Chương 31 ST HELENA
Tâm hồn bào mòn thể xác.
• Napoleon viết cho Marie Louise
Ông ta sống giữa vùng đồng bằng Ba Tư, mãi nhớ thương đất nước mình.
• Napoleon viết về Themistocles
⚝ ✽ ⚝
“Vẫn chưa mất tất cả”, Napoleon viết cho Joseph vào ngày hôm sau trận đánh.
Ta tính toán rằng, khi ta tái tập hợp lực lượng của mình, ta sẽ có 150.000 người. Các lực lượng fédérés và Vệ binh Quốc gia (những người đủ khả năng chiến đấu trong số họ) sẽ cung cấp 100.000 người, và các trung tâm huấn luyện thêm 50.000 người nữa. Như thế, ta sẽ có 300.000 người sẵn sàng để tung ra chống lại kẻ thù. Ta sẽ dùng ngựa kéo xe để kéo đại bác; tuyển thêm 100.000 lính quân dịch; vũ trang cho họ với súng hỏa mai lấy từ các phần tử bảo hoàng và những Vệ binh Quốc gia không đủ khả năng phục vụ; tổ chức một cuộc tổng động viên… và khuất phục kẻ thù. Nhưng nhân dân phải giúp ta, chứ không phải làm điếc tai ta với những lời khuyên… Quân Áo là những kẻ hành quân chậm chạp; quân Phổ sợ nông dân và không dám tiến quá xa. Vẫn còn thời gian để vãn hồi tình thế.
⚝ ✽ ⚝
Napoleon tin rằng nếu ông có thể tập hợp tất cả lực lượng dưới quyền Grouchy (người đã thoát khỏi chiến trường với quân đoàn của mình còn nguyên vẹn), Rapp, Brune, Suchet và Lecourbe lại với nhau, nếu các pháo đài lớn ở biên giới có thể đứng vững tới khi được giải vây, và nếu ông có thể tấn công các tuyến đường tiếp tế bị kéo dài của Đồng minh, thì có khả năng ông sẽ kéo dài được thời gian. Đây chính là sự thể hiện quyết tâm phi thường và nhiệt huyết không lay chuyển của ông, khi vẫn có thể dự tính tới tất cả những điều này sau một thảm bại như Waterloo. Soult thảo một mệnh lệnh chung, yêu cầu các chỉ huy tập hợp những người lạc đơn vị và tập trung lại ở Lâon, Lafère, Marle, Saint-Quentin, Bethel, Vervier, Soissons, và Reims, nơi các đơn vị khác nhau chưa bị tan vỡ đang đồn trú. Trong khi đó, Jérôme và Morand tập hợp các phần của đạo quân tại Philippeville và Avesnes.
Napoleon biết rằng, để tiếp tục chiến đấu ông cần sự ủng hộ của hai viện đang họp tại Palais Bourbon, vì thế ông hối hả quay về Paris trên lưng ngựa, và kể cả bằng xe thư, để cố gắng tới nơi trước tin thất bại. Trên đường, một chủ nhà trọ tại Rocroi đã nhất định đòi được trả 300 franc tiền mặt cho bữa tối phục vụ Hoàng đế và đoàn tùy tùng của ông, từ chối lệnh trưng dụng – như một dấu hiệu rõ ràng về quyền lực đang suy giảm của Napoleon. Ông tới Élysée lúc 7 giờ sáng Thứ tư 21 tháng Sáu, triệu tập gia đình mình và các bộ trưởng, và tắm lần đầu tiên sau nhiều ngày. Nhưng cho dù ông đã đi thẳng về Paris từ Ai Cập và Moscow, lần này sự trở về của ông mang vẻ tuyệt vọng. Ngay cả John Cam Hobhouse cũng phát hiện thấy “một sự hấp tấp không gì biện minh được” ở vị anh hùng của mình. Sự trở về chóng vánh của Napoleon chỉ càng làm các đối thủ của ông thêm bạo dạn, bất chấp việc họ đã tuyên thệ trung thành với ông tại Champ de Mai chưa đầy ba tuần trước đó.
101 phát đại bác bắn chào mừng ở Paris ngày 18 tháng Sáu để thông báo chiến thắng tại Ligny, được tuyên bố là giành được trước Wellington và Blücher, nhưng việc không có bất cứ bản thông cáo nào kể từ đó đã bắt đầu làm người dân Paris lo lắng. Napoleon đã tính tới việc lập tức đến Palais Bourbon khi về tới nơi, “cả người phủ đầy bụi chiến trường”, như một trong những người ủng hộ ông mô tả, và kêu gọi tinh thần ái quốc của cơ quan lập pháp. Được triệu tập gấp, Cambacérès, Carnot và Maret đều ủng hộ ý tưởng này, và xe ngựa của ông đã sẵn sàng ngoài sân, nhưng đa số các bộ trưởng nghĩ việc này quá nguy hiểm nếu xét đến tâm trạng kích động của các nghị sĩ.(*) Thay vì thế, Hoàng đế gửi một thông điệp tới hai viện nói rằng ông đã trở về Paris “để tham vấn với các bộ trưởng về những biện pháp cứu nguy cho quốc gia”. Sau này ông hối tiếc vì đã không đích thân tới đó, nói rằng: “Lẽ ra ta đã có thể lay chuyển và dẫn dắt họ; khả năng hùng biện của ta đã có thể khơi dậy nhiệt huyết của họ; ta đã có thể chém đầu Lanjuinais và Lafayette cùng chục kẻ khác… Ta phải nói điều này: ta đã không dũng cảm.”
Và ông cũng không có sự ủng hộ. Khoảng trống quyền lực nhanh chóng được Lafayette lấp vào, khi chỉ định năm thành viên của mỗi viện đứng ra đảm nhiệm chức trách của các bộ trưởng – trên thực tế là một cuộc đảo chính nghị viện. Regnault de Saint-Jean d’Angély và Lucien cố gắng thuyết phục các viện không đi theo hướng này, song Lafayette đã rất hùng biện và thuyết phục trong lời buộc tội Napoleon của mình. Bị Lucien buộc tội phản bội, ông ta nói: “Chúng tôi đã theo anh trai ông tới những đồi cát của châu Phi, những vùng hoang vu của Nga, xương của người Pháp nằm rải rác trên mọi vùng đất là bằng chứng cho lòng trung thành của chúng tôi.” Trong ngày hôm đó những người lính không còn vũ khí và chán nản bắt đầu về tới thủ đô, họ “thông báo ở khắp nơi khi họ đi qua rằng tất cả đã mất.”
Bản thông cáo Napoleon viết ngày 21 tháng Sáu lập luận rằng Waterloo đã ở vào thời khắc sắp giành được chiến thắng, thì những kẻ bất lương hiểm độc bắt đầu hô hoán “Chạy thôi!”, vậy là “Trong chốc lát toàn bộ đạo quân không còn gì ngoài một đám đông hỗn loạn”. Ông kết thúc: “Đó là kết cục của trận đánh núi Saint-Jean, thật vinh quang cho quân đội Pháp, và dẫu vậy cũng thật tai họa.” Nó không thuyết phục được mấy người, song từ “tai họa” được sử dụng ba lần khiến người dân Paris không còn nghi ngờ gì về thảm bại, giờ đây cũng thật tai họa cho cơ hội ngồi lại trên ngai của Napoleon. Rất có thể Napoleon đã lại tìm cách đầu độc chính mình tối hôm đó. Cadet de Gassicourt, người bào chế thuốc của Hoàng đế, kể với Tướng Thiébault vào năm 1818 rằng ông ta đã được triệu tập tới Élysée ngày 21 tháng Sáu sau khi Napoleon nuốt thuốc độc, như ông đã làm vào năm trước, rồi sau đó đổi ý – trong tâm trạng kinh hãi, Gassicourt đã tìm được cách gây nôn rồi cho thụt tháo rửa ruột. Dù không có sự chứng thực nào xác nhận, nhưng rất có thể Gassicourt đã nói sự thật.
Vào trưa hôm sau, với ngay cả các bộ trưởng trung thành nhất của ông – Lavalette, Savary, và Caulaincourt – cũng lập luận rằng việc này giờ đây là không tránh khỏi, khi Napoleon thoái vị lần thứ hai, đọc cho chép lại văn bản “với quyết tâm nhanh chóng vốn đặc trưng cho khả năng tổ chức đặc biệt của ông trên chiến trường”. “Hỡi những người Pháp!” văn bản bắt đầu,
⚝ ✽ ⚝
Napoleon vẫn hy vọng ông có thể được cơ quan lập pháp mời ra chỉ huy các đạo quân Pháp chống lại Đồng minh xâm lược, nhưng nếu Chính phủ lâm thời sắp tới không cần tới sự phục vụ của ông, ông nói với Lavalette, thì ông dự định sẽ sống như một công dân bình thường tại Mỹ. Vì Mỹ mới chỉ vừa lập lại hòa bình với Anh sau ba năm chiến tranh, hoàn toàn có khả năng là ông được Chính phủ Mỹ cho phép lui về đây nếu ông đến được đất nước này. Lavalette ghi lại rằng sau khi Napoleon đã thoái vị, “cả ngày ông ấy vẫn bình thản, vẫn đưa ra lời khuyên về vị trí quân đội cần chiếm lĩnh, và về cách [mà theo đó] các cuộc đàm phán với kẻ thù cần được tiến hành.”
Chính phủ lâm thời, với Fouché trở thành Tổng thống vào ngày 24 tháng Sáu, chấp nhận sự thoái vị một cách cảm kích, chỉ định Macdonald chỉ huy quân đội Pháp, để Lafayette phụ trách Vệ binh Quốc gia, với Oudinot làm cấp phó cho ông này, và cho phép Carnot tiếp tục giữ chức vụ cũ Bộ trưởng Nội vụ. Talleyrand trở thành Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ tư. Lúc có thông báo trên tờ Journal de L’Empire rằng “Napoleon Bonaparte” đã đi tới Malmaison, sự thay đổi trong cách xưng hô đã tác động mạnh tới dân chúng, vì nếu ngay cả tờ báo thân Bonaparte nhất cũng không còn mô tả ông theo các danh xưng dành cho hoàng đế nữa thì chắc hẳn ông đã thực sự sụp đổ. Song một số người trung thành cực đoan vẫn tiếp tục kháng cự: Đại tá-Nam tước Paul-Alexis de Menil thuộc Đạo quân sông Rhine chiến đấu tại khu rừng Seltz cùng Bán lữ đoàn bộ binh 37 của mình suốt tám ngày sau trận Waterloo, và một số thành phố như Givet, Charlemont, Longwy, Mézières, Charleville, và Montmédy không đầu hàng cho tới tận tháng Tám và tháng Chín.
Ít lâu trước khi ông rời Paris lần cuối cùng, Napoleon đã chào từ biệt Vivant Denon đang bùi ngùi. Đặt hai tay lên vai Denon, ông nói: “Bạn thân mến của ta, đừng yếu đuối; trong cơn khủng hoảng như thế này, cần xử sự một cách bình tĩnh.” Với những bản mô tả về Ai Cập và chiến dịch Ai Cập, những bản thiết kế các huy chương kỷ niệm bằng đồng thau, việc cổ vũ phong cách Đế chế trong nghệ thuật và quản lý bảo tàng Louvre, Denon đã làm nhiều hơn bất cứ ai khác, ngoại trừ chính Napoleon, để thúc đẩy khía cạnh văn hóa của chủ nghĩa Bonaparte. Ông ta là một trong rất nhiều nhân vật dân sự có tên tuổi nuối tiếc cho sự sụp đổ của Napoleon.
•••
Một người ít tự tin hơn có lẽ sẽ lên kế hoạch cho một con đường đào tẩu. Nhưng giờ đây, từ lúc ông lên đường tới Malmaison cùng Hortense, Bertrand, và Maret ngày 25 tháng Sáu cho tới lúc ông đầu hàng người Anh ngày 15 tháng Bảy, Napoleon đã làm một điều hoàn toàn khác với tính cách mình: ông do dự. Khi quân Đồng minh và nhà Bourbon đang áp sát Paris cho một cuộc phục hồi lần thứ hai, còn quân Phổ phái các toán kỵ binh tuần tiễu xa hơn trên chiến trường, các lựa chọn của ông bắt đầu thu hẹp. Trong thời gian ở Malmaison, ông đã đề nghị Chính phủ lâm thời cấp hộ chiếu tới Mỹ, và yêu cầu hai tàu chiến để đưa ông từ Rochefort tới đó. Hành động này thật vô nghĩa: Hải quân Hoàng gia Anh, đang phong tỏa hải cảng với chiến hạm 74 pháo HMS Bellerophon , hẳn sẽ không tôn trọng tấm hộ chiếu được cấp cho Napoleon bởi chính quyền Fouché hay bất cứ ai khác. Ngày 26 tháng Sáu, Napoleon gặp Marie Walewska tại Malmaison, nơi đây họ đã nói lời từ biệt.
Ngày 29, Napoleon được các phái viên của Fouché là Decrès và Boulay de la Meurthe thông báo rằng Chính phủ đã điều động hai chiếc tàu chiến Saale và Méduse cho ông sử dụng, và vì quân Phổ đang tới gần nên ông cần rời khỏi Malmaison. Chỉ nán lại để thăm căn phòng nơi Josephine đã qua đời, và để chào từ biệt mẹ mình cùng Hortense lần cuối cùng, ông rời khỏi tòa nhà cùng Bertrand và Savary lúc 5:30 chiều (Ferdinand, đầu bếp chính của Napoleon, lựa chọn không đi theo ông vì ông ta đã không được trả những gì đã được hứa hẹn khi ông ta tới Elba.) “Nếu ta tới Mỹ”, Napoleon sau này ngẫm nghĩ, “chúng ta có thể đã thành lập một nhà nước ở đó”. Thế nhưng vào ngày 2 tháng Bảy, lúc này ông đã ở Niort thuộc khu Deux-Sèvres, Napoleon vẫn chưa quyết định được nên làm gì, còn những người đồng hành thì bị chia rẽ về việc liệu ông nên tới chỗ quân đội ở Orleans hay tìm cách trốn lên một chiếc tàu buôn Mỹ đang đậu cách bờ gần 13 km.
Thay vì thế, Napoleon tới trụ sở quản lý hàng hải của Rochefort và dành ra 12 ngày ở đó cố gắng nghĩ xem làm cách nào hai tàu chiến Saale , Méduse , một tàu hộ tống 20 pháo và một thuyền hai cột buồm có thể qua mặt được chiếc Bellerophon . Khi Thuyền trưởng Philibert của chiếc Méduse từ chối tham gia vào bất cứ cuộc tấn công nào, hai sĩ quan hải quân trẻ là Trung úy Genty và Thiếu úy Doret đã tình nguyện đưa Napoleon vượt Đại Tây Dương trên một chiếc thuyền buồm nhỏ, vì vi phạm này mà họ bị loại khỏi danh sách Hải quân Pháp cho tới khi nhà Bourbon sụp đổ năm 1830.
Vào ngày 5 tháng Bảy, Joseph tới Rochefort và hào phóng đề nghị tráo tên với em trai mình, vì họ trông giống nhau. Thay vì nắm lấy cơ hội này, Napoleon lại do dự. Khi nhà Bourbon chính thức trở lại nắm quyền ba ngày sau đó, ông mất quyền kiểm soát hai tàu chiến. Lúc này, Đô đốc-Ngài Henry Hotham liền đưa tàu Hải quân Hoàng gia Anh từ Les Sables tới Gironde để truy tìm ông. Napoleon cũng bác bỏ một số đề nghị mạo hiểm khác, như trốn đi vào ban đêm trên một chiếc tàu Đan Mạch. Đến ngày 9, ông tới duyệt binh tại Île d’Aix và được dân chúng địa phương hoan hô, rồi ngủ trên chiếc Saale bên cạnh chiếc Bellerophon thả neo gần đó.
Napoleon cử Savary và một thị thần, Hầu tước de Las Cases, tới chiếc Bellerophon vào ngày 10 tháng Bảy để thương lượng các điều kiện đầu hàng của ông với viên thuyền trưởng 38 tuổi của chiếc chiến hạm, Frederick Maitland. Ông cần tránh bị nhà Bourbon – mà lá cờ của họ sẽ được kéo lên ở Rochefort ngày 12 tháng Bảy – hay người Phổ bắt giữ vì cả hai hẳn sẽ hành quyết ông. Sau này ông nói “không thể hạ mình cầu xin để nhận bất cứ ân huệ nào từ Hoàng đế Áo, sau khi biết vai trò của ông ta trong việc chống lại mình”. Những cuộc đàm phán được nối lại vào ngày 14 tháng Bảy, lần này do Las Cases và Tướng Charles Lallemand, chỉ huy khinh kỵ Cận vệ ở Waterloo, thực hiện. Maitland tuyên bố Napoleon sẽ được đối xử tử tế tại Anh, nơi khí hậu tốt hơn ông hình dung. Napoleon hiểu điều này có nghĩa là ông sẽ được cung cấp nơi cư trú như một vị khách của người Anh thay vì bị đối xử như một tù binh chiến tranh, song đó là một ý tưởng hão huyền dựa trên những lời ngẫu hứng của một sĩ quan hải quân không có quyền đưa ra bất cứ thỏa thuận chính thức nào. Quả thực, Maitland làm cho điều này trở nên rõ ràng khi ông ta không có quyền đưa ra bất cứ cam kết nào ngoài việc hộ tống an toàn tới lãnh hải Anh. Ngay cả lúc ấy Napoleon vẫn có thể làm theo lời khuyên của Joseph, và đi theo đường bộ tới một cảng khác nằm xa hơn về phía nam – có thể vẫn có lựa chọn khác ở Gironde – nhưng thay vì thế ông chào từ biệt anh trai mình vào ngày 13. Giờ đây, ông nghiêng về sự đàng hoàng và một biện pháp an toàn hơn là sự mạo hiểm của một cuộc đào tẩu đường biển nữa, như những gì ông từng thực hiện từ Corse, Ai Cập, và Elba.
Vào khoảng nửa đêm 14, Napoleon viết một lá thư cho Hoàng thân-Nhiếp chính. “Thưa điện hạ”, lá thư mở đầu, “Phải đối mặt với những phe phái chia rẽ đất nước mình và sự thù địch của các cường quốc châu Âu, ta đã kết thúc sự nghiệp chính trị của mình, và như Themistocles, ta tới ngồi vào giữa lòng dân tộc Anh. Ta đặt mình dưới sự bảo vệ của pháp luật nước này, nên ta kêu gọi điện hạ với tư cách người quyền lực nhất, nhất quán nhất và rộng lượng nhất trong số các kẻ thù của ta”. Lần này sự hiểu biết về thời Cổ đại của Napoleon đã phản lại ông, vì vị tướng Athens vĩ đại Themistocles trên thực tế đã đầu quân cho Ba Tư chống lại những đồng bào Hy Lạp của mình, vốn không phải là điều Napoleon đang đề nghị. Nhưng ông đã đúng về sự nhất quán của Anh. Chỉ riêng năm 1815, Anh đã tài trợ cho không dưới 30 quốc gia châu Âu, từ những nước lớn nhất – như Phổ với 2,1 triệu bảng, Nga với 2 triệu bảng, và Áo với 1,6 triệu bảng – cho tới Sicily với 33.333 bảng. Bên cạnh Áo đã trải qua 108 tháng chiến đấu chống lại Pháp, Phổ 58 tháng, và Nga 55 tháng, thì Anh đã ở trong tình trạng chiến tranh với Pháp tổng cộng 242 tháng từ năm 1793 tới năm 1815. Hải quân Hoàng gia Anh đã phong tỏa Pháp trong hai thập kỷ, và đánh chìm hạm đội tác chiến của Pháp tại Trafalgar; quân Anh đã chiến đấu trong sáu năm trên bán đảo Iberia, từ năm 1808 đến 1814, và Wellington đã không có lấy một ngày ngơi nghỉ trong suốt thời gian này. Họ cũng đã đổ bộ các lực lượng viễn chinh lên Ai Cập năm 1801, Calabria (nơi họ thắng trận Maida) năm 1806, Copenhagen năm 1807, Walcheren (một cách thảm họa) năm 1809, và Bergenop-Zoom ở Hà Lan (cũng bị đánh bại) năm 1814. Ngay cả khi gần như toàn bộ phần còn lại của châu Âu (trừ Bồ Đào Nha và Sicily) hòa hoãn với Napoleon sau Tilsit, người Anh vẫn tiếp tục duy trì cuộc chiến đấu chống lại sự bá chủ của ông.
Triệu tập một cuộc họp các cố vấn, Napoleon nói, “Ta không quen biết Hoàng thân-Nhiếp chính, nhưng từ tất cả những gì ta đã nghe về ông ấy, ta không thể không đặt niềm tin vào tính cách cao quý của ông ấy”. Cả ở đây nữa, thông tin của ông cũng sai lầm, vì Hoàng thân-Nhiếp chính có một trong những tính cách ti tiện nhất trong tất cả các quân chủ Anh. “Chưa bao giờ có một người nào lại ít được đồng loại của mình thương tiếc như vị vua vừa qua đời này”, tờ The Times phát biểu khi ông ta chết năm 1830. “Đôi mắt nào đã khóc cho ông ta? Trái tim nào đã có một nhịp đập đau buồn không vụ lợi?… Nếu ông ta từng có một người bạn – một người bạn trung thành ở bất cứ đẳng cấp nào ngoài đời – chúng tôi xin trân trọng cam đoan rằng tên của quý ông hay quý bà đó chưa bao giờ đến tai chúng tôi”. Sự hào phóng của Hoàng thân-Nhiếp chính chỉ giới hạn với các thợ may, thợ trang trí nội thất, và nhân tình của ông ta. Napoleon chẳng có thứ gì ông ta muốn, và thế là lời năn nỉ của vị hoàng đế thất thế không bao giờ nhận được hồi đáp. Ông có lẽ đang hy vọng một kiểu giam cầm lịch sự như cách Lucien đã bị giam cầm ở Worcestershire, hay có thể tại một trong những lãnh địa đồng quê của những quý tộc phe Whig ông đã gặp ở Elba.
Napoleon lên boong chiếc Bellerophon lúc 8 giờ sáng Thứ bảy 13 tháng Bảy năm 1815, và đầu hàng Thuyền trưởng Maitland. Ông đã lịch sự cho phép viên sĩ quan liên lạc với Chính phủ lâm thời, Tướng Beker, không đi theo ông, và qua đó tránh cho ông ta bất cứ lời buộc tội nào có thể có trong tương lai về việc đã phản bội khi giao nộp Napoleon cho người Anh. “Trên mọi khuôn mặt đều hiện rõ sự phiền muộn sâu sắc nhất”, Marchand hầu phòng của ông nhớ lại, “và khi chiếc xuồng Anh tới để đưa Hoàng đế ra tàu, có thể nghe thấy những tiếng hô cảm động nhất” từ các sĩ quan và thủy thủ, họ hô vang “Hoàng đế muôn năm!” lan qua mặt nước cho tới khi ông tới chiếc Bellerophon . Một số người giẫm lên mũ mình vì tuyệt vọng. Khi ông tới nơi các lính thủy trên chiếc Bellerophon đứng nghiêm chào, còn các thủy thủ thì điều khiển các trục căng buồm, nhưng Napoleon không được nhận một tràng súng bắn chào mừng, vì theo quy định của Hải quân Hoàng gia thì lúc đó còn quá sớm trong ngày cho việc đó. Những lời đầu tiên ông nói với Maitland, trong khi bỏ mũ ra, là: “Ta lên boong tàu của ông để đặt mình dưới sự bảo vệ của luật pháp Anh”. Các cuộc Chiến tranh Cách mạng và Chiến tranh Napoleon cuối cùng đã kết thúc.
•••
Maitland dành cho Napoleon cabin thuyền trưởng của mình, và khi ông xuất hiện trở lại trên boong, ông ta dẫn ông đi thăm quanh tàu. Napoleon hỏi liệu Maitland có nghĩ ông có thể chờ cơ hội đào thoát hay không, nhưng vị thuyền trưởng Anh quả quyết với ông rằng một chiến hạm 74 pháo như Bellerophon thừa sức đối phó với ba chiếc tàu chiến, và vì thế triển vọng cho việc đào thoát là “rất mong manh”. Trong khi họ đi thăm tàu, Napoleon vỗ lên đầu một viên chuẩn úy hải quân và véo tai anh ta một cách thân mật, rồi hỏi Manning là Thủy thủ trưởng về các trách nhiệm của anh này. Ông “trông có vẻ khá thoải mái”, theo lời một chuẩn úy khác là George Home, “và hoàn toàn tự nhiên như thể ông ấy đang trong một chuyến du ngoạn trên du thuyền hoàng gia của mình vậy”. Ông nhanh chóng giành được cảm tình của mọi người trên tàu. Một sĩ quan viết rằng “hàm răng của ông ấy rất đều, trắng như ngà voi, và miệng ông ấy khá duyên mà tôi chưa từng thấy trên bất cứ khuôn mặt nào khác”. Bản thân Maitland cũng phải thừa nhận:
⚝ ✽ ⚝
Trong chuyến đi tới Anh, Napoleon “không thể hiện sự suy sụp tinh thần”, và được đối xử với sự tôn trọng dành cho một nguyên thủ quốc gia. Ông cho Maitland và Đô đốc Hotham, người lên tàu không lâu sau cuộc đầu hàng, xem thư viện xách tay và chiếc giường dã chiến rộng 76,2 cm của mình, hỏi rất nhiều câu hỏi bằng thứ tiếng Anh đứt quãng, khó hiểu, và nói giá như Charles James Fox còn sống, “sự thể sẽ không bao giờ tới nước này”. Vào bữa tối thứ hai, ông vỗ nhẹ lên đầu Maitland và nói, “Nếu không phải vì người Anh các ông, ta đáng lẽ đã là Hoàng đế phương Đông, nhưng ở bất cứ nơi nào có nước để một chiếc tàu có thể nổi, chúng ta chắc chắn đều gặp các ông chắn trên đường mình.”
Câu hỏi về việc đối xử ra sao với tù nhân của họ là một vấn đề hóc búa với người Anh. Thời kỳ Một trăm ngày sau cuộc trở về từ Elba của ông đã khiến gần 100.000 người thương vong ở mọi bên, và không thể mạo hiểm để việc này lặp lại. Vào ngày 20 tháng Bảy, Huân tước Liverpool viết cho Bộ trưởng Ngoại giao-Huân tước Castlereagh đang ở Vienna, để báo cho ông ta biết quan điểm của nội các với vấn đề này:
⚝ ✽ ⚝
Napoleon đã có một số nhận xét quá lạc quan về sự nghiệp của mình, nhưng cả kẻ thù của ông cũng thế.
Napoleon nhìn nước Pháp lần cuối cùng ngày 23 tháng Bảy, hướng “nhiều cái nhìn buồn bã về phía bờ biển” nhưng đưa ra rất ít nhận xét. Sau khi họ thả neo tại Torbay bên bờ biển miền Nam của Anh vào hôm sau, ông lập tức trở thành một “đối tượng gây tò mò” không thể cưỡng nổi cho những người tham quan, một số đã đi từ xa tận Glasgow tới để được thoáng nhìn thấy ông – quả thực chiếc Bellerophon đã phải thả những chiếc xuồng xuống quanh tàu để ngăn họ lại. Ông đi ra ngoài boong và xuất hiện trên mạn tàu và cửa sổ cuối tàu để làm vui lòng công chúng, nói rằng Torbay khiến ông nhớ tới Portoferraio. Maitland ghi nhận rằng Napoleon, “bất cứ khi nào thấy một phụ nữ ăn mặc tươm tất, liền bỏ mũ ra, và cúi chào họ.”
Ở Plymouth ngày 27, Napoleon thậm chí còn trở nên nổi tiếng hơn nhiều; ba ngày sau Maitland ước tính rằng có tới cả nghìn chiếc thuyền tụ tập lại quanh tàu, trung bình tám người trên mỗi thuyền. Trong khi đó Napoleon “thường xuyên ngủ thiếp đi trên sofa, sau khi đã trở nên rất uể oải trong vòng hai hay ba năm gần đây”, một nhận xét thật đáng tò mò từ một người mới chỉ biết ông có 12 ngày. Tuy nhiên, sự lãng quên dễ chịu này kết thúc lúc 10:30 sáng 31 tháng Bảy, khi Đô đốc-Huân tước Keith và Ngài Henry Bunbury Thứ trưởng Bộ Chiến tranh lên tàu Bellerophon để thông báo cho Napoleon – người mà họ gọi là “Tướng Bonaparte” – về số phận được dự kiến cho ông trên đảo St Helena, điều mà ông đã được báo trước thông qua việc đọc báo Anh. Họ nói với ông rằng ông có thể mang theo mình ba sĩ quan và 12 người hầu cận, nhưng không phải là Savary hay Tướng Lallemand, cả hai sẽ bị giam cầm ở Malta lần lượt vì vụ sát hại Công tước d’Enghien và vì phản bội nhà Bourbon.
Napoleon trả lời Keith (hoặc với sự trang trọng của người Gaule, hoặc với sự đóng kịch lố bịch, tùy cách nhìn) với tuyên bố rằng “thà máu mình vấy lên các tấm ván sàn của chiếc Bellerophon” còn hơn là tới St Helena, và rằng quyết định này “sẽ phủ một tấm màn đen lên lịch sử sau này của Anh”. Ông nói thêm rằng khí hậu ở đó sẽ giết mình trong vòng ba tháng. Sau khi Keith và Bunbury đã rời đi, Napoleon nói với Maitland: “Điều này còn tồi tệ hơn cả chiếc lồng sắt của Tamerlaine. Ta thà bị giao nộp cho nhà Bourbon còn hơn. Trong những lời nhục mạ khác… họ gọi ta là Tướng, hay có thể gọi ta là Tổng Giám mục cũng vậy thôi”. Vài người trong số những nhân vật nóng nảy nhất đoàn tùy tùng của ông đồng ý rằng chết ở St Helena sẽ “rất ghê tởm!” và “Bị giết khi tự vệ hay đốt kho thuốc súng còn hơn”. Cũng tối đó, Tướng Montholon ngăn Fanny, người vợ gốc Anh đang quẫn trí và suy sụp của Bertrand, khỏi trầm mình khi kéo bà ta lại từ một ô cửa thành tàu nơi bà ta đang định nhảy xuống.
Bất chấp việc đã gửi một lá thư nữa tới Hoàng thân-Nhiếp chính phản đối rằng “Ta không phải là một tù nhân, ta là một vị khách của Anh”, vào khoảng trưa 7 tháng Tám, Napoleon vẫn bị đưa sang chiến hạm 80 pháo HMS Northumberland do Chuẩn đô đốc-Ngài George Cockburn (một trong những viên chỉ huy đã đốt trụi Washington vào năm trước) chỉ huy để thực hiện chuyến đi dài 7.040 km tới St Helena. Ông được tháp tùng bởi một đoàn tùy tùng gồm 26 người tình nguyện đi tới đầu kia của Trái đất cùng ông; một số khác, như em gái Pauline của ông và Méneval đã đề nghị được đi, song bị nhà cầm quyền Anh từ chối. Đi theo có: Tướng Henri Bertrand cùng bà vợ rõ ràng khá miễn cưỡng và ba đứa con, Montholon cùng người vợ Albine xinh đẹp và con trai 3 tuổi Tristan, Hầu tước Emmanuel de Las Cases (người có kỹ năng thư ký tốt và nói thạo tiếng Anh, dù ông ta vờ không biết) và con trai 13 tuổi, Tướng Gaspard Gourgaud, các hầu phòng Marchand và Noverraz, “Mamluk Ali” người hầu kiêm vệ sĩ của Napoleon, coi ngựa và đánh xe là hai anh em Achille và Joseph Archambault, người hầu có tên Gentilini, quản gia Francheschi Cipriani, quản lý hầm rượu kiêm thợ làm bánh Piéron, đầu bếp Le Page, thợ cạo kiêm lễ tân người Corse tên là Santini, và Rousseau làm nhiệm vụ thắp đèn và cũng là người chế tạo đồ chơi. Còn có cả bốn gia nhân của nhà Montholon và nhà Bertrand. Khi Louis Maingault bác sĩ của Napoleon từ chối đi theo, bác sĩ phẫu thuật trên tàu Bellerophon người Ireland tên là Barry O’Meara đã thay vị trí của ông ta. Tất cả đều bị tước hết kiếm trừ Napoleon, và Cockburn cũng tịch thu 4.000 đồng napoleon vàng từ họ, chỉ cho họ một ít tiền lẻ để chơi bài. (Dẫu vậy, tám thành viên đoàn tùy tùng đã giấu được các thắt lưng đựng tiền tổng cộng một phần tư triệu franc, có giá trị tương đương 5.000 bảng Anh tại St Helena.)
Trong đêm đầu tiên trên tàu Northumberland , các sĩ quan Anh của tàu đã thắng được bảy hay tám đồng napoleon từ cựu Hoàng đế khi chơi bài vingt-et-un , và ông “chuyện gẫu với một thái độ rất vui vẻ cùng mọi người”, như một người nhớ lại. “Vào bữa tối ông ấy ăn hăng hái, thử gần như tất cả các món, khen ngợi mọi thứ, và có vẻ hoàn toàn cam chịu với số phận của mình”. Cho dù không có lợi thế nào để giành lấy, nhưng Napoleon tỏ ra rất dễ mến trong chuyến đi kéo dài 10 tuần – ít nhất là những khi ông không bị say sóng “một cách khổ sở” – hỏi han về tình trạng và tính chất của lực lượng Anh ở Ấn Độ, quả quyết rằng ông đã rất trông đợi Grouchy tới nơi tại Waterloo, tuyên bố rằng Sa hoàng Alexander là “một người năng động và thông minh hơn bất cứ vị quân chủ nào ở châu Âu, nhưng ông ta cực kỳ phản trắc”, khẳng định Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã kín đáo hứa không đánh lại ông năm 1815, hỏi vị tuyên úy trên tàu về Anh giáo và Tổng lãnh sự Anh tại Madeira, nơi họ đi qua vào ngày 23 tháng Tám, về sản vật của hòn đảo, độ cao trên mực nước biển và dân cư của nó. Ông cũng thảo luận về các kế hoạch của mình để chiếm các đảo trên eo biển Anh, dự đoán rằng Bernadotte sẽ không tồn tại được ở Thụy Điển, mô tả Desaix như “viên tướng giỏi nhất ông từng biết”, và phủ nhận mối quan hệ với nữ nghệ sĩ có tên Saint-Aubin, nói rằng “Những phụ nữ xinh đẹp nhất là những người khó theo đuổi nhất.”
Vào phần lớn các ngày trong chuyến đi, Napoleon dậy vào khoảng 10 đến 11 giờ, ăn sáng với thịt và rượu vang trong phòng ngủ của mình, ở đó cho đến khi thay đồ vào lúc 3 giờ chiều, tản bộ một quãng ngắn trên boong, chơi cờ vua với Montholon (người thường giả vờ thua) cho tới lúc ăn tối vào 5 giờ chiều, bữa ăn mà Cockburn ghi nhận ông “ăn và uống rất nhiều, và nói rất ít. Ông ấy thích mọi loại thịt, ăn mặc chỉn chu, và không bao giờ động đến rau”. Sau đó ông đi dạo trên boong với Cockburn trong 90 phút, chơi bài từ 8 đến 10 giờ tối, và đi ngủ. Ông học các bài học tiếng Anh, phàn nàn về cái nóng, đi bộ trên boong dưới trời mưa, tăng cân, và giải các bài toán lấy căn bậc hai và căn bậc ba với Gourgaud. Vào ngày 15 tháng Tám, ông nói về những sinh nhật trước – “Ồ, thật khác làm sao!” và mãi đến đêm, lúc 11:30 mới đi ngủ tối. Cũng hôm đó, Marie Louise viết cho Hoàng đế Francis về chồng mình, rằng:
⚝ ✽ ⚝
Cockburn sẵn lòng thay đổi lộ trình của họ để đi qua giữa các đảo Gomera và Palma thuộc quần đảo Canary, vì Napoleon muốn nhìn thấy đỉnh núi ở Tenerife, và khi họ đi qua đường xích đạo vào ngày 23 tháng Chín, cựu Hoàng đế ra lệnh ném 100 đồng napoleon qua mạn tàu như một lễ vật dâng lên thần Neptune. Bertrand nghĩ như thế là quá nhiều, còn Cockburn thì cho rằng Neptune sẽ hài lòng với năm đồng. Tuần kế tiếp, ông nói về Waterloo – “À! Giá như có thể thực hiện lại nó!” – điều ông sẽ thường hay nói trong năm năm sau đó.
Đích đến của họ cuối cùng cũng hiện ra trong tầm nhìn vào Thứ bảy, 14 tháng Mười. Có diện tích chỉ 220 km² và có chu vi 45 km, khối đá núi lửa St Helena nằm cách Angola 1.840 km, cách Brazil trên 3.200 km và cách mảnh đất gần nhất là Đảo Ascension 1.120 km. Nó được mô tả “là nằm cách xa khỏi bất cứ nơi nào khác trên thế giới”. Từ giữa thế kỷ 17 tới năm 1834, hòn đảo hẻo lánh, ít được biết đến nhất này của Đế chế Anh được dùng làm nơi tiếp nước ngọt trên hành trình đi và về từ Ấn Độ. Vào năm 1815, dân cư của nó gồm 3.395 người Âu, 218 nô lệ da đen, 489 người Hoa, và 116 người Mã Lai. Chính phủ Anh đã có một thỏa thuận với Công ty Đông Ấn đang quản lý hòn đảo, theo đó chính phủ đồng ý chi trả cho việc giam giữ Napoleon ở đây.
Tới thành phố duy nhất của St Helena là Jamestown bằng đường biển, sẽ thấy cảnh tượng vô cùng hùng vĩ khi những vách đá đen cao tới 180 m vươn dựng đứng sừng sững hai bên bến cảng nhỏ. Ngày 15 tháng Mười, tựa vào vai Marchand, Napoleon quan sát hòn đảo qua chiếc ống nhòm ông đã dùng tại Austerlitz. “Đó không phải là một nơi hấp dẫn”, ông nói. “Đáng lẽ tốt hơn ta nên ở lại Ai Cập”. Với hai chiếc tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh liên tục tuần tra quanh đảo, và không tàu thuyền nào có thể tiếp cận từ bất cứ hướng nào mà không bị phát hiện bởi rất nhiều trạm quan sát trên đảo có liên hệ với nhau, ông chắc đã biết là mình sẽ chết tại đây.
Ngày 17 tháng Mười, trong cơn gió đông bắc mạnh thổi dữ dội, Napoleon xuống tàu và được nhanh chóng đưa tới Longwood, ngôi nhà đã được chuẩn bị sẵn cho ông trên cao nguyên Deadwood. Longwood từng là nơi ở của Phó thống đốc, song ông này chỉ ở đó mỗi năm có ba tháng, vì độ cao 450 m trên mực nước biển của nơi này đồng nghĩa với việc nó có – và giờ vẫn có – một vi khí hậu khác biệt so với phần còn lại của hòn đảo nhiệt đới ôn hòa. Các quan chức Anh từng sống tại St Helena có thể có lý khi nói khí hậu hòn đảo “có lẽ là ôn hòa nhất và tốt lành nhất trên thế giới”. Wellington, đã tới thăm đảo năm 1805 trên đường từ Ấn Độ về, viết là “khí hậu có vẻ lành mạnh nhất mà tôi đã từng sống”. Song những vị khách này chủ yếu đã lưu lại ở trong hoặc quanh Jamestown. Longwood, trái lại, nằm trong mây hơn 300 ngày mỗi năm. Độ ẩm thường ở mức 78%, nhưng rất thường đạt tới 100%. Vì thế mọi thứ đều thường xuyên ẩm ướt, kể cả giấy dán tường. Những cái cây, cong gập xuống vì gió, đều có địa y mọc đầy trên chúng. Các bộ bài của Napoleon phải được sấy khô trong lò để tránh không cho chúng dính chặt vào nhau.
Longwood cũng đầy ắp mối, chuột, ruồi, muỗi, và gián, trong đó ruồi muỗi gián ngày nay vẫn còn (bất chấp những thành quả đẹp đẽ do cư dân đảo và là Lãnh sự danh dự Pháp, Michel Dancoisne-Martineau, thực hiện để cải tạo, duy tu nơi ở). Sự ẩm thấp nhớp nháp trong suốt mùa hè từ tháng Chín tới tháng Hai đồng nghĩa với việc Napoleon và tùy tùng của ông liên tục bị viêm phế quản, chảy nước mũi, và viêm họng hành hạ. Nhưng ngoài tư dinh của Thống đốc cách đó gần 5 km, thì đây là ngôi nhà duy nhất đủ lớn và biệt lập để làm nơi ở cho cựu Hoàng đế và tùy tùng gồm các triều thần và người hầu của ông, vị trí nhô cao trên cao nguyên của nó giúp cho việc canh giữ từ trại lính Deadwood gần đó dễ dàng hơn. Một trạm báo tin bằng cờ hiệu đặt tại Longwood cho Thống đốc đảo biết Napoleon đang làm gì, với sáu khả năng từ “Tất cả đều ổn với Tướng Bonaparte” tới “Tướng Bonaparte mất tích.”
•••
Trong bảy tuần để trang trí lại và mở rộng Longwood, Napoleon sống trong ngôi nhà gỗ một tầng đẹp đẽ có tên The Briars nằm gần Jamestown hơn, của gia đình viên quản lý của Công ty Đông Ấn William Balcombe, tại đây ông có một phòng và một nhà lều trong khu vườn. Đây là quãng thời gian hạnh phúc nhất của ông tại St Helena, một phần vì ông đã thiết lập một tình bạn khó tin, thân thiết và trong sáng với cô con gái thứ hai trong bốn đứa con còn sống của gia đình Balcombe, Betsy, một cô bé 14 tuổi đầy sức sống, nói thứ tiếng Pháp có thể hiểu được dù không đúng ngữ pháp, và được Napoleon đối đãi như một ông bác cưng chiều cháu gái. Theo lời cô bé kể lại, thoạt đầu mình được dạy dỗ để coi Napoleon như “một con quỷ to lớn hoặc một gã khổng lồ, với một con mắt to tóe lửa ở giữa trán, và những cái răng dài chìa ra khỏi miệng, được dùng để xé các cô bé thành từng mảnh và ăn ngấu nghiến”, nhưng cô bé đã nhanh chóng trở nên yêu quý ông. “Nụ cười của ông ấy, sự biểu cảm trong mắt ông ấy, đều không thể vẽ lại được trên toan, và tạo nên sức cuốn hút chủ yếu của Napoleon”, sau này cô bé viết. “Mái tóc ông ấy màu nâu sẫm, và óng mượt như của một đứa trẻ mà quả thực là có phần hơi quá với một người đàn ông, sự mềm mại khiến nó trông có vẻ thưa.”
Tình bạn bắt đầu khi Napoleon đố Betsy về các thủ đô của châu Âu. Khi ông hỏi cô bé về thủ đô của Nga, cô bé trả lời “Bây giờ là Petersburg; trước đây là Moscow”, đến đây “Ông ấy đột ngột quay lại, và đôi mắt sắc sảo của ông ấy nhìn chăm chăm vào khuôn mặt tôi, ông ấy nghiêm nghị hỏi, ‘Ai đã đốt nó?’” Cô bé lặng đi, cho tới khi ông bật cười và nói: “Phải, phải. Cháu biết rất rõ là chính ta đã đốt nó!” Đến đây cô bé chỉnh lại ông: “Thưa ngài, cháu tin rằng người Nga đã đốt nó để đuổi người Pháp”. Thế là Napoleon bật cười và tình bạn với “Tiểu thư Betsee”, “lettle monkee”,(*) “bambina”(*) và “cô nhóc đoảng vị” được hình thành. Họ cùng nhau hát các bài hát, và cùng nhau đi đều bước quanh phòng trong khi ngân nga không đúng giai điệu bài “Vive Henri Quatre” (Henri Đệ Tứ muôn năm). “Tôi chưa bao giờ gặp bất cứ ai chịu đựng những hành vi thoải mái kiểu trẻ con tốt như Napoleon”, Betsy nhớ lại. “Ông ấy có vẻ như tham gia được vào mọi trò nô giỡn hay vui đùa với niềm hân hoan của một đứa trẻ, và dù tôi thường xuyên thách đố nghiêm trọng sự kiên nhẫn của ông ấy, nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông ấy mất bình tĩnh hoặc quay lại với địa vị và tuổi tác của mình.”
Khi sống cùng nhà Balcombe, Napoleon dành thời gian để chơi cờ vua, bida, bài whist (với Betsy, phần thưởng là mận tẩm đường) và bịt mắt bắt dê (một trò chơi của trẻ con), tập bắn súng ngắn, và tán dóc xã giao trên đảo. Ông ở nhiều giờ trong bồn tắm nước nóng, ngắm nhìn những đám mây đang bay về phía Longwood, “lắng nghe hàng nghìn con dế” sau lúc hoàng hôn, và lao đi trên cỗ xe ngựa hai bánh của mình với tốc độ chóng mặt qua những con đường ít ỏi trên đảo nhưng nôn nao. Tự do khỏi mọi trách nhiệm, ông cho phép mình làm những chuyện bồng bột, kiểu như một thời thơ ấu thứ hai. Khi Alexander anh trai của Betsy gọi ông bằng biệt danh tiếng Anh “Boney”, ông đã không hiểu sự ám chỉ, nhất là sau khi Las Cases dịch nó ra theo nghĩa đen. Mãi sau này ông mới hiểu cái điều quá hiển nhiên đó và nói: “Ta không hề giơ xương.”
Napoleon nói với Betsy rằng Marie Louise là “một tạo vật đáng yêu, và một người vợ rất tốt”, và một cách ít thuyết phục hơn rằng “hẳn cô ấy đã theo ông tới St Helena nếu cô ấy được phép”. Ông khen ngợi vẻ đẹp của Pauline và Cô George cũng như của Albine de Montholon, người mà Betsy nói là “nổi tiếng vì thân hình cao ráo và duyên dáng của cô ấy”. Albine đã có thai trong chuyến đi tới St Helena, nhưng cho dù đứa trẻ được đặt tên thánh là Napoléone-Marie-Hélène, nó vẫn không được cho là con gái của Napoleon. Tuy nhiên, vào thời gian sau đó, Albine đã trở thành nhân tình cuối cùng của Napoleon. Bà Bertrand, Gourgaud, và những người khác coi chuyện này xảy ra là đương nhiên – phòng ngủ của Albine chỉ cách phòng ngủ của Napoleon có căn phòng để bát đĩa – và quả thực bà Bertrand đã ghen, cho dù bản thân bà ta đã từ chối một đề nghị từ Napoleon. Albine dường như hiểu rõ Napoleon. “Ngọn lửa của ông ấy, vì cần nhiên liệu, đã thiêu đốt bản thân ông ấy và những người xung quanh ông ấy”, sau này cô viết. Ngày 26 tháng Một năm 1818, cô sinh được một cô con gái nữa, Joséphine-Napoléone, mà rất có thể là đứa con ngoài giá thú thứ ba và cuối cùng của Napoleon, nhưng đã chết tại Dinh thự Belle-Vue tại Brussels ngày 30 tháng Chín năm 1819, sau khi Albine đã trở về châu Âu. (Cô quay về hoặc vì “lý do sức khỏe” như được tuyên bố, hoặc vì cô muốn thoát khỏi St Helena để tiếp tục một mối quan hệ với Thiếu tá Basil Jackson, một cựu binh tại Waterloo và hiện là trợ lý của Thống đốc đảo, và cũng rời St Helena một tuần sau đó.)
Sự tồn tại của một mối quan hệ tay ba (hay tay tư, nếu kể cả Jackson) không nhất thiết có nghĩa là Montholon căm ghét Napoleon, như một số nhà văn hiện đại đã phỏng đoán. Những kiểu quan hệ như thế không có gì bất thường trong giới quý tộc Pháp, và vì ông đã từng ngủ với vợ của Maret, vợ của Duchâtel thành viên Hội đồng Nhà nước, nhân tình của Chaptal, và người đọc sách cho Pauline, nên triều đình Napoleon rõ ràng là thừa nhận khái niệm quyền của chủ nhân. Montholon, một người luôn phục tùng, sẽ khó lòng ở lại St Helena sau khi Albine quay về châu Âu và tiếp tục là một nhân vật ủng hộ Bonaparte hàng đầu trong suốt đời mình – và phải ngồi tù bảy năm vì can dự vào mưu toan đảo chính của cháu Napoleon năm 1840 – nếu ông ta căm ghét ông.
Ngày 10 tháng Mười hai năm 1815, Napoleon chuyển tới Longwood với trái tim nặng trĩu. Khi Bertrand, sống gần đó trong một ngôi nhà thôn quê ở Hutt’s Gate, nói với ông rằng “cung điện mới” của ông đã sẵn sàng, ông trả lời: “Đừng gọi nó là cung điện của ta, mà là nấm mồ của ta”. Ngôi nhà gồm một phòng chơi bida (với những bức tường màu xanh lục lòe loẹt đầy kinh ngạc, vì Công ty Đông Ấn sẵn có nhiều thứ sơn màu này), một phòng khách, phòng ăn, thư viện, nơi ở cho người phục vụ, và khu phòng ngủ cho gia đình Montholon. Chính phủ Anh đã nhất quyết rằng Napoleon chỉ có địa vị của “một sĩ quan cấp tướng không được sử dụng”, không được gọi là hoàng đế trong bất cứ hoàn cảnh nào để tránh xúc phạm nhà Bourbon (dẫu vậy, giữ lại những danh xưng thời Trung cổ, George III đã chính thức gộp “Vua Pháp” vào các tước hiệu của mình trong 42 năm trị vì đầu tiên của ông ta). Người Anh do đó có xu hướng gọi Napoleon là “Ngài”, “Quý ngài”, hay “Tướng Bonaparte”. Khi một giấy mời tới dự một vũ hội được gửi tới Longwood cho “Tướng Bonaparte”, Napoleon châm biếm: “Hãy gửi giấy mời tới cho người được gửi; lần cuối cùng ta nghe nói đến ông ấy là ở Kim tự tháp và núi Tabor.”
Cho dù Napoleon không được phép có báo đọc theo lệnh của Huân tước Bathurst, Bộ trưởng Chiến tranh, vì lý do an ninh quốc gia, tin tức dẫu vậy vẫn rò rỉ ra. Khi ông biết Joseph đã thoát khỏi bị bắt và đang sống tại Bordentown, New Jersey, ông “trầm ngâm một thời gian” – chắc hẳn ngẫm nghĩ xem điều gì đã có thể xảy ra nếu ông chấp nhận lời đề nghị tráo tên – trước khi ông “bày tỏ sự hài lòng sau đó”. Cho dù ông buồn phiền trước vụ hành quyết vô nhân đạo Tướng de La Bédoyère của nhà Bourbon ngày 19 tháng Tám năm 1815, thì chính ông lại phản ứng một cách đáng xấu hổ trước tin họ xử bắn Thống chế Ney, khi nói với Gourgaud rằng: “Ney phải nhận những gì mà ông ta xứng đáng. Ta thấy tiếc cho ông ta, vì ông ta là vô giá trên chiến trường nhưng lại quá bốc đồng, quá ngu ngốc nên không thể thành công trong bất cứ điều gì trừ chuyện đánh nhau”. Những nhận xét sau đó về chuyện Ney phản bội ông ở Fontainebleau hồi tháng Tư năm 1814 lý giải cho sự tức giận của ông.
Vụ hành quyết Murat ở Calabria bởi tay những người Naples ủng hộ nhà Bourbon ban đầu cũng tạo ra một phản ứng tương tự – “Murat đã chỉ nhận những gì mà ông ta xứng đáng” – nhưng khi ngẫm nghĩ thêm ông nói: “Tất cả là lỗi của riêng ta. Ta đáng lẽ chỉ nên để ông ta làm thống chế, và không bao giờ biến ông ta thành Đại Công tước xứ Berg, thành Vua Naples lại càng không. Ông ta đã mất trí. Ông ta rất tham vọng”. Đề phòng có ai đó nghĩ đây chỉ là đạo đức giả, ông nói thêm, “Ta đã vươn lên đỉnh cao từng bước một, nhưng Murat muốn chỉ trong một bước trở thành chủ nhân của mọi thứ”. Napoleon rất ấn tượng khi ông biết được về cuộc đào thoát kịch tính của Lavalette khỏi nhà tù Conciergerie ở Paris, nơi ông ta đang chờ bị hành quyết vì tội phản quốc, còn vợ ông ta – người cho tới lúc đó Napoleon vẫn nghĩ là “một người bé nhỏ điên rồ” – đã thế chỗ của chồng và cho phép ông ta trốn thoát nhờ mặc quần áo của bà ta. (Với sự rộng lượng quen thuộc của mình, nhà Bourbon đã giam cầm bà ta cho tới khi bà ta mất trí.) Napoleon tuyên bố ông “vui mừng” khi nghe tin Marie Walewska kết hôn vào năm 1816 với Công tước d’Ornano, một người thân Bonaparte. “Bà ta giàu”, ông nói về 10.000 franc mỗi tháng mà ông đã chuyển cho bà ta trước đây, “vì chắc là bà ta đã để ra được những khoản đáng kể”. Bà ta không có nhiều thời gian để tận hưởng chúng, vì đến năm sau bà ta qua đời vì suy thận ở Liège, nơi Công tước đang lưu vong. Napoleon hoàn toàn sẵn sàng kể tên các tình nhân của ông cho Gourgaud trên đảo St Helena khi bàn luận về “vận may” của ông với phụ nữ, cho dù ông nhất quyết nói rằng ông chỉ có sáu hay bảy tình nhân, trong khi con số chính xác ít nhất phải gấp ba lần như vậy.
•••
Cho tới ngày 14 tháng Tư năm 1816, mặc dù sự giam giữ Napoleon không hề tiện nghi hay vui vẻ theo bất cứ cách hiểu nào – vì với một con người vĩ đại như vậy trên một hòn đảo bé nhỏ như thế thì không thể vui vẻ được – ít nhất thì chỉ chấp nhận được một cách tương đối. Nhưng vào ngày đó một thống đốc mới, Hudson Lowe, đã tới St Helena, kế nhiệm vị Đại tá hòa nhã Mark Wilks. Trong cuộc gặp đầu tiên của họ, Napoleon đã tặng Lowe một chiếc đồng hồ vàng – ngày nay có thể thấy tại bảo tàng Quân đội Quốc gia tại London – nhưng mối quan hệ giữa họ xấu đi nhanh chóng. Napoleon vốn đã bực bội với số phận của mình, còn vị cai ngục mới câu nệ có đầu óc nghèo nàn và bị ám ảnh, thì quyết định này cho vị trí ấy là một lựa chọn tồi. Montholon sau này thừa nhận rằng “một thiên thần từ thiên đường xuống cũng không thể làm vui lòng chúng tôi như Thống đốc St Helena”, nhưng binh nghiệp của Lowe chắc chắn dẫn đến một cuộc xung đột. Trong bản thảo tập tự truyện không được xuất bản của ông tại Thư viện Anh, Lowe mô tả ông ta đã dẫn đầu một đại đội ra sao trong cuộc tấn công ban đêm của Nelson vào cứ điểm Quốc ước trong vịnh San Firenzo thuộc Corse hồi đầu tháng Hai năm 1794:
⚝ ✽ ⚝
Vì Napoleon đã rời trung đoàn vài tháng trước đó, còn Lowe lúc ấy lại giẫm lên các đồng đội bị thương hoặc đã chết của ông, chiến đấu bên cạnh một lực lượng người Corse chống Pháp mà sau này do chính Lowe trực tiếp chỉ huy và được gọi là Khinh binh Hoàng gia Corse, nên bị Napoleon khinh bỉ như những kẻ phản bội.
Lowe cũng đã chiến đấu tại Bastia và Calvi, từng đóng tại Casa Bonaparte ở Ajaccio trước khi phục vụ tại Bồ Đào Nha và Minorca, rồi chỉ huy Khinh binh Corse tại Ai Cập, nơi ông dính líu đến cuộc đầu hàng của quân Pháp năm 1801, áp giải một đạo quân Pháp bại trận từ Cairo tới nơi họ lên tàu tại Rosetta, một khoảnh khắc ê chề cho thời kỳ tổng tài của Napoleon. Ông ta đã có hai năm phụ trách một tờ báo in ở Capri để đảm bảo rằng mọi thành công của quân Đồng minh trong Chiến tranh Bán đảo đều được kín đáo công bố tại Naples và các thành phố khác tại Italy, khiến Napoleon không thể tôn trọng chuyện đó như công việc chính đáng của một người lính. Thêm nữa, Lowe biết và rất ngưỡng mộ Sa hoàng Alexander, có mặt ở trận Leipzig sau khi được biệt phái tới ban tham mưu của Blücher, người mà ông ta cũng kính trọng. Ông ta có mặt tại các thất bại của Napoleon ở La Rothière và Lâon, và tiến vào Paris sau khi Marmont đầu hàng. Ông ta thậm chí đã đưa ra đề xuất vào đầu năm 1815 rằng sườn dốc tại Waterloo cần được công sự hóa (cho dù ông ta không có mặt trong trận đánh, vì đang chỉ huy một đơn vị trong lực lượng đã đánh bật Brunera khỏi Toulon vào tháng Bảy). Vì thế, trong 34 năm tại ngũ, ông ta đã có tổng cộng không quá 12 tháng nghỉ phép, và đã chứng kiến nhiều trong những thất bại ê chề nhất của Napoleon mà đã làm đảo ngược các chiến thắng trước đó của ông. Không thể có sự đồng cảm giữa hai người, và Lowe khó lòng tìm thấy bất cứ khía cạnh nào trong tính cách của Napoleon là thu hút. “Ông chưa bao giờ chỉ huy ai ngoài những tên đào ngũ người Corse”, Napoleon dè bỉu ông ta trong lần nói chuyện cuối cùng của họ. “Ông không phải là một vị tướng, ông chỉ là một kẻ bàn giấy.”
Những người ủng hộ Napoleon mô tả Lowe không chỉ là kẻ dốt nát tàn bạo và bệnh hoạn (những điều không đúng với ông ta), mà còn thô lỗ ngạo mạn và nhỏ nhen (những điều đúng với ông ta). Bá tước xứ Albemarle đời thứ 5, từng chiến đấu tại Waterloo, ghi lại rằng một số sĩ quan của Khinh binh Corse nghĩ Lowe là “một kẻ có phong cách thô lỗ và một tính cách khó chịu”. Wellington thậm chí còn cay nghiệt hơn khi gọi Lowe là “một lựa chọn rất tồi; ông ta là một người thiếu giáo dục và óc xét đoán. Ông ta là một kẻ ngu ngốc, ông ta không hề biết gì về thế giới, và như tất cả những kẻ không biết gì về thế giới, ông ta đa nghi và ghen tỵ”. Nếu xét tới việc Napoleon đã có quan hệ tốt như thế nào với những người Anh khác – trong đó có Fox, Cornwallis, Yarmouth, Campbell, Macnamara, Ebrington, Russell, Fazakerley, Venables-Vernon, Douglas, Ussher, Maitland, O’Meara, Cockburn và gia đình Balcombe, cũng như nhiều người tới thăm St Helena – thì Anh đã lãng phí một cơ hội khi cử tới đó một quân nhân khắc nghiệt về kỷ luật và thiếu đồng cảm như vậy. Lẽ ra đã có thể tận dụng và khai thác được Napoleon về vô vàn bí mật chính trị của các triều đình châu Âu trong 16 năm trước, ông đã từng cho Cockburn biết những bí mật hải quân hữu dụng về việc đặt mìn ở cảng Cherbourg.
Napoleon từ chối gặp Lowe nhiều hơn sáu lần trong bốn tháng, bất chấp việc chỉ sống cách ông ta chưa tới 5 km, sau đó hai người tiến hành một cuộc chiến cực kỳ nhỏ mọn chống lại nhau cho tới khi Napoleon qua đời năm năm sau đó. Lowe phàn nàn về số lượng đóm Longwood dùng nhóm lửa, khiển trách William Balcombe khi Betsy cưỡi một trong những con ngựa của Napoleon, từ chối cho phép lên lại dây chiếc dương cầm của Napoleon, ngăn không cho ông nhận sách lịch sử, một bức tượng bán thân Vua La Mã và bộ cờ vua bằng ngà voi với chữ “N” biểu tượng đế chế khắc trên chúng. (Napoleon không được phép liên hệ dù dưới hình thức nào với con trai mình; cậu ta bị ngăn cản học tiếng Pháp và được phong một tước hiệu Áo, Công tước xứ Reichstadt, năm 1818.) Lowe cũng từ chối cho phép Napoleon mua sự tự do cho Toby, nô lệ làm vườn người Mã Lai lớn tuổi của nhà Balcombe, cho dù Lowe đã hủy bỏ tình trạng nô lệ cho tất cả trẻ em sinh sau Lễ Giáng sinh năm 1818. Ông ta thậm chí còn từ chối đề nghị của Napoleon muốn được xem con trăn của Thuyền trưởng Murray Maxwell – nó có thể nuốt một con dê – và cấm Chánh tuyên úy của St Helena nhận một hộp đựng thuốc lá hít từ Napoleon, coi đó là mưu toan hối lộ một viên chức.
Hành động lố bịch nhất của Lowe diễn ra vào tháng Năm năm 1820, khi ông ta báo cáo với Huân tước Bathurst rằng Montholon đã nói chuyện với nhà truyền giáo Pháp trên đảo, Hầu tước de Montchenu, về thành công của Longwood trong việc trồng rau, và tặng ông này cả đậu xanh và đậu trắng trồng trong vườn nhà. Lowe cho rằng hành động này có ý nghĩa chính trị sâu xa, vì màu xanh lục là màu của những người ủng hộ Bonaparte còn trắng là màu của nhà Bourbon. “Hầu tước, theo tôi nhìn nhận”, Lowe báo cáo với Bathurst, “đáng lẽ đã hành động hợp lý hơn nếu ông ta từ chối không nhận cả hai, hay hạn chế ở việc chỉ đề nghị nhận đậu trắng thôi”. Đây không phải là lần duy nhất Lowe (có thể đoán là hoàn toàn không bối rối) nhắc tới chuyện màu sắc của đậu với Bộ trưởng Chiến tranh. Mong muốn học tiếng Anh, Napoleon yêu cầu gửi cho ông một cuốn chuyện ngụ ngôn cho trẻ em, trong đó có câu chuyện về một con sư tử bị ốm đã kiên cường chịu đựng sự sỉ nhục của những con vật khác cho tới khi rốt cuộc nó bị một con lừa đá vào mặt. “Ta có thể cam chịu mọi thứ ngoài điều này”, con sư tử nói trước khi chết. “Đó là ta và ông thống đốc của cháu”, Napoleon nói với Betsy.
Song việc quấy nhiễu và sự hoang tưởng không hề chỉ có một chiều. Napoleon đã cho xây một bức tường và một con hào để che tầm mắt lính canh của Lowe khi ông làm vườn; ông cho cất hết ghế đi để Lowe buộc phải đứng trong các cuộc gặp của họ như đứng trước một nguyên thủ quốc gia; ông cho trổ những cái lỗ – thực sự có dư luận tại St Helena nói rằng chính ông đã làm việc này với con dao nhíp của mình – trên các cửa chớp của phòng chơi bida để ông có thể bí mật theo dõi bốt gác trong vườn nhà mình, dù nó quay mặt khỏi ngôi nhà thay vì về phía này. Gọi Lowe là “tay sai của Sicily”, Napoleon thường xuyên nghi ngờ ông ta là một sát thủ được “đám đầu sỏ Anh” (tức Chính phủ Anh) cử tới, tuyên bố rằng lính canh quanh nhà đã được lệnh giết ông, và rằng một ngày nào đó ông sẽ bị giết bởi một nhát lê “do tai nạn”. “Ta không thể chịu nổi màu đỏ”, ông nói trong một cơn bài Anh, “đó là màu của Anh.”
Một trong những lĩnh vực đụng độ chính với Lowe là nỗ lực của Thống đốc nhằm cắt giảm chi phí cho việc giam giữ Napoleon, từ 20.000 xuống 12.000 bảng mỗi năm (tức là từ 400.000 xuống 240.000 franc). Những cuộc tranh cãi về các khoản chi phí của ông đụng tới cả giá và chất lượng bơ được phục vụ tại Longwood. Lowe thấy thật khó hiểu nổi tại sao Napoleon cần một người chuyên làm bánh và chuyên thắp đèn ở đó, nhưng trước những phản đối của Bertrand về các khoản cắt giảm, họ hiếm khi bị thiếu thốn. Chẳng hạn, trong ba tháng cuối năm 1816, 3.700 chai vang – trong đó có 830 chai vang đỏ – được chuyển tới Longwood.(*)
Thực ra Lowe không thể biết điều này, là Napoleon chưa bao giờ nghĩ tới việc tìm cách trốn khỏi St Helena, điều đáng ngạc nhiên nếu xét tới tính phiêu lưu trong phần đời còn lại của ông, và thực tế là cho tới tận Rochefort thì những lần đào thoát bằng đường biển trước đây của ông – Corse, Ai Cập, Elba – là thành công. Đúng là ông có giả vờ bỏ trốn ngay khi mới tới để đùa cợt, bằng cách đột nhiên cưỡi ngựa lao lên một vách núi và rời xa khỏi sĩ quan liên lạc của mình, Đại úy Thomas Poppleton thuộc Trung đoàn 53, song Cockburn đã không cần báo động và nói với Poppleton rằng có khả năng ông ta sẽ tìm thấy ông đã trở lại Longwood, và đúng là ông đã làm thế thật. Đã có nhiều thảo luận trong nhóm tùy tùng của ông về việc bỏ trốn, và một số kế hoạch, bao gồm cả những kế hoạch được đưa ra bởi Đại tá Latapie và Tướng Lallemand, người đã trốn thoát khỏi Malta hai tháng sau khi bị giam tại đó. (Latapie đã chiếm hòn đảo n