← Quay lại trang sách

KẾT LUẬN NAPOLEON ĐẠI ĐẾ

.

Con người vĩ đại nhất của hành động được sinh ra ở châu Âu kể từ Julius Caesar.

• Wilston Churchill nói về Napoleon

Ông là một con người vừa có thiên tài vĩ đại vừa có sự táo bạo lớn lao.

• Napoleon nói về Julius Caesar

SPIRIT SINISTER: ‘…Lý lẽ của tôi là Chiến tranh tạo ra lịch sử vô cùng hấp dẫn; còn Hòa bình thì thật tẻ nhạt khi đọc. Vì thế tôi ủng hộ Bonaparte vì lý do là ông ấy sẽ đem tới niềm vui cho hậu thế.’

• Thomas Hardy, The Dynasts (Những người trị vì)

⚝ ✽ ⚝

Điều gì khiến một nhà cai trị có biệt danh “Đại đế”? Alexander, Alfred, Charles, Peter, Frederick, và Catherine, tất cả đều là những nhân vật vĩ đại có ảnh hưởng quyết định tới lịch sử vào thời của họ. Dẫu thế, không khó để nghĩ tới những người khác cũng có sức ảnh hưởng hay sự nổi bật tương tự, và trên thực tế thường lại là những con người có phần tốt hơn (ít nhất theo các tiêu chuẩn hiện đại) nhưng đã không được gọi như vậy. Frederick Barbarossa, Henry II và Elizabeth I của Anh, Ferdinand và Isabella của Tây Ban Nha, Hoàng đế Charles V của La Mã Thần thánh (người đã trị vì nhiều lãnh thổ châu Âu hơn bất cứ ai khác trong giai đoạn giữa Charlemagne và Napoleon), “Vua Mặt trời” Louis XIV, và còn nữa.(*) Vậy tại sao nhân vật chính của cuốn sách này lại xứng đáng với biệt danh đó?

Napoleon Bonaparte là người đặt nền móng cho nước Pháp hiện đại, và tên tuổi của ông đã gắn với một thời đại mang tên Napoleon. Chỉ sau sáu năm sang Pháp tị nạn chính trị, không một xu dính túi, ông đã lên nắm quyền nhờ một cuộc đảo chính quân sự, và suốt phần đời còn lại của mình, cốt cách của ông trên hết thảy vẫn là của một sĩ quan quân đội. Đã có nhiều tài liệu viết về chất Corse trong con người ông, về gốc gác tiểu quý tộc của ông, về tư tưởng của chủ nghĩa Khai sáng mà ông hấp thụ, cũng như về nguồn cảm hứng từ thế giới cổ đại trong ông, song những năm tháng trưởng thành trong nhà trường quân đội ở Brienne và Học viện Quân sự mới thực sự tác động tới ông mạnh nhất, và từ những đặc thù của môi trường quân đội, ông xác lập đức tin cùng những giả thuyết của mình. Quân đội đã in đậm trong ông một niềm tin mạnh mẽ vào tầm quan trọng của trí tuệ ứng dụng, thứ tự cấp bậc dựa trên năng lực, luật pháp và trật tự, làm việc chăm chỉ, sự cứng cỏi về tinh thần và lòng dũng cảm về thể chất, cũng như sự khinh thường dành cho các luật sư và chính khách vụ lợi. Bất chấp về lý thuyết là một quý tộc, cuộc Cách mạng đã chứng kiến ông hào hứng chấp nhận những nguyên tắc ban đầu của nó về sự bình đẳng trước pháp luật, chính quyền lý trí, chế độ nhân tài và chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ, tất cả những ý tưởng đó đều rất phù hợp với những giả thiết của ông về những gì sẽ có ích cho quân đội Pháp. Ngược lại, bình đẳng về thu nhập, rối loạn xã hội, chủ nghĩa đại nghị, và tự do báo chí (được ông nhìn nhận như giấy phép cổ vũ sự nổi loạn) tất cả với ông đều mâu thuẫn với đạo lý quân sự. Ngay cả trong giai đoạn ngắn ngủi theo phái Jacobin của mình, ông cũng chưa bao giờ đón nhận chủ nghĩa quân bình. Và với tư cách một sĩ quan quân đội Pháp được thấm nhuần các đặc tính quân sự, ông đã vươn lên, chứng tỏ sự hữu dụng của mình với Cách mạng, đoạt lấy quyền lực và sau đó duy trì sự nắm quyền của mình.

Bất cứ tướng lĩnh nào – cấp bậc Napoleon đạt tới ở tuổi 24 – cuối cùng cần phải được đánh giá qua kết quả những trận đánh của người đó. Cho dù những cuộc chinh phục của ông kết thúc với thất bại và cảnh cầm tù nhục nhã, nhưng trong sự nghiệp quân sự ngắn ngủi mà đầy ắp hoạt động của mình, Napoleon đã đánh 60 trận chiến và vây hãm, và chỉ thua bảy lần – Acre, Aspern-Essling, Leipzig, La Rothière, Lâon, Arcis, và Waterloo. Cảm nhận về trận đánh cũng như năng lực đưa ra quyết định trên chiến trường của Napoleon quả là phi thường. Bước đi trên mặt đất của 53 trong số 60 bãi chiến trường của ông, tôi thường xuyên ngỡ ngàng trước cảm nhận trực giác của ông về địa hình, sự sắc bén của ông trong đánh giá khoảng cách và lựa chọn vị trí, cảm nhận của ông về thời điểm. “Có một khoảnh khắc trong trận chiến khi một động thái nhỏ nhất mang tính quyết định và đem tới ưu thế”, ông từng viết. “Đó là giọt nước bắt đầu dòng chảy tràn”. Ông chắc chắn không bao giờ thiếu niềm tin vào năng lực của bản thân trong vai trò một chỉ huy quân sự. Ở St Helena, khi được hỏi vì sao ông đã không lấy thanh kiếm của Frederick Đại đế khi thăm cung điện Sanssouci (Vô tư), ông đáp, “Vì tôi đã có của mình”. (Trên thực tế, ông có mang thanh kiếm của Frederick về điện Invalides.)

Kể từ thất bại của Pháp trong Chiến tranh Bảy năm, trong đó có phần không nhỏ dưới thanh kiếm của Frederick, nhiều tư tưởng quan trọng đã được các nhà chiến lược và lý thuyết quân sự của nước này thực hiện nhằm cải tiến từng binh chủng thuộc ba binh chủng bộ binh kỵ binh, pháo binh, và chúng có thể được phối hợp để trở nên hiệu quả hơn nhiều. Napoleon đã nghiên cứu sâu các tác phẩm của Guibert, Gribeauval, Bourcet, Thống chế de Saxe cùng những người khác, và hiện thực hóa những ý tưởng của họ trên chiến trường. Ông không phát minh ra những khái niệm như đội hình vuông, chiến lược vị trí trung tâm, đội hình hỗn hợp, lối đánh tập hậu, hay kể cả hệ thống quân đoàn, nhưng ông đã hoàn thiện chúng. Chúng cho phép ông chiến đấu trong mọi kiểu giao chiến quân sự và xoay chuyển hầu hết mọi tình hình theo hướng có lợi cho mình. Chỉ riêng trong chiến dịch Italy 1796-1797 ông đã liên tục kìm chân địch tại chỗ trong khi vòng ra sau một trong hai bên sườn của địch – sườn phải tại Montenotte, sườn trái tại Rovereto, và đôi khi đồng thời cả hai bên sườn như tại Mondovi. Ông rất xuất sắc trong việc động viên quân của mình tấn công qua những cây cầu hẹp như tại Lodi và Arcole, trong việc phán đoán tình hình từ báo cáo tình báo như trước trận Marengo, trong việc truy kích một kẻ địch đang rút lui như tại Millesimo ở Primolano. Ông chặn đứng một cuộc tấn công tập hậu của địch tại Lonato cũng như Rivoli và phản kích thành công trong cả hai lần này. Tại Castiglione, ông bẫy quân địch lọt vào giữa hai cánh quân và tấn công chúng từ phía sau. Cần phải có năng lực đặc biệt để tác chiến hoàn hảo trong mọi loại tình huống chiến thuật khác nhau có thể hình dung ra trong một chiến dịch, và Napoleon đã lặp đi lặp lại năng lực này trong gần 20 năm; thực sự một trong những hoạt động chỉ huy tốt nhất của ông là trong chiến dịch năm 1814 ở Champagne, khi ông thắng bốn trận riêng rẽ trong năm ngày.

Các đạo quân Cách mạng được tổng động viên không những có quy mô rất lớn xét theo các tiêu chuẩn trước đây, mà còn được thôi thúc bởi tinh thần ái quốc nhiệt thành. Sau khi tự phong mình là hoàng đế, ông nhận ra cần một thứ cao hơn tinh thần cộng hòa đơn thuần để tạo nên tinh thần đồng đội tối cần thiết để khích lệ mạnh mẽ binh lính của mình, vậy là với những bản tuyên bố, những lời cổ vũ truyền cảm hứng, các bản Nhật lệnh của mình, và trên hết là việc lập ra Binh đoàn Danh dự, ông đã kêu gọi phạm trù danh dự người lính để thắp lên thứ mà ông gọi là “ngọn lửa thiêng liêng” của sự can trường thượng võ. Napoleon đã thành công trong việc kết hợp các yếu tố từ thời Chế độ cũ với các đội quân Cách mạng để tạo nên một văn hóa quân sự mới được thúc đẩy bởi danh dự, tinh thần ái quốc và sự tận tụy mãnh liệt với bản thân ông, nó đã đưa những người lính của ông vượt qua các đồi cát của Ai Cập, những dòng sông lớn của châu Âu, và cuối cùng là thảm họa khi tới những vùng hoang vu băng giá của Nga.

Trong năm năm hòa bình xen giữa trận Marengo và chiến dịch Austerlitz, Napoleon đã huấn luyện cho các đạo quân của mình những phương thức vận động mà ông đã có thể triển khai với hiệu quả tuyệt vời trong nhiều chiến dịch sau đó. Cho dù bởi Hải quân Hoàng gia Anh mà ông không bao giờ có được cơ hội để tấn công Anh với Đạo quân Anh của ông đóng tại Boulogne, nhưng vào thời điểm nhổ trại để hành quân về phía đông sau ba năm liên tục huấn luyện, nó đã được rèn giũa tới mức hoàn hảo. Và không giống các đạo quân thế kỷ 18, vốn di chuyển một cách cồng kềnh với những đoàn xe lớn chở hành lý và trưng dụng những gì chúng cần trong chiến dịch, các đạo quân Cách mạng và sau đó là các đạo quân của Napoleon sống nhờ địa phương, phân tán (trong giới hạn được kiểm soát nghiêm ngặt) để làm việc này và vì thế – khi được chỉ huy bởi một vị tư lệnh có năng lực lãnh đạo là Napoleon – có thể di chuyển với tốc độ hoàn toàn khác biệt so với kẻ thù của họ. Napoleon cũng không tự làm mình chậm lại với việc vây hãm các thành phố, nhận ra rằng những cuộc chiến hiện đại – những cuộc chiến của ông – sẽ chiến thắng nhờ những đòn tấn công chớp nhoáng vào chủ lực địch trên chiến trường. Sự hiểu biết về địa hình và toán học của ông cũng cho phép ông sử dụng pháo binh với hiệu quả tối đa tại Toulon, Jena, Wagram, Montereau, và nhiều trận khác. Ông luôn bình tĩnh và phân tích – đôi khi thậm chí còn vui vẻ như tại Rivoli và Wagram – ngay cả khi ông dường như đang ở bên bờ vực thất bại. Điều mà với các vị tư lệnh khác có vẻ là thảm họa tiềm tàng thì ông lại coi là những cơ hội. Chẳng hạn như khi ông phải chiến đấu ở cuối các tuyến đường liên lạc bị kéo căng ra rất dài, như tại Austerlitz và Friedland (dù không phải tại Borodino), sự sơ hở về vị trí chiến lược của mình dường như lại tạo cảm hứng cho ông trở nên táo bạo hơn trên chiến trường. Một khía cạnh quan trọng khác trong nghệ thuật chỉ huy của Napoleon là khả năng duy trì thế chủ động của ông. Trong 60 trận đánh của ông chỉ có năm trận – Kim tự tháp, Marengo, Aspern-Essling, Leipzig và La Rothière – là phòng ngự; những trận còn lại là tấn công.

Trên hết, Napoleon rất nhanh. Đó là một đặc tính cá nhân: ta đã thấy ông di chuyến từ Dresden tới Saint-Cloud trong bốn ngày vào tháng Bảy năm 1807 như thế nào, từ Paris tới Erfurt trong năm ngày vào tháng Chín năm 1808, từ Valladolid tới Paris trong sáu ngày vào tháng Một năm 1809. Cũng tương tự như vậy với các đạo quân của ông hành quân qua châu Âu và trên chiến trường: Đạo quân Anh gỡ liều trại của họ tại Boulogne ngày 29 tháng Tám năm 1805, và tới ngày 5 tháng Mười bắt đầu bao vây Mack tại Ulm bên bờ sông Danube. Quân đoàn của Soult đã vượt qua 643 km trong 20 ngày hành quân, quân đoàn của Davout trải qua 595 km không một lần dừng lại nghỉ trọn ngày, và cả hai tới nơi mà không mất một người nào vì đào ngũ hay bệnh tật. “Hành động, hành động, thật khẩn trương!” ông viết cho Masséna vào tháng Tư năm 1809, và không có mệnh lệnh nào đặc trưng hơn cho Napoleon. Chỉ đến khi ông có một đạo quân quá lớn để có thể đích thân giám sát mọi khía cạnh của nó, như tại Nga năm 1812, nó mới trở nên chậm chạp và không thể thực hiện những cuộc vận động hợp vây rộng đã đem đến cho ông chiến thắng trong những năm trước đó. Và ông cũng không nhận ra được kẻ thù đã học được từ mình nhiều tới mức nào: những cải cách quân sự sâu rộng được Đại Công tước Charles thực hiện tại Áo, Barclay de Tolly tại Nga, và von Scharnhorst tại Phổ, là sự vị nể dành cho ông và cách thức tiến hành chiến tranh của ông; nhưng chúng cũng là mối nguy hiểm mà ông đã không đánh giá đúng cho tới khi quá muộn. Đến năm 1812, mọi quân đội ở châu Âu đều đã áp dụng hệ thống quân đoàn của ông, và những phát kiến từng đem đến cho các đạo quân của Napoleon lợi thế trong thời kỳ đầu đã được sao chép lại và đôi lúc thậm chí còn được cải tiến thêm.

Trong một địa bàn tối quan trọng khác, Napoleon mắc phải một khiếm khuyết gần như tuyệt đối: biển. Bất chấp việc sinh ra ở một hải cảng, ông không bao giờ hiểu được các phương thức tác chiến hải quân, và ngay cả sau thảm họa ở Trafalgar ông vẫn tin là mình có thể xây dựng được một hạm đội tấn công một ngày nào đó sẽ hạ nhục Anh, dồn quá nhiều tiền của, nhân lực và vật lực vào công cuộc hoàn toàn vô vọng đó. Tuy nhiên, trên đất liền, ông là một thiên tài quân sự thực sự. Không có gì đáng ngạc nhiên khi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, chính Công tước Wellington đã trả lời: “Trong thời đại này, trong các thời đại quá khứ, trong bất cứ thời đại nào: Napoleon.”

Dẫu vậy, ngay cả nếu ông không phải là một trong những nhà chinh phục vĩ đại, thì Napoleon sẽ vẫn là một trong những người khổng lồ của lịch sử hiện đại, vì những thành tựu dân sự cũng sánh ngang với thành tựu quân sự của ông, và tồn tại bền vững hơn nhiều. Cho dù Thời kỳ Kinh hoàng đã chấm dứt vào tháng Bảy năm 1794, và những người Jacobin vẫn còn khá mạnh, nhưng từ khoảnh khắc ông bắn gục họ và những kẻ tham gia cuộc bạo động Vendémiaire khác bằng đạn chùm trên đường phố Paris vào tháng Mười năm 1795, họ đã bị lu mờ với tư cách một lực lượng chính trị. Sau Thời kỳ Kinh hoàng và sự suy đồi hỗn loạn của thời kỳ Đốc chính, đa số người Pháp muốn một nền Cộng hòa bảo thủ, và họ đã có nó từ một người mà xã hội lý tưởng đơn thuần nhìn giống như một phiên bản mở rộng hơn nhiều của quân đội, được dẫn dắt về mặt chính trị cũng như quân sự bởi vị tổng tư lệnh của nó. “Chúng ta đã kết thúc với sự mơ mộng của Cách mạng”, Tổng tài Thứ nhất đã nói trong một cuộc họp hồi đầu với Hội đồng Nhà nước của mình, “chúng ta giờ đây phải bắt đầu lịch sử”. Trên nhiều khía cạnh, ông là nhà độc tài khai sáng cuối cùng và vĩ đại nhất của châu Âu thế kỷ 18, người đã bắt đầu đưa chủ nghĩa duy lý vào chính quyền và cải thiện điều kiện sống của dân chúng. Goethe nói rằng Napoleon “luôn được khai sáng bởi lý trí… Ông ấy ở trong một trạng thái khai sáng thường xuyên”. Ông là sự Khai sáng trên lưng ngựa.

Năm 1804, ông được tuyên bố là “Hoàng đế của nền Cộng hòa Pháp”, có vẻ là một mâu thuẫn về khái niệm, nhưng trên thực tế lại là một sự mô tả chân thực về bản chất cầm quyền của ông. Napoleon đã xây dựng một cách có ý thức trên những khía cạnh tốt đẹp nhất của Cách mạng Pháp và bảo vệ chúng – bình đẳng trước pháp luật chính quyền lý trí, chế độ nhân tài – trong khi loại bỏ thứ lịch cách mạng không thể biện hộ được với tuần lễ 10 ngày, việc Thờ kính Đấng Tối thượng đến mức lố bịch, trong đó sự tham nhũng, ô dù và tình trạng siêu lạm phát đặc trưng cho những ngày tàn của nền Cộng hòa. Trong 16 năm ông cầm quyền, nhiều trong những ý tưởng tốt đẹp nhất đóng vai trò nền tảng và thúc đẩy các chính sách dân chủ hiện đại – chế độ nhân tài, bình đẳng trước pháp luật, quyền sở hữu, khoan dung tôn giáo, giáo dục thế tục, tài chính lành mạnh, hành chính hiệu quả, và còn nữa – đã được cứu khỏi dòng xoáy Cách mạng và bảo vệ, luật hóa cũng như củng cố chúng. Như phần lớn châu Âu thời đó, chính thể của Napoleon kiểm duyệt báo chí và triển khai lực lượng cảnh sát mật như một hệ thống giám sát tương đối hiệu quả. Những cuộc trưng cầu dân ý được ông tổ chức có vẻ như trao cho nhân dân Pháp một tiếng nói chính trị lại thường xuyên bị gian lận. Song sự phê chuẩn mà chúng đem đến, dù bị phóng đại, đều là thật. Napoleon không phải là một kẻ độc tài toàn trị, và không quan tâm tới việc kiểm soát mọi khía cạnh đời sống các thần dân của ông. Trong khi thực hiện quyền lực ở cấp độ ngoại lệ, ông không hằn học hay thù hận, không bị dẫn dắt bởi mối thù truyền kiếp của người Corse. Nếu ông đã là như thế, những nhân vật liên tục phản bội ông như Fouché, Murat, và Talleyrand hẳn sẽ khó lòng được khoan dung trong thời gian dài như họ đã được. Chúng ta có thể đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay, số người Napoleon đã hành quyết vì lý do chính trị – d’Enghien, Palm, Hofer, có thể cả Pichegru, chắc chắn có L’Ouverture – dù điều này không biện hộ được cho ông vụ tàn sát tù binh Thổ tại Jaffa hay trách nhiệm của ông trong nỗ lực tái bình định Saint-Domingue, chắc chắn cả hai đều có những yếu tố phân biệt chủng tộc trong sự tàn bạo của chúng (dù ông không có mặt ở chiến dịch thứ hai). Ông quả thực đã tái áp dụng chế độ nô lệ ở vùng Tây Ấn thuộc Pháp trong một thời điểm, nhưng cuối cùng ông đã bãi bỏ nó trên tất cả thuộc địa Pháp vào năm 1815.

Dù Pháp đã buộc phải trở lại với các đường biên giới của mình thời trước Napoleon vào cuối năm 1815, nhưng phần lớn những thay đổi Napoleon thực hiện với đất nước đều đã bám rễ đủ chắc vào thời điểm đó để không bị lật ngược lại bởi nhà Bourbon khi họ trở lại nắm quyền. Kết quả là nhiều cải cách dân sự của ông được duy trì trong nhiều thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ. Bộ luật Napoleon trở thành cơ sở cho rất nhiều luật châu Âu ngày nay, trong khi nhiều khía cạnh của nó đã được sử dụng bởi 40 quốc gia trên cả năm lục địa có người cư trú. Những cây cầu của ông nằm bắc qua sông Seine, và những bể chứa nước, kênh đào và hệ thống cống thoát nước thải do ông xây dựng vẫn đang được sử dụng; Bộ Ngoại giao Pháp đang đóng trụ sở trên một phần của 4 km kè đá ông cho xây dọc sông, và Tòa thẩm kế vẫn đang xem lại các tài khoản chi tiêu công hơn hai thế kỷ sau khi ông thành lập nó. Các trường lycée tiếp tục cung cấp nền giáo dục tuyệt hảo, và Hội đồng Nhà nước vẫn tiếp tục nhóm họp vào mỗi Thứ tư để xem xét các đạo luật được đề xuất của pháp. Những “tảng đá hoa cương” Napoleon đã tuyên bố đặt hạ để neo lại trong xã hội Pháp vẫn còn đó cho tới tận ngày nay. Khi bà mẹ của Napoleon được chúc mừng về những thành quả của con trai bà, bà đã trả lời: “Mong sao là nó dài lâu”. Đã là như thế.

Năm 1792, Pháp trở thành một đất nước đầy niềm tin, quyết tâm xuất khẩu các giá trị và ý tưởng của cuộc Cách mạng tới phần còn lại của châu Âu. Các vị quân chủ của châu Âu không hề muốn điều đó, và thành lập liên minh đầu tiên trong bảy liên minh để chống lại sự xâm lấn. Napoleon đã thừa kế những cuộc chiến tranh này, và nhờ vào năng lực quân sự của mình, trong một thời gian đã đưa chúng tới một thắng lợi chung cuộc. Tại Anh, vốn đã có cuộc cách mạng chính trị của mình từ 140 năm trước và nhờ đó thụ hưởng rất nhiều trong số những lợi ích mà Cách mạng mang tới cho Pháp, sự đe dọa của Napoleon mà đầu tiên là tấn công nước này và sau đó là bóp nghẹt bằng kinh tế để buộc người Anh phải khuất phục, đã đảm bảo rằng những chính phủ kế tiếp nhau của Anh hiển nhiên kiên quyết muốn lật đổ ông. Các triều đại trị vì của Áo, Phổ, và Nga, cũng hiển nhiên như vậy, cự lại những đề nghị hòa bình theo điều kiện của Pháp từ ông một cách dĩ nhiên tương tự. Hệ quả là những tuyên chiến với ông thường xuyên hơn cả ông tuyên chiến với các quốc gia khác: người Áo tuyên chiến năm 1800, người Anh năm 1803, người Áo khi tấn công đồng minh Bavaria của ông năm 1803, người Phổ năm 1806, và người Áo năm 1809. Những cuộc tấn công Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha vào các năm 1807 và 1808, và Nga năm 1812 quả thực do Napoleon khởi xướng nhằm cố gắng áp đặt Hệ thống Lục địa – cho dù như ta đã thấy, Sa hoàng đang lên kế hoạch tấn công ông vào năm 1812 – song các cuộc giao chiến năm 1813, cũng như các cuộc khác vào năm 1814 và 1813, đều được tuyên bố chống lại ông. Ông đã đưa ra các đề nghị hòa bình trước tất cả các cuộc chiến này; trên thực tế, ông đã đưa ra không dưới bốn đề nghị riêng rẽ với Anh kể từ khi Hiệp ước Amiens đổ vỡ vào năm 1803 cho tới năm 1812. Những cuộc Chiến tranh Cách mạng và Chiến tranh Napoleon đã cướp đi sinh mạng của khoảng 3 triệu quân nhân và 1 triệu thường dân, trong đó có 1,4 triệu người Pháp (916.000 kể từ thời Đế chế, trong đó gần 90.000 bị giết trong chiến đấu).(*) Napoleon tất nhiên phải chịu phần lớn trách nhiệm về những cái chết này – “Nếu một người nghĩ tới nhân đạo, và chỉ tới nhân đạo”, ông nói, “người đó sẽ phải từ bỏ chiến tranh. Ta không biết bằng cách nào chiến tranh có thể được tiến hành trên kế hoạch ướp hoa hồng” – nhưng ông không thể bị buộc tội là kẻ hiếu chiến duy nhất, hay thậm chí là chủ chốt, của thời kỳ đó. Pháp và Anh đã ở tình trạng chiến tranh với nhau trong gần nửa quãng thời gian từ Cách mạng Vinh quang năm 1688 tới Waterloo năm 1815, và ông mới chỉ là một thiếu úy khi Chiến tranh Cách mạng bùng nổ.

“Có hai cách để xây dựng một trật tự quốc tế”, Henry Kissinger viết về châu Âu thời hậu Napoleon, “bằng ý chí hoặc bằng từ bỏ; bằng chinh phục hoặc bằng chính thống”. Chỉ có con đường của ý chí và chinh phục là mở ra với Napoleon, và ông đã đi theo nó. Ông tuyên bố rằng mình “thuộc về nòi giống đã tạo dựng các đế chế”, nhưng biết rất rõ, như ta đã thấy nhiều lần ở Phần 3, rằng tính chính thống ở chính thể của ông phụ thuộc vào việc duy trì quyền lực Pháp tại châu Âu, trong cái ông gọi là danh dự của ông và danh dự của Pháp. Cho dù vào năm 1810 hay 1812, quyền lực của ông rất lớn, nhưng ông biết rằng các cuộc chinh phục mà mình thực hiện vẫn chưa có đủ thời gian để chính thống hóa sự trị vì ấy. Một số sử gia danh tiếng đã kết luận rằng Đế chế Napoleon đơn giản là đã không thể sống sót nổi do bản chất thực dân của nó, và một dân tộc châu Âu không thể thống trị lâu dài một dân tộc châu Âu khác; song những người Thổ đã thống trị Hy Lạp trong 363 năm, người Tây Ban Nha cai trị Hà Lan trong 158 năm, còn người Áo cai trị Bắc Italy và Hà Lan trong 80 năm. “Các nhà hóa học có một thứ bột mà từ nó họ có thể tạo ra cẩm thạch”, ông nói, “nhưng nó phải có thời gian để cứng lại”. Giá như ông đã không mắc phải một số ít các sai lầm quân sự cốt tử, Đế chế Napoleon ở châu Âu có thể đã ổn định, với biên giới là sông Niemen ở đầu này và eo biển Anh ở đầu kia, có Áo là một cường quốc đồng minh miễn cưỡng và Phổ là một chư hầu đã bị khuất phục, và khi đó các cải cách dân sự của Napoleon rất có thể đã bám rễ vững chắc cả ở bên ngoài Pháp. Nhưng từ năm 1810 trở đi, các quân chủ của thời Chế độ cũ ở châu Âu (được Metternich dẫn dắt một cách ngoắt ngoéo, được Talleyrand cổ vũ một cách bí mật, và được Castlereagh cung cấp tài chính) đã huy động mọi nguồn lực để loại bỏ ông.(*) Sau khi ông đã bị loại bỏ, các chế độ chính thống lại áp đặt một hình thức cai trị phản động hơn nhiều mà cuối cùng sẽ bị đánh đổ bởi chủ nghĩa dân tộc do cuộc Cách mạng sinh ra. Ai dám nói rằng châu Âu do Pháp khai sáng thống trị vào thế kỷ 19 sẽ tồi tệ hơn châu Âu trên thực tế đã hình thành, trong đó Phổ thống trị Đức rồi bành trướng ra lục địa theo những cách thức ít nhân từ hơn nhiều so với Napoleon?

Cuối cùng, còn đó sự mê hoặc của con người này. 33.000 lá thư giờ đây được Quỹ Napoleon giới thiệu đầy tuyệt vời, là một nguồn tư liệu mà cuốn sách này đã dựa vào, minh chứng phi thường cho trí tuệ xuất chúng của ông. Thư từ ông trao đổi với các nhà thiên văn học, hóa học, toán học, và sinh học cho thấy sự tôn trọng dành cho công việc của họ và một khả năng thảo luận về chúng, điều rất hiếm với các chính khách. “Ta luôn làm việc, và ta tư duy rất nhiều”, Hoàng đế viết cho Roederer vào tháng Ba năm 1809. “Nếu ta có vẻ luôn sẵn sàng trả lời về mọi thứ và đón nhận mọi thứ, thì bởi vì trước khi bước vào một việc, ta đã tư duy một thời gian dài, và đã lường trước điều gì có thể xảy ra. Không phải sự thiên tài chỉ dẫn cho ta một cách đột nhiên, bí mật những gì ta cần nói hay làm trong một bối cảnh không ngờ trước với những người khác, mà đó là suy nghĩ, tư duy”. Về năng lực trí tuệ và việc bền bỉ sử dụng nó trong cầm quyền, có lẽ chưa bao giờ có một nhà lãnh đạo nào trong lịch sử sánh được với ông.

Napoleon có khả năng phân chia cuộc sống của mình ra một cách đáng kể, thậm chí cao hơn nhiều so với phần lớn các nhà lãnh đạo vĩ đại khác. Ông có thể hoàn toàn tách rời một phần tâm trí của mình khỏi những gì đang diễn ra ở phần còn lại của nó; bản thân ông so sánh nó có khả năng mở ra và đóng lại như các ngăn kéo của một chiếc tủ. Ngay trước trận Borodino, trong khi các sĩ quan phụ tá liên tục đến và đi với những mệnh lệnh cho các thống chế của ông và báo cáo từ các tướng lĩnh gửi tới, ông vẫn có thể đọc cho chép lại những suy nghĩ của mình về việc thành lập một trường nữ sinh cho những đứa con mồ côi của các thành viên Binh đoàn Danh dự, và ngay sau khi chiếm được Moscow ông liền đưa ra các quy định mới để quản lý nhà hát Comédie-Française. Với năng lực không ngừng nghỉ, luôn tìm tòi, ông quan tâm đến từng chi tiết liên quan tới đế chế của mình. Vị tỉnh trưởng của một tỉnh nhận chỉ thị chấm dứt ngay việc đưa cô nhân tình trẻ của ông ta tới nhà hát opera; một cha xứ vô danh ở nông thôn bị khiển trách vì đưa ra một bài giảng đạo không tốt vào ngày sinh nhật Hoàng đế; một hạ sĩ được cảnh cáo rằng anh ta đang uống quá nhiều; một bán lữ đoàn được cho hay họ có thể thêu các từ “Những người vô song” bằng chỉ vàng lên quân kỳ của đơn vị. Những lá thư và lời bình luận của ông cũng thể hiện rất nhiều sự cuốn hút, một khả năng tự đánh giá bản thân một cách thẳng thắn trong một số trường hợp, và một khiếu hài hước tinh tế cho phép ông đùa cợt trong gần như bất cứ tình huống nào, ngay cả khi đối mặt với thảm họa. Có vô vàn bằng chứng từ những người biết rõ ông về sức hấp dẫn trong tính cách, cũng như nhiệt huyết không ngừng nghỉ của ông. Ông có thể mất bình tĩnh – nổi nóng cực kỳ dữ dội trong một số trường hợp – nhưng thường vì một lý do nào đó. Những nhược điểm của ông còn có cả sự tàn nhẫn vào một số thời điểm nhưng không thường xuyên, và khi ông già đi thì đó là quan điểm ngày càng tự tôn bản thân và yếm thế về bản chất con người. Tất nhiên, ông tham vọng, nhưng khi kết hợp với nghị lực phi thường, năng lực quản lý, một trí nhớ gần như hoàn hảo về con người và dữ liệu, một trí tuệ kỷ luật và sắc bén, và một ý tưởng rõ ràng về những gì Pháp có thể đạt được và lên trật tự cho châu Âu như thế nào, thì ta không nên ngạc nhiên về điều đó. Ngay cả Louis em trai của Napoleon mà ông đã phế truất khỏi ngôi vua Hà Lan, cuối cùng cũng đã phải nói, “Ta hãy ngẫm nghĩ về những khó khăn Napoleon đã phải vượt qua, vô số thù trong giặc ngoài mà ông ấy đã phải chiến đấu, những cạm bẫy đủ loại luôn chăng ra rình rập ông ấy từ mọi phía, sự căng thẳng thường trực của đầu óc ông ấy, những hoạt động liên tục của ông ấy, những mệt nhọc khác thường ông ấy phải đối mặt, và sự chỉ trích sẽ sớm bị nuốt chửng bởi sự ngưỡng mộ.”

Lời chỉ trích thường gặp nhất về Napoleon là khi quyết định tấn công Nga năm 1812, ông đã mắc phải một dạng “Phức cảm Napoleon”, khát vọng ngạo mạn muốn cai trị thế giới, bất chấp cái giá phải trả với binh sĩ và thần dân của mình. Thế nhưng ông đã không hề có tham vọng lãnh thổ nào ở Nga, mà chỉ đơn giản muốn buộc Sa hoàng trở lại tuân thủ cam kết phong tỏa kinh tế mà ông ta đã ký kết tại Tilsit năm năm về trước. Và sự tự tin vào chiến thắng của ông cũng không quá ngạo mạn kiểu như lúc nhìn lại chuyện đã rồi. Ông đã đánh bại toàn diện người Nga hai lần trước đó. Ông không dự định chiến đấu xa biên giới quá nhiều trong một chiến dịch kéo dài tối đa một tháng. Ông chỉ huy một lực lượng đông gấp đôi quy mô các đạo quân Nga ở phía tây. Ông tin rằng Sa hoàng sẽ cầu khẩn hòa bình và không bao giờ lường trước được mức độ phòng thủ tiêu thổ mà người Nga sẽ thực hiện tới mức tự mình đốt Moscow. Ông thường xuyên cân nhắc việc dừng lại ở những nơi như Vitebsk và Smolensk sau chiến dịch, cũng như bệnh sốt chấy rận bắt đầu tàn phá cánh quân trung tâm của ông. Ngay khi vào Moscow, ông ý thức rõ về cái lạnh của mùa đông Nga và đã có đủ thời gian để trở lại khu đóng quân mùa đông tại Smolensk trước khi cái lạnh trở nên không thể chịu đựng nổi. Nhưng trong số hàng nghìn quyết định quân sự ông đã đưa ra, quyết định tối 25 tháng Mười năm 1812 đã hủy hoại ông.

Như vậy, Napoleon không phải là một con quái vật bị báo ứng, một hình mẫu hiện đại của bi kịch Hy Lạp cổ đại, hay bất cứ con người nào trong hàng tá những lời giải thích về lịch sử được khoác lên ông. Thay vì thế, cuộc đời và sự nghiệp của Napoleon hiện hữu như một lời phản bác những phân tích về lịch sử theo quyết định luận, thường lý giải các biến cố bằng các lực lượng khách quan to lớn và giảm thiểu phần vai trò của các cá nhân. Ta nên thấy điều này là đáng phấn khởi, vì như George Home, Chuẩn úy hải quân trên tàu HMS Bellerophon đã viết trong hồi ký của mình, “Ông ấy cho chúng ta thấy những gì một con người nhỏ bé như chúng ta có thể đạt được trong một thời gian ngắn ngủi như thế.”

Napoleon Đại đế? Vâng, hẳn rồi.