Chương 15 ĐĂNG QUANG
Chúng ta cần cho đám Bourbon thấy những cú đánh họ nhằm vào người khác sẽ giáng lại xuống đầu họ.
• Napoleon nói về Công tước d’Enghien
Chúng ta ở đây để dẫn dắt quan điểm của công chúng, không phải để bàn luận về nó.
• Napoleon nói với Hội đồng Nhà nước, năm 1804
⚝ ✽ ⚝
Sau khi tuyên chiến ngày 18 tháng Năm, các biến cố xảy ra nhanh chóng. Pháp tấn công thái ấp Hanover của tổ tiên Vua George III vào cuối tháng, và Napoleon lệnh cho Tướng Édouard Mortier, người có mẹ là người Anh và đã được giáo dục tại trường Anh ở Douai, chặt hạ cây trong các khu rừng ở vùng này để đóng những chiếc thuyền đáy bằng cần dùng cho cuộc tấn công Anh. Hải quân Hoàng gia Anh phong tỏa các cửa sông Elbe và Weser tại Đức để trả đũa; Nelson phong tỏa Toulon vào tháng Bảy; và tới tháng Chín Anh đã chiếm lại St Lucia, Tobago, Berbice, Demerara, và Essequibo. Trong lúc đó, Napoleon phái chiến binh xuất chúng (và là một nghệ sĩ bất thành), Tướng Laurent de Gouvion Saint-Cyr, người bị thuộc cấp đặt cho biệt danh “Con Cú’’ vì tính khí xa cách của mình, tái chiếm Taranto, Brindisi, và Otranto tại Italy, vi phạm hiệp ước Pháp-Naples ký kết năm 1801, bất chấp sự phản đối gay gắt từ phía Nga.
Vào tháng Sáu, Napoleon ra lệnh xây dựng năm doanh trại tấn công lớn tại Brest, Boulogne, Montreuil, Bruges, và Utrecht. Doanh trại ở Bruges sau đó được chuyển tới Ambleteuse, gần Boulogne, và chẳng mấy chốc doanh trại chính tại đó chạy dài suốt gần 15 km bờ biển, có cả những khu vườn. “Tôi sống giữa trại và ở bên bờ đại dương”, Napoleon viết cho Cambacérès từ bản doanh của ông ở Pont-de-Briques ngày 5 tháng Mười một, “nơi chỉ liếc một cái đã có thể dễ dàng đo được khoảng cách ngăn chúng ta với Anh.”
Những doanh trại hỗ trợ cho kỵ binh và lực lượng dự bị được thiết lập tại Saint-Omer, Copiègne, Arras, Étaples, Vimereaux, Paris, và Amiens. Đạo quân Anh lấy người từ Đạo quân Tây ở Vendée và được đổi tên thành Đạo quân Bờ biển. Tới tháng Một năm 1804, quân số của nó là 70.000 người, và tới tháng Ba là 120.000. Napoleon sau này tuyên bố ông luôn chỉ có ý dọa Anh, ru ngủ Áo và huấn luyện quân đội của mình, không có ý định thực sự tấn công. Điều này thật vớ vẩn. Bộ sách năm tập của Đại úy Édouard Desbrière, Projets et tentativesde débarquement aux îles Britanniques (Những dự định và toan tính đổ bộ lên quần đảo Anh) (xuất bản vào khoảng 1900-1902), đã tóm tắt lại những kế hoạch tấn công của Napoleon và vạch ra trong không ít hơn 2.636 trang sách vị trí mỗi bán lữ đoàn dự định sẽ đổ bộ, và bất chấp những chỗ in sai như “Frey-Harock” thay vì Grays-Thurrock và “Green-hill” thay vì Greenhithe, nó vẫn cho thấy rõ rằng Napoleon không hề đùa. Ông đã cho công bố những cuốn sách và bài viết về những cuộc tấn công Anh đã thành công từ thời Julius Caesar trở về sau, bắt đầu nhắc tới Anh như Carthage, cho trưng bày tấm thảm Bayeux(*) tại Louvre và chỉ thị cho Denon đúc huy chương “Tập kích Anh” – thể hiện trên đó một Napoleon gần như khỏa thân vật ngã thành công một người cá – và có viết trên mặt sau: “Đúc tại London năm 1804.”
Lượng công việc khổng lồ được thực hiện trên các kênh đào cho phép ông duy trì giao thông nội bộ giữa Nantes, Hà Lan, Antwerp, Cherbourg, Brest, và Rochefort, cũng như việc mở rộng các vũng neo tàu ở Flushing cho phép toàn bộ hải quân Hà Lan ra khơi trong vòng 24 tiếng sau khi có lệnh, tất cả đều cho thấy sự nghiêm túc chết người trong những dự định của ông. Cũng tương tự là hàng núi thư từ trao đổi chi tiết với các đô đốc và tướng lĩnh của ông. Vào năm 1803 và 1804, Napoleon viết cho Berthier 553 lần, và cho Đô đốc Decrès 236 lần. Khi Tướng Nicolas Jean-de-Dieu Soult, người chỉ huy tại Saint-Omer (77 lá thư) báo cáo rằng không thể cho toàn bộ lực lượng lên tàu ra khơi trong vòng 24 tiếng, Napoleon phê phán, “Không thể ư, thưa ngài! Tôi không quen với từ này; nó không có trong ngôn ngữ Pháp, hãy xóa nó khỏi từ điển của ngài.”
Ngày 23 tháng Mười hai năm 1803, Berthier lập một danh sách các lực lượng cấu thành cái mà ông ta và Napoleon gọi riêng trong thư từ giữa hai người là Đạo quân viễn chinh tới Anh . Lực lượng này bao gồm 79.000 bộ binh, 17.600 kỵ binh với 15.000 con ngựa, 4.700 pháo thủ, 4.600 người đánh xe và 7.800 nhân sự dân sự, một số lượng không rõ thuyền nhẹ (mỗi chiếc sẽ dùng để chở 20 người, 2.000 viên đạn, 200 bánh quy, 10 chai rượu mạnh và một đùi cừu), cùng một số lượng lớn thuyền đánh cá bán vũ trang. Thành viên Hội đồng Nhà nước Pelet đưa ra quy mô của hải đội gồm 250 tàu tuần tra với 3 khẩu pháo trên mỗi chiếc, 650 pháo hạm và xuồng chèo tay mỗi chiếc có 1 khẩu pháo, nhiều tàu đáy bằng 6 pháo, và 750 tàu vận tải pháo binh. Ở thời điểm cao nhất, hải đội gồm hơn 1.831 tàu thuyền đủ loại và 167.000 người.
Nhiều thuyền đáy bằng có mớn nước tối đa là 1,8 m khi chở đầy, nghĩa là chúng có thể được cho lao lên một bãi biển, song cho dù phần lớn đã sẵn sàng vào mùa xuân năm 1804, nhưng chúng thường có xu hướng bị tràn nước và chạy bằng buồm rất kém, trừ khi gió thổi thẳng góc từ đằng sau, mà gió đông nam lại rất hiếm ở eo biển Anh. Những chiếc xuồng cũng cần được chèo tay nếu chúng không hoàn toàn đi thẳng, việc này sẽ là quá mệt nhọc với binh lính trên 35 km đường biển. Cho dù cuộc tấn công được dự kiến vào ban đêm, nhưng tám tiếng trọn vẹn trong bóng tối chỉ có vào mùa thu và mùa đông, khi thời tiết quá xấu và sẽ là mạo hiểm nếu vượt qua đây với thuyền đáy bằng. Eo biển Anh có bề ngang hẹp và nổi tiếng về thời tiết không thể đoán trước; có những lý do hợp lý về mặt hậu cần giải thích cho việc vì sao Anh đã không bị tấn công thành công kể từ thế kỷ 15 (nước này đã từng bị tấn công trên đất liền từ Wales). Tới đầu thế kỷ 19, nó sở hữu lực lượng hải quân lớn nhất, được huấn luyện và chỉ huy tốt nhất trên thế giới.
Napoleon không hề nao núng. Ngày 30 tháng Bảy năm 1804, ông nói với Tướng Brune, chúng ta “chỉ chờ cơn gió thuận để cắm con đại bàng đế chế lên Tháp London. Chỉ thời gian và định mệnh mới biết điều gì sẽ diễn ra”. Trong những chuyến thanh tra các doanh trại của mình, có thể kéo dài tới 23 ngày, ông kiểm tra mọi thứ từ công trình phòng thủ cho tới hệ thống vệ sinh, nhưng đặc biệt thích trò chuyện với binh lính. “Ông có thể thoải mái hòa mình cùng họ”, một sĩ quan phụ tá nhớ lại, “đi vào mọi chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống của họ và ban phát một cách có phân biệt những lời khen ngợi, ân huệ, và bất cứ sự thăng tiến xứng đáng nào, qua đó thúc đẩy sự nhiệt tình cao độ của họ”. Ngày 22 tháng Bảy, ông viết cho Bộ Hải quân để phàn nàn, rằng do các khoản chi phí không được trả nên công nhân ở các cảng tại eo biển đã phải bán những chiếc cúc bạc nơi cổ tay áo của mình. “Họ dứt khoát không thể là những người phải chịu khổ sở”, ông nhấn mạnh, “cho dù tình hình thế nào đi chăng nữa, công nhân phải được trả lương”. Họ cũng phải được uống. Viết về vấn đề nhà cửa cần trưng dụng ở vùng Boulogne làm nơi trú quân và tập kết quân nhu cho lực lượng tấn công, ông nói với Decrès, “Phải đảm bảo là có hầm cho rượu vang”. Sau đó, ông nói thêm rằng cuộc tấn công Anh sẽ đòi hỏi tới 171.000 lít rượu mạnh.
•••
Napoleon bắt đầu thương lượng với các thủ lĩnh của Những người Ireland Đoàn kết tại Paris vào tháng Tám, với hy vọng rằng 20.000 quân nổi dậy người Ireland sẽ hỗ trợ quân đội Pháp nếu ông đổ bộ lên Ireland. Ông muốn họ gia nhập đội ngũ 117 người dẫn đường-phiên dịch mà ông sẽ cần tới ở Anh. Ông thiết kế một bộ quân phục cho họ từ “áo khoác lính long kỵ màu xanh lục có đường kẻ đỏ, cổ tay áo màu huyết dụ, cúc áo trắng”, cho tới màu cựa thúc ngựa của họ, và quyết định rằng họ sẽ có hai người đánh trống. Chứng cuồng quản lý vi mô này mở rộng tới cả việc ra lệnh đặt một bức tượng bán thân bằng cẩm thạch của người hùng hải quân thế kỷ 17 Jean Bart ở Tòa Thị chính thành phố Dunkirk nơi ông ta ra đời để cổ vũ niềm tự hào về các chiến công hàng hải của Pháp.
Như mọi lúc, Napoleon cần có nhiều chiến tranh và chính trị hơn cho nguồn dinh dưỡng tinh thần của mình. Ngày 1 tháng Mười, ông cảm ơn nhà vật lý người Mỹ, Ngài Benjamin Thomson khi đó đang sống ở Paris vì bài luận của ông này về bảo toàn nhiệt, và bình luận:
⚝ ✽ ⚝
Chỉ mỗi câu cuối cùng đó cũng đủ khẳng định Napoleon là một sản phẩm của Khai sáng.
Đời sống tình ái của ông cũng rất tích cực vào thời gian này. Có vẻ như Napoleon có một nhân tình ở vùng Boulogne, vì ông viết thư cho một “Bà F” nào đó khi lưu lại ở đấy vào đầu tháng Mười một, hứa rằng vào lần tiếp theo họ gặp nhau, “tôi sẽ lại là người gác cổng nếu bà thích; song lần này chắc chắn tôi sẽ không để việc chăm sóc bà trong chuyến đi tới đảo Kythira rơi vào tay người khác”. Kythira là ngôi nhà của Nữ thần Tình yêu Aphrodite, và không ai trong những người nhận thư khác của ông vào thời gian này được gọi chỉ bằng một chữ cái đầu của tên. Ông cũng ngủ với nhân tình của Chaptal, Marie-Thérèse Bourgoin, một nữ diễn viên ở Comédie-Française, trước sự phiền muộn khôn cùng của Chaptal.
Josephine có biết không? Tháng Mười một năm 1804, ông trả lời cho cái ông gọi là một lá thư “buồn” từ bà: “Josephine tốt bụng, dịu dàng không thể bị xóa bỏ khỏi trái tim anh trừ phi bởi chính Josephine, khi em trở nên chán nản, bực dọc, rắc rối. Cuộc đời anh được tạo thành từ nhiều phiền muộn; chỉ một căn nhà ngọt ngào dễ chịu, không có chút căng thẳng nào, mới có thể giúp anh chịu đựng được chúng”. Tuy nhiên, vào tháng Một ông lại viết “cả ngàn điều tốt đẹp cho em họ bé nhỏ”, đồng thời kể với bà rằng Eugène đang “tán tỉnh tất cả phụ nữ ở Boulogne và chẳng vì thế mà khá lên.”
•••
Tất cả các đô đốc hàng đầu của Pháp – Ganteaume, Eustache Bruix, Laurent Truguet, Pierre de Villeneuve, cũng như Decrès – đều ra sức chống lại cuộc tấn công Anh như họ có thể một cách hợp lý, bởi nước này luôn được án ngữ bởi hai hải đội eo biển gồm hơn 30 chiến hạm Anh theo đội hình hàng ngang trong tình trạng thường trực. Sĩ quan có năng lực nhất để chỉ huy cuộc tấn công tổng lực là Louis Latouche Tréville lại bị ốm kể từ khi từ Saint-Domingue trở về, và qua đời vào tháng Tám năm 1804; người thay thế ông ta là Bruix thì chết vì bệnh lao vào tháng Ba năm 1805. Napoleon và các cố vấn cao cấp của mình thừa nhận không thể đưa một lượng lớn quân qua eo biển trong một đợt duy nhất, và một cuộc vượt biển bất ngờ trong sương mù cũng bị coi là quá nguy hiểm. Louis XIV đã chuẩn bị cho một cuộc tấn công Anh vào năm 1692, Louis XVI cũng từng chuẩn bị các kế hoạch vào năm 1779, và bản thân Napoleon đã cân nhắc tới các khả năng vào giai đoạn 1797-1798. Chiến lược tốt nhất có thể đưa ra trong bất kỳ trường hợp nào ở đây là tìm cách lừa Hải quân Hoàng gia Anh rời khỏi bờ biển phía nam Anh đủ lâu để vượt eo biển. Song ý tưởng về chuyện Bộ Hải quân ở London có thể bị dắt mũi đến mức để eo biển không được phòng thủ chu đáo dù chỉ trong khoảng thời gian của một cơn thủy triều là luôn quá hão huyền.
Napoleon viết thư cho Ganteaume vào ngày 23 tháng Mười một năm 1803 về một hạm đội gồm 300 thuyền thân dài có trang bị pháo. 500 pháo hạm và 500 thuyền đáy bằng mà ông hy vọng sẽ sớm sẵn sàng. “Ông có nghĩ nó sẽ đưa chúng ta tới bờ biển Albion? Nó có thể chở được 100.000 người. Tám tiếng ban đêm thuận lợi cho chúng ta sẽ quyết định số phận của thế giới”. Hôm sau, ông yêu cầu Chaptal cho viết một số bài hát “dành cho cuộc tấn công Anh”, có một bài dựa trên giai điệu của “Le Chant du Départ” (Bài ca lên đường). Đến giữa tháng Mười hai, ông chỉ thị rằng các thiếu tướng có thể mang bốn người hầu tới Anh, nhưng các đại tá phải hài lòng với hai người.(*) “Mọi thứ ở đây trông thật đẹp và nhẹ nhõm”, ông viết cho Joseph. “Em thực sự thích vùng Normandy đẹp đẽ, êm đềm này. Đó là Pháp thực sự”. Một năm sau, ngày 12 tháng Mười một năm 1804, ông viết cho Augereau từ Boulogne, “Tôi đã ở đây từ 10 ngày nay, và tôi có lý do để hy vọng rằng mình sẽ đạt tới mục tiêu mà châu Âu đang chờ đợi. Chúng ta có sáu thế kỷ sỉ nhục cần báo thù”. Bốn ngày sau, ông nói với Cambacérès rằng ông có thể thấy rõ “những ngôi nhà và động tĩnh” ở phía bờ biển Anh từ các vách đá tại Ambleteuse, sau đó ông mô tả eo biển như “một cái rãnh sẽ bị vượt qua nếu chúng ta có can đảm thử.”
Ngày 24 tháng Một năm 1804, Napoleon ra lệnh cho điệp viên hai mang Mehée de laTouche để lộ với Francis Drake phái viên Anh tại Munich, thông tin rằng “các hoạt động chuẩn bị tại Boulogne là những màn nghi binh giả tạo, dù tốn kém nhưng lại ít quan trọng hơn những gì thoạt trông ban đầu; những chiếc tàu đổ bộ đó được đóng như vậy để chúng có thể chuyển đổi thành tàu chở hàng thương mại, v.v. và v.v.; rằng Tổng tài Thứ nhất là quá quỷ quyệt và cho rằng địa vị của mình hiện tại được thiết lập quá vững chắc, nên sẽ không mạo hiểm với một hành động đầy bất trắc ở nơi mà một lượng lớn binh sĩ sẽ bị lôi kéo vào”. Cùng tháng đó, Napoleon thậm chí còn tìm cách lôi kéo Giáo hoàng ủng hộ chiến dịch, khi viết thư cho ông ta về việc “không thể chấp nhận…sự áp bức” đối với những người Thiên Chúa giáo Ireland. Không có câu trả lời nào từ Rome.
Napoleon công khai và thường xuyên nói về các kế hoạch tấn công Anh của mình khi bị lưu đày trên đảo Elba một thập kỷ sau đó, rằng tất cả những gì ông đã cần là ưu thế về số lượng tại eo biển trong ba hay bốn ngày để bảo vệ hạm đội chở quân. “Vì tôi cần hành quân ngay tới London, nên tôi sẽ ưu tiên đổ bộ lên bờ biển Kent”, sau này ông hồi tưởng về chính mình, “nhưng điều này phải phụ thuộc vào gió và thời tiết”. Ông tuyên bố sẽ phụ thuộc vào các đô đốc và hoa tiêu về việc lựa chọn vị trí đổ bộ cho 100.000 quân với pháo binh và kỵ binh nhanh chóng theo sau. Ông tin mình đã có thể “tới London trong ba ngày”, đúng thời điểm Nelson có thể đang trên đường quay về từ Tây Ấn sau khi săn đuổi một hạm đội Pháp khác, nên sẽ quá muộn để cứu đất nước của ông ta.
Dẫu vậy, kể cả nếu Napoleon có thành công trong việc đổ bộ lên bờ biển Anh đi nữa, thì sự trở về của Nelson sẽ cắt đứt nguồn tiếp tế và tăng viện cho ông, và 100.000 quân không phải là một lực lượng đủ lớn để chinh phạt 17 triệu người Anh đang đón sẵn, trong đó nhiều người được vũ trang (dù phải thừa nhận là tạm bợ). Anh đã tiến hành những hoạt động chuẩn bị quy mô để đối phó với một cuộc tấn công kể từ năm 1803 trở đi: các thành phố miền Nam đều có lính đồn trú, các trận địa hỏa lực được xây dựng; dự trữ hậu cần được tập trung tại các kho chứa đặt ở những nơi như Fulham, Brentford, Staines, và tất cả những nơi có thể đổ bộ từ Cornwall tới Scotland đều được liệt kê. 73 tòa tháp phòng thủ “Martello” loại nhỏ được xây dựng dọc theo bờ biển miền Nam từ năm 1805 đến 1808, những tuyến hào phòng thủ được đào quanh phía nam London, và đến cuối năm 1804 đã có khoảng 600.000 nam giới (chiếm khoảng 11 đến 14% số nam giới trưởng thành) được gọi quân dịch vào quân đội Anh và Hải quân Hoàng gia Anh, thêm 85.000 người nữa vào lực lượng dân binh.
•••
Vào những giờ đầu tiên của ngày 23 tháng Tám năm 1803, một sĩ quan tình báo của Hải quân Hoàng gia Anh, Đại úy John Wesley Wright, bí mật đưa George Cadoudal, một bác sĩ Querelle và một nhóm nhỏ thành viên Chouan khác lên bờ tại Biville ở Normandy.(*) Wright đã chiến đấu cùng người Chouan trong những năm 1790, bị tống giam rồi sau đó thoát khỏi nhà tù Temple; ông ta đã do thám người Pháp trong chiến dịch Syria, cải trang thành một người Ả rập, và thực hiện một số hoạt động ngầm tương tự.
Fouché và Napoleon – người nhất quyết muốn đọc tận mắt tất cả các báo cáo tình báo nguyên bản để không bị phụ thuộc vào người khác trong việc luận giải chúng – phát hiện ra sự xuất hiện của Querelle và một đồng mưu có tên là Troche. “Hoặc tôi rất lầm”, Napoleon nói về Querelle, “hoặc gã này biết điều gì đó”. Khi một nhân vật âm mưu tên là Danouville bị bắt ở một trong các địa điểm đổ bộ của Wright và đã treo cổ tự vẫn trong phòng giam, một hành động mà như một trong các sĩ quan phụ tá của Napoleon, Philippe de Ségur, đã bình luận, “xác nhận mức độ nghiêm trọng của âm mưu trong khi không làm rõ được điều gì về nó.”
Tiếp đó, Wright đưa lên bờ Tướng Charles Pichegru, cựu giảng viên tại Brienne, vị anh hùng trong Chiến tranh Cách mạng Pháp, một người Jacobin trở cờ thành bảo hoàng, cùng bảy người đồng mưu khác tại Biville vào ngày 16 tháng Một năm 1804, và trở về Lâu đài Walmer ở Kent, nơi đóng bản doanh của tình báo hải quân Anh. Wright hành động theo lệnh của Đô đốc-Huân tước Keith, Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, người nằm dưới quyền của Đô đốc-Bá tước St Vincent, Bộ trưởng Hải quân. Những mệnh lệnh St Vincent nhận được từ Huân tước Hawkesbury nói rõ rằng điều “tối quan trọng là Đại úy Wright cần can dự ở mức độ trọn vẹn nhất”. Những tài liệu khác, bao gồm một văn bản từ Keith nói rõ rằng Wright “được sử dụng vào một nhiệm vụ bí mật và tế nhị”, cho thấy mối liên hệ mật thiết của Chính phủ Anh vào âm mưu của Cadoudal, ở cấp độ cao nhất từ cả hai phía. Những bằng chứng khác về sự can dự trực tiếp của Chính phủ Anh vào âm mưu ám sát Napoleon năm 1804 nằm ở một số lá thư, lá thư đầu tiên được viết ngày 22 tháng Sáu năm 1803, từ một ông Walter Spencer nào đó gửi Huân tước Castlereagh, một thành viên cao cấp trong nội các Anh, yêu cầu hoàn trả 150 bảng cho mình và 1.000 bảng cho Michelle de Bonneuil, một phần tử bảo hoàng âm mưu có vài tên gọi khác nhau, người được biết đã gặp em trai của Louis XVIII là Bá tước d’Artois (Vua Charles X tương lai) tại Edinburgh trong thời gian hòa đàm Amiens. Spencer nói số tiền này đã được ứng trước cho “một âm mưu chính trị do Huân tước Castlereagh lên kế hoạch nhằm bắt cóc Bonaparte năm 1803”, được ông Liston phái viên Anh tại Hague điều phối. (Những âm mưu “bắt cóc” Napoleon vào thời kỳ này là tấm bình phong dễ hiểu cho việc ám sát ông.) Cho dù không có gì cho phép buộc tội trực tiếp trong quá trình trao đổi từ phía Chính phủ – như có thể lường trước – George Holford, một nghị sĩ và là bạn thân nhất của Castlereagh trong chính trị, viết cho Spencer nói rằng nếu ông này “chịu khó tới phố Downing, quý ngài sẽ gặp ông ấy về chuyện này”. Trường hợp này thật khó xảy ra khi Spencer chỉ là một kẻ lập dị.
Ngày 28 tháng Một, Pichegru gặp Tướng Moreau, người có vẻ có thái độ lập lờ trước vụ âm mưu, và quan trọng là đã không cảnh báo nhà chức trách, do đó biến mình thành đồng lõa. Moreau đang chờ xem điều gì đang diễn ra; người dân rất có thể sẽ quay sang ông ta, với tư cách người chiến thắng tại Hohenlinden trong trường hợp Napoleon bị “bắt cóc”. Rồi ông ta từng nói với Tướng Thiébault rằng mình tin Napoleon “là người lính tham vọng nhất trên đời”, và sự cầm quyền của Napoleon đồng nghĩa với sự kết thúc cho mọi nỗ lực, mọi hy vọng, mọi vinh quang của chúng ta.”
Vụ bắt giữ một gián điệp Anh có tên Courson vào ngày 29 tháng Một giúp Fouché mường tượng được những nét căn bản của âm mưu. Một sĩ quan tình báo Pháp dưới cái tên Đại úy Rosey cũng đã thuyết phục được Spencer Smith, phái viên Anh tại Stuttgart và là em trai của Ngài Sidney Smith, rằng anh ta, Rosey, sĩ quan phụ tá của một tướng Pháp bất đồng chính kiến, có mánh khóe để moi thông tin một khi Smith đã tin tưởng anh ta. Fouché báo cáo với Napoleon, nhờ mạng lưới gián điệp của ông ta ở London, rằng Pichegru đã ăn tối với một bộ trưởng Anh tại Kensington ba ngày trước khi lên đường về Pháp, và rằng những kẻ âm mưu đã liên hệ với Moreau. Napoleon thực sự ngạc nhiên. “Moreau ư!” ông thốt lên. “Cái gì! Moreau trong một âm mưu như thế!” Ông ra lệnh bắt giữ viên tướng ngay khi biết chắc Pichegru quả thực đang ở Pháp. “Không gì có thể sánh ngang với sự ngu ngốc tận cùng của toàn bộ âm mưu này”, Napoleon viết cho người bạn của Moreau vốn là cựu Tham mưu trưởng, Tướng Jean-Joseph Dessolle, người đang giữ chức chỉ huy ở Hanover, “ngoại trừ sự xấu xa của chính nó. Trái tim con người là một vực thẳm không thể tiên đoán; cái nhìn sắc bén nhất cũng không thể thấu hết nó.”
Sau đó, lính gác được nhanh chóng tăng cường tại các cửa ngỏ Paris và được lệnh tìm kiếm Cadoudal, một người cao lớn, vạm vỡ; Tuileries và Malmaison được đặt trong tình trạng báo động cao và thay đổi mật khẩu; bác sĩ Querelle bị bắt và đưa về nhà tù Abbaye ở thủ đô. Bị đe dọa đưa lên máy chém, ông ta đã khai ra nơi ẩn náu của Cadoudal là nhà trọ Cloche d’Or. Trong khi đó Savary, người chỉ huy một đơn vị cảnh sát mật độc lập với Fouché bởi Napoleon không thích trao quá nhiều quyền vào tay Fouché, đã tới Biville tìm cách bắt giữ Wright. Louis Picot, người hầu của Cadoudal, bị bắt tại Cloche d’Or ngày 8 tháng Hai. Anh ta không chịu nổi khi bị tra tấn bằng cách kẹp ngón tay cái, nên đã khai với cảnh sát nơi ẩn náu của Cadoudal ở Chaillot, gần Passy, nhưng Cadoudal cũng không có ở đó. Vị phó của Cadoudal, Bouvet de Lozier, người đã tìm cách tự sát, nhưng sau đó được “đưa trở lại cuộc sống và thống khổ”, đã xác nhận rằng Pichegru và Moreau quả thực có can dự vào vụ âm mưu.
Lúc 8 giờ sáng 15 tháng Hai, Moreau bị bắt trên cây cầu ở Charenton và được đưa tới nhà tù Temple. Hôm sau, Napoleon ra lệnh bắt các Tướng Jean-Jacques Liébert và Joseph Souham vì sự thân cận của họ với Moreau (cả hai đều được chứng minh vô tội và được phục hồi). Ngày 19, ông nói với Soult rằng cảnh sát đã bắt giữ được 15 con ngựa cùng những bộ quân phục dự định dùng cho một cuộc tấn công nhằm vào ông trên đường từ Paris tới Malmaison, nhưng nói thêm một cách thản nhiên: “Ông không nên gắn các biến cố tại Paris với tầm quan trọng quá mức của chúng”. Với Melzi, ông viết: “Tôi chưa bao giờ gặp bất cứ nguy hiểm nào, vì cảnh sát đã để mắt tới mọi mưu toan.”
Pichegru đã chống cự lại ba hiến binh khi họ tới bắt ông ta ngay trên giường tại phố Chabanais ở quận 2 vào tối 26 tháng Hai. “Cuộc vật lộn diễn ra quyết liệt”, Ségur nhớ lại, “và chỉ kết thúc khi ông ta bị đánh mạnh vào những vị trí hiểm yếu nhất trên cơ thể tới mức ngất xỉu”. Hôm sau, Napoleon nhận được những manh mối đầu tiên chứng tỏ Công tước d’Enghien đã có thể can dự vào âm mưu theo cách nào đó.
Louis de Bourbon Condé, Công tước d’Enghien, một người điển trai 31 tuổi, là hậu duệ trực hệ của Louis XIII và là cháu của Hoàng thân Condé người từng chỉ huy đạo quân lưu vong tại Valmy. Khi một trong những kẻ âm mưu xác nhận rằng mọi người đã đứng dậy lúc một thủ lĩnh bước vào phòng, Fouché nhận định rằng d’Enghien là ông hoàng Bourbon duy nhất khớp với mô tả về vóc dáng của người này, và ở gần Pháp đủ để tham gia cuộc gặp. Đây là một sai lầm bi kịch, dựa trên bằng chứng suy diễn.
Cho tới tận ngày 12 tháng Ba, Napoleon vẫn tin là Charles François Dumouriez, viên tướng Pháp đã bỏ sang hàng ngũ người Áo năm 1793, đã gặp d’Enghien tại nhà ông này ở Ettenheim, chỉ cách biên giới Pháp tại Baden 16 km. “Điều mà”, Ségur thuật lại lời Napoleon nói với Cảnh sát trưởng Réal,
⚝ ✽ ⚝
Fouché – người nói với Napoleon là “không gian đầy ắp dao găm” – đã thuyết phục ông rằng d’Enghien đứng sau âm mưu, và cả Talleyrand cũng dựa trên bằng chứng mơ hồ tương tự.
Cuối cùng thì Cadoudal cũng bị bắt lúc 7 giờ tối 9 tháng Ba ở quảng trường l’Odéon, nhưng chỉ sau khi ông ta đã giết chết một hiến binh và làm bị thương một người khác trong cuộc truy đuổi trên xe ngựa. Napoleon nói với Davout hai tiếng sau đó rằng tin về vụ bắt giữ “đã khiến dân chúng hân hoan một cách cảm động”. Cadoudal công khai thừa nhận là ông ta đã tới Paris để giết Napoleon, nhưng không nhắc tới d’Enghien.
Hôm sau, Napoleon chủ trì một cuộc họp ở Tuileries có sự tham gia của Talleyrand, Fouché, Cambacérès, Lebrun, và Regnier, tại đây họ nhất trí sẽ bắt cóc d’Enghien. Lời tuyên bố mãi sau này của Napoleon rằng chính Talleyrand đã thuyết phục họ chọn cách hành động được Cambacérès tán đồng trong hồi ký năm 1828 của ông.(*) Napoleon cho Berthier biết quyết định của mình, và chọn Tướng Armand de Caulaincourt để giám sát hành động từ Offenburg, còn chỉ huy đơn vị kỵ binh thủ pháo của lực lượng Cận vệ Tổng tài là Tướng Michel Ordener – “một người chỉ biết tuân lệnh”, theo lời Cambacérès – thực hiện việc đó. “Chuyện này đã vượt quá một trò đùa”, Napoleon nói với Savary ngày 12 tháng Ba, “khi từ Ettenheim tới Paris để tổ chức một vụ ám sát, rồi tin là mình an toàn vì đang ở phía sau sông Rhine! Tôi sẽ thật ngu ngốc nếu tôi cho phép điều này”. Sau đó, Napoleon tới Malmaison và ở lại đấy tới sáng ngày 20.
•••
Vào lúc 5 giờ sáng Thứ năm, ngày 15 tháng Ba năm 1804, Ordener và một toán lính long kỵ đã bắt cóc Công tước d’Enghien tại nhà ông ta ở Ettenheim và đưa ông ta, con chó, các giấy tờ, cùng 2,3 triệu franc để trong két của ông ta tới pháo đài ở Strassbourg. Không có bóng dáng của Dumouriez, tên của ông này (lòi ra khá nhanh) chỉ được nhắc đến do một nhầm lẫn. Trong khi đó, Caulaincourt tới Carlsruhe để trình một lá thư của Talleyrand gửi Công tước Baden giải thích hành động vi phạm chủ quyền của Baden. Vào sáng 18 tháng Ba, Napoleon kể với Josephine về những gì đã xảy ra. Bà cực lực phản đối và cầu xin ông không ra lệnh hành quyết d’Enghien – nhằm bảo vệ danh tiếng của Napoleon cũng như xuất phát từ tình cảm bảo hoàng còn sót lại hay sự thương hại dành cho d’Enghien của bà. Josephine được trả lời rằng bà không hiểu gì về chính trị và bị lờ đi.(*)
Sáng hôm sau, Napoleon nhận được thông báo của một liên lạc viên từ Alsace rằng giấy tờ của d’Enghien không hé lộ bằng chứng nào về sự can dự vào âm mưu của Cadoudal, nhưng lại cho thấy là Công tước đã đề nghị được phục vụ trong quân đội Anh, đang nhận những khoản tiền lớn từ London, đang dùng vàng của Anh trả cho những người lưu vong khác, và đang hy vọng theo chân người Áo tiến vào Pháp nếu họ tấn công. Ông ta cũng liên lạc với William Wickham tại Vụ Ngoại quốc (tức cơ quan tình báo Anh) ở London và với Spencer Smith tại Stuttgart. “Gần như không tháng nào tôi không nhận được từ Bờ Trái vài lời đề nghị của các bạn đồng ngũ trước đây của chúng ta”, d’Enghien đã viết trong một lá thư, “cả sĩ quan lẫn binh lính, đang tại ngũ hoặc không, những người này chỉ đang chờ một điểm tập kết và một mệnh lệnh để tới và mang thêm cho tôi vài người bạn của họ”. Vào tháng Chín năm 1803, ông ta đã hứa sẽ bắt đầu một cuộc nổi dậy Chính thống (nghĩa là bảo hoàng chống cách mạng) ở Alsace nếu Napoleon bị ám sát, và viết, “tôi đang chờ đợi, hy vọng, nhưng không biết gì cả”. Như vậy, mặc dù ông ta không hề biết đến âm mưu Cadoudal-Pichegru, nhưng rõ ràng ông ta đang ở tư thế sẵn sàng. Tuy nhiên, việc này khó có thể là cơ sở đủ thuyết phục để hành quyết ông ta, trừ phi đó sẽ như một thông điệp cứng rắn gửi tới Louis XVIII nhằm nhắc nhở ông ta hãy chấm dứt các âm mưu khác.
Máu của những kẻ Chính thống chẳng có gì là không thể xâm phạm”, lúc ấy Napoleon đã nói vậy. Vào chiều 18 tháng Ba năm 1804, ông ra lệnh cho Murat với cương vị tổng trấn Paris thành lập một tòa án binh. Murat nói, hay ít nhất sau này tuyên bố rằng mình đã nói, là ông ta không muốn can dự vào thứ mà thực ra sẽ là một vụ hành quyết. Toàn bộ biến cố này đầy ắp những tuyên bố, tuyên bố phản bác, đổ lỗi và biện hộ, khi mọi người đều tìm cách né tránh trách nhiệm về điều xảy ra tiếp theo. Talleyrand đổ lỗi cho Savary và ngược lại, Caulaincourt tuyên bố rằng ông ta không biết d’Enghien sẽ bị hành quyết. Chỉ mình Napoleon, người tất nhiên sẽ gánh trách nhiệm cao nhất, sau đó lý luận rằng đây là hành động đúng đắn, viện dẫn quyền tự vệ và nói về nhà Bourbon, “Nói cho cùng, máu của tôi không phải làm từ bùn: đã đến lúc phải chứng tỏ nó cũng bình đẳng với máu của bọn họ”. Trên đảo Elba, ông biện hộ cho hành động của mình “với lý do [d’Enghien] đã tham dự vào một âm mưu phản trắc, và đã cải trang thực hiện hai chuyến đi tới Strasbourg.
Napoleon quay về Tuileries vào sáng Thứ ba, 20 tháng Ba. Ông đã có một cuộc cãi cọ với Murat và đe dọa đưa ông ta về lại lãnh địa của mình ở Quercy, sau đó thì rốt cuộc Murat cũng phải đồng ý thành lập tòa án binh. Rồi Napoleon tới Malmaison, tại đây, Talleyrand đến gặp ông vào buổi chiều và đi dạo trong vườn. Joseph cũng đến ngay sau đó, và tới 3 giờ chiều một liên lạc viên báo cáo rằng d’Enghien đang trên đường tới Le Donjon, một tòa tháp đầy đe dọa cao gần 46 m tại lâu đài Vincennes, cao nhất châu Âu, ở đây Mirabeau, Diderot, Hầu tước de Sade, và Mata Hari từng bị giam giữ vào những thời điểm khác nhau. Công tước tới đó lúc 5:30 chiều, và Napoleon phái Savary tới gặp Murat cùng một tin nhắn yêu cầu “công việc” phải được hoàn tất trong tối hôm đó. Đích thân Napoleon lập danh sách 11 câu hỏi để Cảnh sát trưởng Réal hỏi d’Enghien – “Ông đã bao giờ cầm vũ khí chống lại đất nước mình?”, “Ông đã nhận tiền của Anh?”, “Ông đã đề nghị phục vụ Anh chiến đấu chống lại Tướng Mortier ở Hanover?”, “Ông đã đề xuất thành lập một đạo quân từ những kẻ đào ngũ khỏi quân đội của nền Cộng hòa?” và cứ thế – chúng được Công tước trả lời thành thật, không tìm cách tránh tội cho mình. Chủ tọa tòa án binh là Tướng Pierre-Augustin Hulin, người đã chiếm ngục Bastille năm 1789 và giờ là chỉ huy lính thủ pháo của Cận vệ Tổng tài. Sau này, ông ta quả quyết rằng mình cũng đã nghĩ d’Enghien sẽ được ân xá.
Có một phiên tòa lấy lệ diễn ra cực nhanh lúc 2 giờ sáng Thứ tư, 21 tháng Ba, trong đó d’Enghien nói với Hulin và năm viên đại tá rằng mình sống ở Ettenheim vì yêu thích thể thao. Công tước cũng “thẳng thắn tuyên bố ông sẵn sàng phối hợp cùng Anh để gây chiến với Pháp, song phản đối rằng ông chưa bao giờ có bất cứ quan hệ nào với Pichegru, và lấy làm mừng vì điều đó”. Đạo luật ngày 25 tháng Sương mù, Năm III, chương 5, mục 1, điều 7 quy định rằng “những người lưu vong từng cầm vũ khí chống lại Pháp sẽ bị bắt giữ, dù là ở Pháp hay ở bất cứ quốc gia thù địch hay bị chinh phục nào, và bị xét xử trong vòng 24 tiếng”. D’Enghien thừa nhận việc được người Anh trả tiền và cầm vũ khí chống lại Pháp, cả hai đều là tội tử hình với người Pháp. Nếu ông ta không thừa nhận, số tiền khổng lồ trong két của ông ta kiểu gì cũng sẽ kết tội ông ta.
Sau đó, theo lời Ségur, d’Enghien “bị hối hả đưa tới con hào của lâu đài, ông ta bị bắn tại đó, và được chôn dưới một cái huyệt đã đào sẵn”. Những lời cuối cùng của ông ta là “Vậy là tôi phải chết trong tay người Pháp!”, có vẻ chúng nhắc đến một tình thế hiển nhiên song cũng thông cảm được trong bối cảnh đó. Con chó của ông ta sau này thuộc về Gustav IV của Thụy Điển, và đeo một cái vòng cổ có ghi: “Tôi thuộc về [nguyên văn] Công tước d’Enghien bất hạnh.
Tối hôm đó, một buổi tiếp tân được tổ chức tại Malmaison để chào mừng việc công bố Luật Dân sự, nó thể hiện rõ tính hai mặt của Napoleon trong vai trò một nhà độc tài tàn bạo và một nhà làm luật đầy cảm hứng. Khi cuộc hành quyết d’Enghien được biết đến công khai, một châu Âu bị sốc đã gần như nhất loạt nhắc tới xu hướng báo thù của người Corse, và Pelet ghi lại rằng người dân Paris lo ngại Napoleon đã “rơi vào con đường ma quỷ” của Robespierre. Những người tự do trên khắp châu Âu bắt đầu nhìn nhận Napoleon khác đi: đây là thời điểm mà René de Chateaubriand và Benjamin Constant quay lưng lại với ông. Để đáp lại lời phản đối của Nga về vụ hành quyết, Napoleon ra lệnh cho đại sứ của mình tại St Petersburg, Tướng d’Hédouville, đòi lại hộ chiếu của mình, và ông này thực hiện vào ngày 7 tháng Sáu, khởi đầu cho một giai đoạn quan hệ Pháp-Nga rất xấu, cuối cùng sẽ bùng nổ thành chiến tranh. Lời nhận xét cay nghiệt về vụ hành quyết d’Enghien – “Nó còn tệ hơn cả một tội ác; nó là một sai lầm ngớ ngẩn” – vẫn thường được gán một cách nhầm lẫn cho Talleyrand; nhưng cho dù người nói ra câu này là Fouché hay Boulay de la Meurthe đi nữa, nó vẫn đúng. Mọi người đều có thể thấy điều đó, trừ Tổng tài Thứ nhất.
Napoleon trở lại Paris ngày 23 tháng Ba, nơi ông ngầm thừa nhận sự mất lòng trước hành động của mình. Ông “gieo mình” xuống ghế tại Hội đồng Nhà nước “với đôi lông mày nhíu lại” và nói, “Dân chúng Paris… là một tập hợp những kẻ đần độn tin vào cả những lời kể lố bịch nhất”. Sau đó, ông nói thêm rằng quan điểm của công chúng “có những sự thất thường mà chúng ta phải học cách coi thường”. Nhắc lại lời Nữ hoàng Elizabeth I (có khả năng là vô thức), ông nói tiếp, “tôi không điều tra trái tim của con người để khám phá những nỗi phiền muộn bí mật của họ”. Ông nói về phản ứng yếu ớt từ Công tước Baden, về việc Louis XIV trục xuất nhà Stuart sau Hiệp ước Utrecht, về các điệp viên Nga, và về sự phẫn nộ của ông với tờ Journal de Paris vì đăng tải quá sớm các chi tiết “vụ âm mưu” của d’Enghien. “Napoleon thường xuyên ngắt lời chính mình trong lúc chạy theo mạch này”, Pelet ghi nhận, “vì rõ ràng ông ấy cảm thấy cần phải đưa ra sự biện hộ, song lại lúng túng không biết nói gì, và dẫn đến sự mơ hồ và thiếu nhất quán trong cách diễn đạt của ông ấy”. Sau khi ông ngừng lời, không ai nói tiếp, và Pelet nghĩ “sự im lặng này đầy ý nghĩa”. Napoleon rời phòng và cuộc họp kết thúc.
Sau Lễ cầu kinh Chủ nhật tuần đó, Ségur nhận thấy những nhóm người được hình thành quanh Napoleon “lắng nghe ông ấy với sự tò mò chăm chú, với thái độ thất vọng và bối rối, và đa phần im lặng, dĩ nhiên là thể hiện sự không tán thành”. Kết quả là, “Thái độ cao ngạo và nghiêm nghị của ông, dù lúc đầu có vẻ bung ra, nhưng rồi trở nên ngày càng ủ rũ và dè dặt hơn”. D’Enghien có thể đã không có một tang lễ, song dường như ông ta đã có một sự tưởng niệm.
Vào sáng ngày 6 tháng Tư, Charles Pichegru bị phát hiện đã chết trong phòng giam. Theo tờ Moniteur , ông ta đang đọc bản tường thuật của Seneca về vụ tự sát của Cato, và trang sách được để mở ở câu: “Người âm mưu không nên sợ cái chết”. Lời giải thích chính thức là Pichegru đã tự siết cổ mình “bằng một cái que xoắn vào cà vạt lụa của mình”. Napoleon thường xuyên bị buộc tội vì đã ra lệnh thực hiện vụ giết người này quá nhanh ngay sau vụ của d’Enghien, và thậm chí người ta còn nghi ngờ ông đã cử bốn lính Mamluk thực hiện việc này, những người mà đến lượt mình đều bị bắn vào hôm sau. Talleyrand, người luôn có thể được trông đợi trong việc đưa ra những lời cay nghiệt, nói về cái chết của Pichegru: “Nó rất đột ngột và rất đúng lúc”. Nhưng không có bằng chứng nào, dù mơ hồ, cho thấy Napoleon có liên quan; quả thực, những người ủng hộ ông lập luận rằng sau thất bại với d’Enghien, ông đặc biệt muốn có cơ hội để phơi bày tội trạng của Pichegru trước phiên tòa công khai và sau đó trừng phạt công bằng và công khai, nên ông chẳng được gì khi cho sát hại Pichegru.
Tháng tiếp theo, Napoleon hài lòng khi biết tin Đại úy Wright đã bị bắt sau hai tiếng chiến đấu lúc chiếc thuyền buồm của ông ta bị bất động vì lặng gió ở ngoài khơi cảng Navalo ở Brittany. Bị nhận diện bởi một sĩ quan Pháp từng phục vụ ở Syria, Wright được đưa trở lại nhà tù Temple, nơi ông ta từng trốn thoát sáu năm về trước. Ngày 27 tháng Mười năm 1805, 18 tháng sau cái chết của Pichegru, xác Wright được tìm thấy trong phòng giam với cổ họng bị cắt. Ngài Sidney Smith, người điều tra về cái chết 10 năm sau đó, nghi ngờ rằng ông ta đã bị sát hại, song nhà chức trách một lần nữa lại tuyên bố đấy là một vụ tự sát. Napoleon khẳng định vào năm 1815 rằng ông chưa bao giờ nghe nói tới Đại úy Wright cho tới khi Huân tước Ebrington nhắc tới anh ta vào năm trước đó trên đảo Elba, và nói anh ta có cấp bậc quá thấp để ông “quan tâm tới cái chết của anh ta”. Trên thực tế, Napoleon đã viết cho Đô đốc Federico Gravina, Đại sứ Tây Ban Nha, bày tỏ sự hài lòng trước việc bắt giữ Wright, nhận xét rằng: “Hậu thế sẽ đóng dấu ô nhục lên Huân tước Hawkesbury và những kẻ đó, những kẻ đủ hèn hạ để viện đến sát nhân và tội ác như một phương pháp tiến hành chiến tranh”. Điều đó không có nghĩa là ông đang nói dối – ông đã gửi đi hàng chục nghìn lá thư trong những năm sau đó và rất có thể chỉ đơn giản là đã quên. Dẫu vậy, lập luận rằng ai đó “có cấp bậc quá thấp” nên không làm ông chú ý là không thuyết phục. Chỉ mới vào tháng trước tháng xảy ra cái chết của Wright, Napoleon đã viết cho Bộ trưởng phụ trách các vấn đề tôn giáo của mình, ra lệnh cho ông này “Bày tỏ sự không hài lòng của tôi tới ông Robert, giáo sĩ tại Bourges, người đã có một buổi giảng kinh rất tồi vào ngày 15 tháng Tám.”
Những cái chết của d’Enghien, Pichegru, và Wright đã được đưa ra như bằng chứng xác thực rằng Napoleon là một nhà cầm quyền đầy thù hận, song như thế là suy diễn quá nhiều từ những gì đã diễn ra. Vụ sát hại d’Enghien thông qua màn kịch tòa án rõ ràng là một hành động tự vệ tàn nhẫn nếu đã xét xử sai, và hai cái chết còn lại đã không thể chứng minh được là tự vẫn, ngoài chuyện sát hại theo lệnh của Napoleon. Những tù nhân bị kết án tử hình (trong trường hợp của Pichegru) hoặc bị giam cầm trong suốt thời gian của một cuộc chiến tranh dài (trong trường hợp của Wright) thường trở nên trầm uất, cho dù các bối cảnh của cả hai trường hợp đều chỉ theo hướng khác.(*) Lời giải thích có vẻ khả dĩ nhất là một thuộc hạ hăng hái thái quá, chẳng hạn như Fouché hay Savary, đã thực hiện điều mà mình nghĩ là Napoleon muốn, giống như cách các hiệp sĩ của Henry II sát hại Thomas Becket. Những phiên tòa xử Cadoudal, Moreau và những người âm mưu khác được ấn định vào tháng Sáu.
•••
Không lâu sau khi âm mưu của Cadoudal thất bại, Napoleon nói với Hội đồng Nhà nước: “Chúng tìm cách hủy hoại cuộc Cách mạng bằng việc tấn công tôi. Tôi sẽ bảo vệ nó, vì tôi là Cách mạng”. Rõ ràng là ông tin như vậy, và ở một mức độ nào đó điều ấy cũng đúng, nhưng vào chính thời điểm này ông đã có động thái rõ nét nhất của sự rời xa tinh thần cộng hòa mà cuộc Cách mạng đã tuyên bố. Vài ngày sau cái chết của Công tước d’Enghien, Thượng viện đã thông qua một thông điệp chúc mừng tới Napoleon mà theo lời Fouché, trong đó đề xuất rằng có thể phải cần tới “những thể chế khác” để tiêu diệt hy vọng của những kẻ âm mưu trong tương lai. “Vĩ nhân”, thông điệp này thúc giục ông đầy xu nịnh, “hãy hoàn tất thành tựu của ngài; hãy làm cho nó bất tử như chính vinh quang của ngài”. Cách duy nhất để làm thành tựu của ông “bất tử” là tạo ra một “thể chế khác” cho phép củng cố chắc chắn di sản của ông và bảo đảm sự ổn định của quốc gia trong trường hợp một kẻ ám sát tương lai thành công. Người ta cảm thấy rằng sự không chắc chắn trong kế vị sẽ thúc đẩy các âm mưu.
Ngày 28 tháng Ba, Napoleon nói với Hội đồng rằng “chủ đề này xứng đáng được chú ý cao nhất, và về phần mình ông không muốn gì hết; ông hoàn toàn hài lòng với vị thế của mình, song bổn phận của ông là phải cân nhắc tới cả vị thế của Pháp, và những gì tương lai có thể tạo ra”. Ông đã xem xét lại đánh giá trước đây của mình về tính chính thống của các bậc quân chủ. Chỉ duy nhất nguyên tắc kế vị mới có thể ngăn chặn được một cuộc phản cách mạng, ông nói thêm theo cùng giọng điệu. Sau đó, những đơn thỉnh cầu bắt đầu tới từ các tỉnh, cầu xin Napoleon nhận lấy vương miện. Báo chí bắt đầu chạy những bài tán dương các thể chế quân chủ, và những tập sách mỏng chịu ảnh hưởng bởi quan điểm chính thống như Réflexions sur l’hérédité du pouvoir souverain (Những suy ngẫm về sự thừa kế quyền lực quân chủ) của Jean Chas được xuất bản, đề xuất rằng cách tốt nhất để làm thất bại những kẻ âm mưu là thiết lập một triều đại Napoleon.
Đến cuối tháng Ba, chiến dịch được dàn xếp cẩn thận này đã trở nên thành công tới mức Hội đồng Nhà nước thảo luận về danh hiệu tốt nhất để Napoleon lĩnh nhận. “Không ai đề xuất là Vua!” Pelet nhận xét. Thay vì vậy, “Tổng tài”, “Vương hầu”, và “Hoàng đế” được thảo luận. Hai danh hiệu đầu nghe quá khiêm nhường, song Pelet tin rằng Hội đồng nghĩ “danh hiệu Hoàng đế quá tham vọng”. Ségur, người có bố là Bá tước de Ségur, có mặt tại cuộc họp và sau này trở thành đại thần nghi lễ đế chế, nói rằng 27 trong 28 thành viên Hội đồng tán thành việc Napoleon mang một danh hiệu thế tập nào đó. Chủ tọa cuộc họp báo cáo tất cả họ đều đề xuất rằng danh hiệu “Hoàng đế là thứ duy nhất xứng đáng với ngài và với Pháp”. Napoleon nói với diễn viên Talma, người tình cờ cũng có mặt, “Vào khoảnh khắc này chúng ta đang trao đổi như thể chúng ta đang có một cuộc trò chuyện, nhưng, chúng ta đang làm nên lịch sử!”
Khi Napoleon đã sẵn sàng tuyên bố mình là hoàng đế, nhiều vị tướng cộng hòa vĩ đại có thể phản đối việc này đã không còn: Hoche, Kléber, và Joubert đã chết; Dumouriez lưu vong; Pichegru và Moreau sắp bị xét xử vì tội phản quốc. Chỉ còn lại Jourdan, Augereau, Bernadotte, Brune, và họ sắp sửa được xoa dịu với những cây gậy thống chế. Lời giải thích Napoleon đưa ra với Soult – “Cần chấm dứt những hy vọng của nhà Bourbon” – tất nhiên không phải là toàn bộ lý do; ông cũng muốn có thể xưng hô với Francis của Áo và Alexander của Nga như những người ngang hàng, và có thể cả với Augustus, Hadrian, và Constantine nữa. Trên thực tế, vào năm 1804 Pháp đã là một đế chế, nên việc Napoleon tuyên bố mình là một hoàng đế cũng chỉ là việc thừa nhận thực tế đó về mặt pháp lý, cũng như việc Nữ hoàng Victoria sẽ trở thành người đứng đầu Đế quốc Anh sau này vào năm 1877. Thật ngạc nhiên là ít người Pháp phản đối sự trở lại của một nền quân chủ thế tập chỉ 11 năm sau khi Louis XVI bị hành quyết, và những người đó được hứa hẹn có cơ hội bỏ phiếu phản đối việc này trong một cuộc trưng cầu dân ý.
•••
Ngày 10 tháng Năm năm 1804, William Pitt Trẻ trở lại vị trí Thủ tướng Anh, thay thế Chính phủ Addison yếu ớt và cam kết xây dựng một khối liên minh thứ ba chống Pháp, điều khiến ông ta sẵn sàng chi 2,5 triệu bảng và hy vọng sẽ chiêu mộ được Nga và Áo. Tám ngày sau, Napoleon chính thức được tuyên bố là Hoàng đế trong một buổi lễ kéo dài 15 phút tại Saint-Cloud, tại đó Joseph được phong làm Đại Tuyển hầu và Louis trở thành Nguyên soái Pháp. Kể từ đó, ông sử dụng danh hiệu có phần nhập nhằng và dường như mâu thuẫn là “Napoleon, nhờ ân huệ của Chúa và Hiến pháp của nền Cộng hòa, Hoàng đế của người Pháp”. Trong bữa tối hôm đó, ông lạnh nhạt suy ngẫm về cách gia đình mình đang cãi cọ về bổng lộc: “Quả thực, khi lắng nghe các cô em của tôi, có lẽ người ta phải nghĩ rằng tôi đã quản lý rất tồi di sản của cha chúng tôi, đức vua đã quá cố.”
Nếu Napoleon qua đời mà không có người kế vị, tất cả nhất trí rằng Joseph và sau đó là Louis sẽ kế thừa vương miện, còn Lucien và Jérôme bị loại ra khỏi danh sách kế vị vì những cuộc hôn nhân mà anh trai họ không tán thành. Napoleon nổi xung khi biết Jérôme, người đang phục vụ trong hải quân Pháp, khi nghỉ phép lên bờ tại Mỹ vào tháng Mười hai năm 1803 đã cưới cô thừa kế xinh đẹp Elizabeth Patterson ở Baltimore thay vì chờ đợi cuộc hôn nhân có tính liên minh với một hoàng gia châu Âu. Napoleon đã làm mọi thứ trong quyền lực của mình để chấm dứt cuộc hôn nhân, kể cả việc quấy quả Giáo hoàng để hủy bỏ nó và lệnh cho các quan chức Pháp “công khai nói rằng tôi không thừa nhận một cuộc hôn nhân mà một cậu trai trẻ 19 tuổi đã giao kết trái với luật của đất nước cậu ta”. Tất cả các anh em trai của ông, ngoại trừ Louis, đều đã kết hôn vì tình yêu, như chính ông đã làm, điều không có ích lợi gì cho Pháp.
“Là công cụ duy nhất cho định mệnh của mình, tôi không nợ gì các anh em trai của tôi”. ông viết cho Đại sứ Pháp tại Mỹ Louis Pichon vào ngày 20 tháng Tư, nhất quyết yêu cầu ông này tìm ra cách để hủy bỏ cuộc hôn nhân của Jérôme. Sau này ông nói với Cambacérès, “không có cuộc hôn nhân nào ngoài cuộc hôn nhân giữa hai người yêu nhau, được kết hợp trong một khu vườn, trước ban thờ của tình yêu, trong sự hiện diện của trăng sao”. Giáo hoàng không tán thành và tuyên bố cuộc hôn nhân không thể bị hủy bỏ, song Napoleon tiếp tục nói về Elizabeth như “nhân tình” của Jérôme hay “cô gái cậu ta sống cùng”, và tới tháng Tư năm 1805 ông thậm chí còn đe dọa cho bắt Jérôme. Tháng sau, Jérôme chịu lép, quay lại hải quân và từ bỏ người vợ đang có thai của mình. Elizabeth trốn tới London và sinh một đứa con trai trước khi quay về Mỹ, nơi cô được gia đình bố mình đón nhận. (Sau này, cháu nội của cô trở thành Bộ trưởng Tư pháp.)
Napoleon nghiêm khắc quở trách Pauline về những hành vi ngoại tình của cô này ở Rome. “Đừng trông cậy anh giúp đỡ”, ông cảnh báo em gái, “nếu ở tuổi của mình em vẫn để bản thân bị điều khiển bởi những lời khuyên xấu”. Về chồng của cô em, Vương hầu Camillo Borghese, ông nói thêm: “Nếu em cãi cọ với anh ta đó sẽ là lỗi của em, và Pháp sẽ đóng cửa lại với em”. Ông ra lệnh cho ông chú của họ, Hồng y Fesch, nói với cô gái 23 tuổi phù phiếm nhưng quả thực rất quyến rũ này, “nhân danh cháu, rằng nó không còn xinh đẹp nữa, rằng nó sẽ còn ít xinh đẹp hơn sau vài năm nữa, và… nó sẽ không thể được nuông chiều mãi trong những thói xấu đó với những lời quở trách lịch sự”. Bất chấp những lời cảnh cáo này, quan hệ của Pauline với chồng mình ngày càng xấu đi, và cô không bao giờ tha thứ cho ông này về việc cậu con trai 6 tuổi Dermide Leclerc của cô bị chết vì sốt vào tháng Tám năm đó.
•••
Ngay sau hôm ông được tuyên bố là Hoàng đế, Napoleon phong hàm cho 18 “Thống chế của Đế chế” trong đó có 4 người là danh dự, 14 người đang tại ngũ. 14 thống chế đang tại ngũ gồm Alexandre Berthier, Joachim Murat, Adrien Moncey, Jean-Baptiste Jourdan, André Masséna, Pierre Augereau, Jean-Baptiste Bernadotte, Nicolas Soult, Guillame Brune, Jean Lannes, Édouard Mortier, Michel Ney, Louis-Nicolas Davout, và Jean-Baptiste Bessières.(*) Từ năm 1807 đến 1815 có thêm 8 thống chế nữa được phong. Thống chế không phải là một cấp quân hàm mà là một danh hiệu danh dự nhằm thừa nhận và tưởng thưởng điều mà sau này Napoleon gọi là “lửa thiêng”, và tất nhiên để khích lệ phần còn lại của đội ngũ chỉ huy cao cấp. Danh hiệu này đi kèm với một cây gậy bạc bọc nhung gắn hình một con đại bàng bằng vàng và đựng trong hộp da morocco đỏ, thể hiện việc Napoleon coi những người này là 14 chỉ huy quân sự xuất sắc nhất của quân đội Pháp.(*) Không phải ai cũng đều bị ấn tượng: khi ban tham mưu của Masséna chúc mừng ông ta, Masséna chỉ bật cười: “Chúng tôi có 14 người!” Masséna khá may mắn khi được nhận gậy thống chế, vì ông ta đã bỏ phiếu chống lại chức Tổng tài Suốt đời và chỉ trích phiên tòa xử Moreau sắp diễn ra, nhưng năng lực quân sự của ông ta là không thể bác bỏ. Davout thì được phong bất chấp việc chưa bao giờ chỉ huy một sư đoàn trong chiến đấu; cho dù đúng là ông ta có một chức chỉ huy trong Cận vệ Tổng tài; lẽ ra ông ta đã không được phong trong đợt đầu tiên nếu người anh em cọc chèo của ông là Tướng Leclerc còn sống. Còn Marmont cảm thấy buồn bã vì ông ta không phải là một trong 18 người đầu tiên, và Junot không được coi là có tầm cỡ thống chế – thậm chí đôi lúc còn bị cho là không có năng lực quân sự.
Napoleon đảm bảo một sự cân bằng 7-7 (số thống chế mỗi đạo quân) giữa các Đạo quân sông Rhine và Đạo quân Italy, điều này được duy trì gần như tương tự trong việc phong thống chế sau này cho Victor, Marmont, và Suchet của Đạo quân Italy, và Macdonald, Oudinot, Saint-Cyr, và Grouchy của Đạo quân sông Rhine. Mortier và Soult xuất thân từ Đạo quân Sambre-et-Meuse, và cho dù Napoleon không biết rõ về họ nhưng hiển nhiên họ là những chiến binh giỏi, và Soult có năng lực chỉ huy độc lập. Cũng có cả một nỗ lực thiết lập cân bằng về chính trị: Brune giúp thu phục những người Jacobin, Jourdan và Moncey chỉ huy những đạo quân cộng hòa quan trọng. Bernadotte là anh em cọc chèo với Joseph, nhưng cũng là một nhân vật đối lập mà Napoleon nghĩ tốt nhất nên cột chặt vào chế độ của mình.
Có câu nói rằng mỗi người lính đều mang một cây gậy thống chế trong ba lô của mình, và xuất thân từ tầng lớp lao động của nhiều thống chế là một sự nhắc nhở mạnh mẽ về điều đó. 10 người trong số họ xuất thân từ thường dân, trong đó có con trai của một thợ đóng thùng (Ney), thợ thuộc da (Saint-Cyr), quản lý (Victor), người ủ bia (Oudinot), phú nông (Mortier), chủ cối xay (Lefebvre), chủ nhà trọ (Murat), người hầu trong nhà (Augereau) và coi kho (Masséna). Chỉ có Vương hầu Józef Poniatowski và Hầu tước de Grouchy (nhận được cây gậy lần lượt vào năm 1813 và 1815) là quý tộc, cho dù Pérignon, Macdonald, Marmont, Berthier, và Davout là con cháu của giới quý tộc thời Chế độ cũ. Sérurier từng huênh hoang rằng bố mình giữ một “chức vị hoàng gia”, song hóa ra ông này là người chuyên bắt chuột chũi tại trại nuôi ngựa giống của hoàng gia tại Lâon. Cho dù nguồn gốc xã hội của họ là gì, Napoleon đều gọi tất cả các thống chế là “Em họ của tôi” trong thư từ, như ông vẫn xưng hô với Cambacérès và một số quan chức cao cấp của đế chế.(*)
Các thống chế được phong danh hiệu, như Vương hầu de Ponte Corvo (Bernadotte), Vương hầu de Neufchâtel (Berthier), Công tước d’Istrie (Bessières) và Vương hầu d’Eckmühl (Davout). Ngoài danh hiệu và gậy, Napoleon còn trao những khoản trợ cấp (bằng tiền mặt) cho các thống chế của mình, một số khoản rất lớn. Trong tổng số 26 thống chế, có 24 người nhận được khoản trợ cấp này – chỉ hai nhân vật cộng hòa ngấm ngầm Brune và Jourdan là không nhận được gì, mặc dù Brune trở thành một bá tước. Sự ưu ái của Napoleon thể hiện rõ ràng trong việc phân bổ các khoản trợ cấp này theo các năm. Bốn thống chế hàng đầu – Berthier với 1 triệu franc, Masséna 933.000 franc, Davout 817.000 franc, và Ney 729.000 franc – chiếm quá nửa tổng số 6 triệu franc. Bốn người kế tiếp – Soult, Bessières, Lannes, và Bernadotte – nhận được từ 200.000 tới 300.000 franc mỗi người. Tất cả những người còn lại nhận được dưới 200.000 franc, trong đó Saint-Cyr, người Napoleon tôn trọng với tư cách một người lính nhưng không thể thân mật trên tư cách một con người, chỉ nhận được 30.211 franc.
Cùng với việc thiết lập danh hiệu thống chế, vào ngày 18 tháng Năm năm 1804, Napoleon chính thức thành lập Cận vệ Đế chế, một sự hợp nhất giữa Cận vệ Tổng tài và đơn vị bảo vệ Cơ quan Lập pháp. Lực lượng này bao gồm ban tham mưu, các hợp phần bộ binh, kỵ binh và pháo binh, với các tiểu đoàn công binh và lính thủy phối thuộc. Sau này, lực lượng này được tách ra thành Cận vệ Già gồm các chiến binh kỳ cựu phục vụ lâu năm, Cận vệ Trung gồm những binh lính đã chiến đấu trong các c