu ra các câu hỏi về Parma, Piedmont, và Thụy Sĩ, nhưng đều bị Napoleon bác bỏ như những “chuyện vặt”. Sau khi chiến tranh tái diễn, tại Anh Napoleon bị chỉ trích vì đã tỏ thái độ ngạo mạn về những quốc gia nhỏ này, song khi nhìn nhận trong bối cảnh ông muốn nói tới – của một quan hệ đối tác trong đó tương lai của thế giới sẽ được quyết định giữa Anh kiểm soát một đế quốc hải ngoại rộng lớn và Pháp kiểm soát châu Âu – lời nhận xét đó hoàn toàn có lý. Mặt khác, có lẽ ông đã sử dụng thứ ngôn ngữ thô ráp vào dịp đó (chắc là cố ý làm vậy), vì Whithworth báo cáo với Addington: “Tôi đã nghĩ là mình đang lắng nghe một viên đại úy long kỵ chứ không phải người đứng đầu quốc gia vĩ đại nhất ở châu Âu.”
Ngày 20 tháng Hai, Napoleon nói với các nhà lập pháp Paris rằng do “sự thoái vị của nhà vua và mong ước của dân chúng, tình thế cấp thiết đã đặt Piedmont vào vòng ảnh hưởng của Pháp”. Tương tự, ông nói, chủ quyền của Thụy Sĩ đã bị vi phạm để “mở ra một hướng tiếp cận dễ dàng với ba tuyến đường tới ltaly”. Đáng lo ngại hơn khi ông nhắc tới việc quân Anh vẫn còn chiếm đóng Malta và Alexandria, và nói rằng nửa triệu quân Pháp đã “sẵn sàng để bảo vệ đất nước và báo thù”. Hôm sau, người Anh trao lại Cape Town cho Công ty Đông Ấn Hà Lan, song không lời nịnh hót hay đe dọa nào có thể thuyết phục được họ tuân thủ cam kết của mình về Malta và Alexandria.
•••
Ngày 25 tháng Hai, Nghị viện của Đế chế La Mã Thần thánh thông qua Tuyên bố Cuối cùng về ủy nhiệm của Đế chế, đưa các điều khoản của Hòa ước Lunéville trở thành có hiệu lực tại Đức. Để đền bù cho các quốc gia và vương hầu Đức trước những vùng lãnh thổ Pháp giành được ở bờ tây sông Rhine, điều cần thiết là Áo và các quốc gia Đức rộng lớn khác cần phải “gộp lại”, hay tái tổ chức hơn 200 quốc gia ở Đức thành 40, chủ yếu bằng cách thế tục hóa các lãnh địa của tăng lữ và sáp nhập các thành phố “tự do” hay “thuộc đế chế” vào các nhà nước láng giềng lớn hơn của chúng. Đây là cuộc chuyển đổi lớn nhất về nhà nước và tài sản ở Đức trước năm 1945, với gần 2,4 triệu người dân cùng 12,7 triệu guiden thu nhập hằng năm chuyển sang tay những nhà lãnh đạo mới. Việc này là kết quả từ nhiều tháng mặc cả giữa Talleyrand và những nhà lãnh đạo sẽ hưởng lợi từ việc tiếp quản trọn vẹn các thực thể nhỏ hơn cho tới lúc đó vẫn tự trị. Những quốc gia sống sót có xu hướng nhận được nhiều lãnh thổ về phía đông sông Rhine nhiều hơn so với phần họ phải nhường lại cho Pháp ở phía tây con sông này. Chẳng hạn so với diện tích mất, Baden nhận được nhiều gấp bảy lần, Phổ nhận được nhiều gấp gần năm lần, còn Hanover giành được giáo xứ Osnabrück cho dù không mất chút lãnh thổ nào cho Pháp, và Áo cũng hưởng lợi lớn. Württemberg mất 30.000 dân song lại được 120.000, và từ năm 1803 đến 1810 nó đã mở rộng gấp đôi lãnh thổ bằng việc sáp nhập 78 thực thể chính trị khác và lãnh thổ của các hiệp sĩ đế chế Swabia. Phổ mất 140.000 dân song lại được 600.000. Bản đồ Đức được giản lược đi rất nhiều, để đổi lại sự tiêu vong sau nhiều thế kỷ của hàng trăm quốc gia tí hon, chẳng hạn như vùng đất được phong cha truyền con nối Winneburg-Bilstein thuộc về cha của Vương hầu Klemens von Metternich.
Luôn nhớ tới người anh hùng của mình là Frederick Đại đế của Phổ đã từng xây dựng Liên minh các ông hoàng để làm đối trọng với Áo, Napoleon giờ đây tìm cách giới thiệu Pháp trước những quốc gia Đức mới được mở rộng này như một đối trọng với sức mạnh của cả hai nhà Hohenzollern và Habsburg, ông thúc đẩy các mối liên minh qua hôn nhân với Bavaria, Baden, và Württemberg để gia cố cho những liên minh chiến lược mà mình đã thỏa thuận với ba quốc gia này khi những sự thù địch mới ở châu Âu bùng nổ vào năm 1805. Tới tháng Bảy năm 1804, ông đã nhắm Công chúa Augusta 16 tuổi của Bavaria làm hôn thê cho Eugène; vào tháng Tư năm 1806, Stéphanie de Beauharnais, một người em họ bên nhà người chồng đầu của Josephine đã cưới Hoàng tử Karl của Baden; và tới tháng Tám năm 1807, Jérôme 22 tuổi cưới Công chúa Catharina của Württemberg.
•••
Ngày 8 tháng Ba năm 1803, George III đọc Diễn văn của Vua yêu cầu nghị viện chuẩn bị hậu cần cho chiến tranh và động viên lực lượng dân binh Anh, buộc tội Pháp đang thực hiện những hoạt động chuẩn bị quân sự quy mô lớn tại các cảng của Pháp và Hà Lan, cho dù một công điện từ Whitworth sau đó đã làm rõ rằng Pháp không thực hiện hoạt động nào như thế. Giống như việc công bố bản báo cáo của Sébastiani, diễn văn này là một lời đe dọa hơn là một lời tuyên chiến. “Anh không hề ngủ”, Napoleon viết cho Charles IV của Tây Ban Nha ngày 11, “nó luôn theo dõi, và sẽ không ngơi nghỉ cho tới khi đã chiếm hết các thuộc địa và toàn bộ nền thương mại của thế giới. Chỉ Pháp mới có thể ngăn cản được điều này”. Ông viết như vậy, bất chấp thực tế là Anh đã trao trả lại Martinique, Tobago, St Lucia, và Minorca theo các điều khoản của Amiens.
Trông thấy Whitworth tại buổi tiếp khách sáng của mình ở Tuileries vào Chủ nhật 13 tháng Ba, theo lời kể của vị đại sứ, Napoleon “đến gần tôi, rõ ràng trong tâm trạng rất bồn chồn. Ông ấy bắt đầu bằng việc hỏi tôi liệu tôi có tin gì từ Anh không”, trước câu hỏi này Whitworth đáp ông ta đã nhận được thư từ Hawkesbury hai ngày trước.
Napoleon: “Vậy là các ông quyết định lựa chọn chiến tranh.”
Whitworth: “Không, thưa Tổng tài Thứ nhất, chúng tôi quá nhạy cảm với những lợi thế của hòa bình.”
Napoleon: “Chúng tôi đã vướng vào chiến tranh 15 năm.”
Whitworth: (sau một lát im lặng) “Như thế quả là quá dài.”
Napoleon: “Nhưng các ông mong muốn tôi phải chiến đấu thêm 15 năm nữa, và các ông ép tôi phải làm thế.”
Whitworth: “Điều đó quả thực còn xa mới là mong muốn của Đức vua chúng tôi.”
⚝ ✽ ⚝
Napoleon sau đó tới nói chuyện với các đại sứ Nga và Tây Ban Nha là Bá tước Markov và Hiệp sĩ d’Azara. “Người Anh muốn chiến tranh”, Napoleon nói, “nhưng nếu họ là người đầu tiên rút kiếm ra, tôi sẽ là người cuối cùng tra kiếm vào vỏ. Họ không tôn trọng các hiệp ước. Từ giờ trở đi, chúng cần phải bị phủ nhiễu đen lên”.(*) Whitworth thuật lại rằng sau đó Napoleon quay sang ông ta, “khiến tôi hết sức khó chịu, và nối lại cuộc hội thoại, nếu có thể gọi nó như thế, bằng cách nói gì đó có tính xã giao cá nhân với tôi”. Sau đó, ông quay về