Chương 14
Bàn tổ tôm cần năm chân, lúc này mới chỉ có ba. Ông Huy đến sớm cùng với Quý. Hai người rủ nhau đi ăn sáng rồi đến nhà Phùng vào lúc tám giờ. Phùng là sĩ quan chế độ cũ cũng đi tù gần mười năm. Quý là một luật sư nhưng lại viết văn làm báo thời chế độ cũ, cũng đi tù một thời gian rồi được thả về. Mỗi buổi sáng Chủ nhật họ đều hẹn nhau chơi một canh tổ tôm ở nhà Phùng. Ngoài ra còn hai người nữa chưa đến. Một ông là viên chức chính quyền cũ, một ông là dân biểu quốc hội hai khóa liền của nền đệ nhị cộng hòa đã sụp đổ. Cả năm ông đều là "những kẻ chiến bại", đều đã nếm mùi trại cải tạo và bây giờ trở về đều thất nghiệp như nhau. Tuy vậy mỗi người một hoàn cảnh, nói cho đúng hơn mỗi người đang chịu một bất hạnh khác nhau trong cái bất hạnh chung. Mỗi người có một chút may mắn trong cái may mắn riêng của từng người.
Ông Huy thì còn nhà cửa nhưng mất vợ và lũ con chẳng ra gì. Ông Quý thì mất cả nhà cửa và mất luôn vợ con nhưng bù lại gặp được một bà có cơ ngơi đàng hoàng, làm ăn khấm khá và ông làm lại cuộc đời với người tình mới. Còn ông chủ nhà, Phùng, thì mất nhà cửa nhưng còn vợ con, ba đứa đi Úc, hai đứa đi Mỹ đều học hành thành đạt, tiền nong quà cáp cung cấp đều đều. Bà vợ lại buôn bán quần áo ngoài chợ nên cuộc sống phong lưu nếu không muốn nói là hơn xưa. Ông Phùng suốt ngày ở nhà làm "nội trợ" lo quét dọn, nấu ăn, giặt ủi quần áo. Ông bằng lòng với vai trò thường không dành cho đàn ông này. Còn ngài dân biểu thì dấu được ít vàng, vợ mang theo luôn đi vượt biên với một anh tây lai, ba đứa con đi sau, một đứa chết mất tích ngoài biển, hai đứa quay trở lại, một đứa lấy vợ có con rồi làm đủ thứ nghề nuôi thân, một đứa lông bông chạy áp phe vặt, coi bộ phong lưu, trong khi ông rách như tổ đỉa, uống rượu suốt ngày. Ông viên chức nhà nước cũ có bà vợ già bệnh tật triền miên. Một đứa con ở Pháp đậu đến tiến sỹ nhưng chẳng bao giờ viết cho mẹ một lá thư. Hai đứa con còn lại, một đứa lấy chồng rồi bỏ chồng, về với ông, bồ bịch linh tinh, mở một quán cà phê ôm trong con hẻm nhỏ. Một đứa học hành chăm chỉ và vừa xin được chân thư ký tại một khách sạn mới mở. Chính ông tự nuôi sống bằng một quầy bán thuốc lá và bán vé số.
Đấy là tóm tắt cuộc đời ái tình và sự nghiệp của năm vị có mặt trong canh tổ tôm hôm nay. Lúc này có ba vị, họ thăm hỏi nhau về tình trạng HO. tức là tình trạng của người đã nộp đơn, chạy dịch vụ xin đi tị nạn chính trị ở Mỹ. Họ thông báo cho nhau tin tức anh nào đã ra đi, đã đến Thái Lan rồi đến Mỹ, anh nào mới lãnh hộ chiếu HO.6 hay HO.7 cho đến HO.9. Họ hy vọng cuối năm 1991 sẽ đi hết loại HO. này. Họ bàn đến quốc hội Mỹ chuẩn chi ngân sách cho năm tới. Họ bàn đến cuộc sống Mỹ của loại trẻ và loại già. Họ kể về những lá thư tả tình, tả cảnh, tả chân về sự giúp đỡ, sự trợ cấp của chính phủ Mỹ, về "quyền lợi" họ được hưởng qua thư từ của những người bạn mới ra đi viết về như viết từ một hành tinh khác. Mỗi người nhìn theo cái nhìn của mình và phát biểu quan niệm riêng tư rồi cãi nhau lung tung về tất cả những vấn đề đó. Ông Phùng cho rằng cuộc sống ở Mỹ dù sao cũng dễ chịu hơn ở đây, những đứa con sẽ có bổn phận nuôi ông và ông sẽ "phè cánh nhạn" trong tuổi già. Các con ông sẽ lái xe đưa ông đi hay chính ông sẽ lái xe đi chơi, thăm bạn bè, du ngoạn các thắng cảnh vĩ đại của nước Mỹ, sống đời sống văn minh với đầy đủ tiện nghi cho con người.
Ông Huy gạt phắt, cho rằng con cái mình ở nước ngoài sẽ bị Mỹ hóa, cuộc sống quần quật khiến chúng không có thời giờ nghĩ đến mình, tuổi già sẽ sống trong cô đơn, buồn thảm. Làm việc thì đã quá già để ngày làm tám tiếng. Không làm thì ăn nhờ ở đậu, cái thân khổ như thằng tù bị bỏ quên. Ở đây ra đường còn có người gọi bằng ông chứ sang bên đó chỉ là "thằng". Còn lâu Mỹ nó mới "Sir" với mấy thằng Mít mất quê hương, lưu lạc như bọn mình.
Ông Quý cho rằng Mỹ chẳng tử tế gì, nó thương hại các anh thôi, chứ thực ra nó cần cóc gì đến các anh. Nó đang còn lo đối phó với vùng Vịnh, còn đang mớm cơm cho mấy anh cộng sản Đông Âu, Ba Lan, Liên Xô, Đông Đức vừa quay lại với tư bản để có cơm ăn áo mặc, có xe hơi đi, có đủ các mục khoái cảm làm sung sướng và hư hỏng con người theo cái chiều hướng tự anh muốn hư hỏng. Cả cái nền văn hóa của nó cũng vậy. Nó có đủ các kiểu, nếu anh muốn học hành tử tế, sẽ có sách vở máy móc tử tế. Nếu anh muốn dấn thân vào sa đọa, sẽ có đủ các mục sa đọa, phim ảnh khiêu dâm, sách báo lõa thể, nhạc lambada dâm đãng- Mọi cánh cửa đều mở ra và đều mời anh bước vào. Nó phục vụ anh tất cả để anh hùng hục đi làm, hùng hục phục vụ nó. Ngón đòn kinh tế đã đánh bại anh Liên Xô, rõ ràng nhất là nhẹ nhàng xóa bỏ anh Đông Đức. Ngón đòn ấy đánh gục luôn mọi con người. Con người sẽ có tự do, có hưởng thụ, có cơm áo tùy theo khả năng để cúi đầu khuất phục trước các ông chủ, tuân theo thứ luật pháp chặt chẽ mà họ vẫn tưởng do chính phủ họ làm ra. Đối với các nước nhược tiểu cũng vậy, tất cả đều đi theo quỹ đạo do cái vòng quay của nền kinh tế chỉ huy. Kinh tế đang quyết định tất cả từ một con người đến một dân tộc, một quốc gia. Quốc gia nào mạnh nhất, kẻ đó làm bá chủ. Cái mộng bá chủ hành tinh của các ông Mỹ chẳng bao giờ mất đâu. Họ kiên trì theo đuổi nó. Con cháu chúng ta ở nước ngoài rồi đây cũng sẽ được sử dụng vào mục đích ấy.
Ông Phùng cãi lại:
- Vậy có gì là xấu. Con cái chúng ta sẽ thành người. Anh hư hỏng hay không là tại anh. Tôi giúp đỡ anh, khi anh thành tài, anh phục vụ lại tôi. Tôi trả công cho anh đúng với sức anh, xứng với tài năng anh có. Như thế là công bằng chứ.
- Vâng, công bằng. Nhưng kẻ có tài năng cũng sẽ trở thành một tên xấu xa khi quên rằng nó là một dân tộc nhược tiểu, là một thằng Việt Nam. Nếu nó phục vụ cho quyền lợi của một siêu cường thì có nghĩa là nó quên hẳn quyền lợi của dân tộc nó.
- Tôi không hiểu anh nói gì. Con người phục vụ cho nền kinh tế của con người nói chung, có hại gì đâu. Chỉ có lợi cho loài người chúng ta mà thôi.
Ông Quý lắc đầu:
– Ông lý tưởng hóa cái nhân loại của ông qua lòng dạ một siêu cường đấy. Chúng ta đang ở thời đại của mỗi quốc gia lo cho dân tộc mình. Thằng Mỹ khi nó bỏ rơi ông, nó có nghĩ đến sự đau khổ của dân tộc ông không? Nó có nghĩ đến bè bạn đồng minh không? Con cáo già Kissinger và ông Ford, ngay cả Nixon cũng là đồng lõa với nhau hết. Một bọn thực hiện đường lối của siêu chính phủ trong bóng tối. Quốc gia nào lo quyền lợi của quốc gia ấy. Ở vào địa vị chúng nó, tôi cũng làm như vậy, dù đó là một điều khốn nạn khiến sau này tôi phải vờ ân hận, vờ nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu.
Ông Huy đồng tình:
- Không phải ở bên Mỹ ai cũng đi học để trở thành tiến sĩ được cả đâu. Phải có tiền. Học tốn tiền lắm chứ không phải anh cứ việc cắp sách đến trường như anh muốn. Không đóng tiền, nó tống cổ anh ra đường.
- Dù sao cũng phải công nhận rằng nó đã phục vụ tiện nghi và lợi ích con người tối đa, nó thúc đẩy mọi con người phát triển khả năng.
- Phát triển để phục vụ cho những ông chủ. Giả dụ một anh kỹ sư Việt Nam phát minh ra một cái máy thì cái máy ấy thuộc quyền ông chủ Mỹ và ông chủ Mỹ sẽ bán lại cho dân Việt Nam để làm giàu. Giả dụ anh kỹ sư Việt Nam sáng chế ra một loại vũ khí tân kỳ thì vũ khí ấy thuộc quyền ông chủ Mỹ và khi cần răn đe dân Việt Nam, nó sẽ sử dụng thứ vũ khí ấy. Cho nên mỗi con người Việt Nam dù ở đâu cũng phải hiểu rằng mình là dân Việt Nam. Chỉ có thế mới khá được. Còn loại chỉ muốn rời bỏ quê hương để quên hẳn cái thân phận khốn khổ của mình, quên hẳn cái dân tộc đang đau khổ tận cùng này, chưa sang Mỹ đã muốn là Mỹ con thì thôi, không có gì đáng bàn nữa. Một số anh em chúng ta thừa biết cuộc sống lưu vong ở xứ người là đau đớn, là buồn thảm, song vẫn viện cớ là ra đi vì con cái hay ra đi vì tự do, vì cuộc sống của chính chúng ta, may ra có thay đổi gì được không. Được rồi, chúng ta đi vì con cái nhưng không có nghĩa là bán con cái cho Mỹ hay cho không Mỹ lớp trẻ ấy, để rồi lớp trẻ sẽ quên hẳn quê hương này, sẽ chỉ còn biết lao đầu vào học tiếng Mỹ, nói tiếng Mỹ, kiếm việc làm sống ở bên Mỹ và muôn đời là dân Mỹ. Bổn phận giáo dục lớp trẻ ở bên đó là của chúng ta. Đừng bao giờ quên điều đó thì hăy nên cho con cái đi. Đừng nghĩ giản dị là được Mỹ nhận cho vào Mỹ là chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng đối với con cái, coi như đã lo xong cho tương lai con cái. Không! Như thế là chúng ta mang con bỏ chợ, vô trách nhiệm, giao trứng cho ác, chúng ta bán đứng con cái cho nhà giàu.
Ông Phùng cười hà hà:
- Tôi cho rằng sang đến bên đó mình lo cho mình chưa xong. Con cái nó lớn khôn rồi, mình không ảnh hưởng tới con cái được nữa.
- Nghĩ vậy lại càng sai. Người Tàu đi đâu cũng không mất gốc. Tới giờ này họ vẫn duy trì đời sống Tàu trong từng gia đình, từng khu vực và họ vẫn đóng góp tiền của cho Đài Loan hay cho Hoa Lục để giúp đỡ dân tộc họ. Chúng ta cũng có bốn ngàn năm lịch sử, cũng có truyền thống dân tộc sâu sắc, một bản sắc dân tộc Á Đông rất đặc biệt. Chúng ta không thua gì họ cả. Chúng ta cần phải làm nẩy sinh lòng tự trọng ấy ở bất cứ nơi nào, trong bất kỳ gia đình nào, ở khắp chỗ nào có người Việt sinh sống. Tôi tin chúng ta sẽ làm được điều ấy từ trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi khu dân cư người Việt. Vấn đề đặt ra lúc này là việc tổ chức khó khăn, không ai bảo được ai, vì thật ra chúng ta khó kiếm ra một người có uy tín thực sự, sống tản mạn mỗi người một nơi và mọi người đều phải cố gắng lo cho cuộc sống của mình. Phần khác là lớp trẻ của chúng ta đã quen thuộc với lối sống Mỹ, nhanh chóng hòa nhập vào xã hội Mỹ để trở thành người Mỹ cho dễ kiếm công ăn việc làm. Chúng nó như mũi tên đã bắn đi, không quay lại được. Điều quan trọng là chúng ta cho chúng nó một cái đích để đi tới. Lo cho bản thân đã đành nhưng còn dân tộc. Luôn luôn chúng ta đặt cho chúng nó câu hỏi ấy và chính chúng ta phải làm gương, phải tự coi như một bổn phận của con người, như một thứ luân lý tối thiểu mà mỗi con người phải có. Như vậy tôi hy vọng chúng ta sẽ vượt được khó khăn trong cái giai đoạn hiện tại của những người di dân.
Hai ông khách cuối cùng của cánh tổ tôm đã tới. Họ lại mang đến những tin tức mới, những lời bình luận về cuốn sách mới được xuất bản, dịch từ bản tiếng Mỹ của ông Nguyễn Tiến Hưng "Từ Tòa Bạch Ốc đến Dinh Độc Lập" gồm các tài liệu "tối mật" qua những lá thư của Tổng thống Nixon - nhân danh tổng thống Mỹ - cam kết với đồng minh Việt Nam quyết tâm giáng trả đích đáng thẳng tay Cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định ngưng bắn. Những lời hứa danh dự chắc như đinh đóng cột gỗ lim. Nixon cũng đe dọa Tổng thống Thiệu nếu không ký hiệp định Paris sẽ bị cúp viện trợ và có thể bị giết như anh em cụ Diệm. Ông Thiệu làm ra vẻ bướng, nhõng nhẽo đòi hỏi một hai điều kiện rồi cuối cùng cũng để ông Trần Văn Lắm ký vào hiệp định Paris và tất cả những gì Mỹ muốn làm. Nghĩa là ông ta bướng nhưng rồi lùi vô điều kiện để đến lúc Cộng sản xua quân vào nuốt miền Nam thì ông ta chạy như cờ lông công, quên cả lòng tự trọng, quên cả danh dự dân tộc, ông ta lạy van quốc hội Mỹ xin viện trợ. Trong khi con cáo già Kissinger ngoảnh mặt, dấu nhẹm những lá thư của Nixon không trình cho ông Ford, trong khi các con thoi Mỹ đi về Việt Nam và Hoa Thịnh Đốn làm ra vẻ quan tâm đến tình hình chiến sự, trong khi Ford giả câm giả điếc, Thượng nghị sĩ Kennedy còn tàn nhẫn hơn, quyết không cho Việt Nam một đồng xu nào. Mọi sự lạy van xin xỏ đến tởm lợm thành vô ích. Và miền Nam Việt Nam từng được tổng thống Mỹ cam kết bảo vệ đã cáo chung! Lời hứa của Tổng thống Mỹ làm toàn bộ các dân tộc nhược tiểu, các bạn đồng minh cảm thấy bị đe dọa. Rồi một lúc nào đó chính các dân tộc ấy sẽ quay lưng lại với người bạn đồng minh của mình thì hết thuốc chưã, chỉ mong ngày ấy còn xa.
Người ta đặt vấn đề ông tiến sĩ Hưng muốn nói gì qua cuốn sách ấy? Muốn đánh bóng ông Thiệu là con người yêu nước, cứng rắn với Mỹ chăng? Và ông tiến sĩ cũng muốn chứng tỏ mình là con người yêu nước chăng? Đấy là cách đặt vấn đề của một số độc giả là năm ông đang chờ đánh tổ tôm buổi sáng Chủ nhật này.
Có người cho là ông Hưng đã làm một việc đáng làm, nêu được các tài liệu lịch sử để con cháu thấy lòng dạ và lời hứa của một ông tổng thống Mỹ giá trị thế nào. Có người cho là ông Hưng đánh bóng ông Thiệu lại đâm ra làm hại ông Thiệu vì lý do dễ hiểu là tại sao ông Thiệu biết hết mà không dám đặt rõ mọi vấn đề trước quốc hội, trước quốc dân và sẵn sàng từ chức nếu bị Mỹ chơi ép? Tóm lại, ông ta chỉ củng cố quyền hành, mưu toan độc diễn, cố đấm ăn xôi để mặc Mỹ thao túng. Nếu ông Thiệu khăng khăng không chịu ký hiệp định Paris và từ chức thì tình hình sẽ ra sao? Kết luận là ông Thiệu vẫn tham quyền cố vị, sợ Mỹ làm thịt, nên đã lừa dối đồng bào cho đến phút chót để có máy bay đón ông chuồn êm với vợ con, mặc xác những thằng Việt Nam sống dở chết dở và những đồng ngũ của ông phơi thây ngoài chiến trường, chui vào các trại cải tạo mà con đường còn dài hơn cả xuống địa ngục.
Kết luận cuối cùng là cả ông Thiệu và phe cánh của ông đều mù tịt gì về đường lối của Mỹ. Nó bày ra trước mắt ông mà ông không biết. Nó đã định rút là nó rút, có năn nỉ, có van xin, có ngang ngạnh, có nằm lăn quay ra đấy thì cũng vậy mà thôi. Đáng lẽ ông ta nên chuồn ngay đi từ đầu năm 1972 mới phải. Chẳng qua là những anh mù cả mà thôi. Và như thế vô tình đã là đồng lõa của một mưu toan bán đứng miền Nam. Nhà cầm quyền Mỹ phải cho ông thêm vài cái huy chương nữa mới đúng.
Ông Phùng quăng cỗ bài ra giữa sập:
- Thôi dẹp đi. Mình vào cuộc. Các ông chửi Cộng sản, chửi ông Thiệu, chửi cả Mỹ, các ông sống với cọp à?
Ông Quý tháo giầy leo lên sập:
- Tôi đếch phải là đầy tớ Mỹ nên tôi có chửi chúng nó cũng chẳng sao. Mà thật ra tôi chẳng hơi đâu mà chửi chúng nó, tôi cũng chẳng chửi Cộng sản, chẳng chửi ông Thiệu. Tôi là thằng dân, nhân danh con người, tôi có quyền nói về cái bẩn thỉu, sự lừa dối, sự biển lận của những anh cầm vận mạng của con người, tôi chửi những thứ mà con người với nhau không thể chấp nhận được. Tôi là thằng dân, làm nghĩa vụ công dân đàng hoàng, chấp hành lệnh động viên nghiêm chỉnh và đã có thời gian là lính, là sĩ quan, cũng cầm súng bắn đoành đoành, cũng suýt chết ngoài chiến trường, rồi cũng ra làm luật sư, bênh vực cho công lý. Ngoài ra tôi ủng hộ chính phủ hết mình, chống cộng nghiêm chỉnh như các vị lãnh đạo của chúng ta thường chống, tham gia hết ủy ban này đến ủy ban khác, hô hào Bắc tiến tưng bừng, nhưng để rồi tôi được cái gì? Được vài năm cải tạo, được ra đi theo diện HO, nhưng tôi cóc đi. Vợ tôi bán hàng ở chợ An Đông đủ sống rồi, các con tôi chuồn hết, tôi ở lại đây. Tôi lại đi mần ăn với mấy cái công ty nước ngoài, tôi sống theo cái kiểu anh nhân viên còm chân chỉ. Nói thật, nhiều lúc tôi chẳng còn hiểu tôi là thằng nào. Quốc hay cộng, đều đếch phải. Là dân, thứ dân có tiền sự, có vết tích, có một đống tội sau lưng, phải sống đúng kiểu cách, lơ mơ là đi đời nhà ma. Theo Mỹ, tôi đếch theo là cái chắc rồi, theo Cộng thì đúng là thứ hàng thần lơ láo và chắc gì nó cần tôi theo, hơn thế tôi theo nó ăn cái giải gì? Tôi cứ lơ lửng thế thôi. Nhưng tôi sẽ sống ở đây và chết cũng ở đây rồi tới đâu thì tới. Tôi đang cố gắng sống như một khách bàng quan. Tôi cứ phải nghĩ rằng tôi là con người phong nhã đang đi du lịch, nhìn cuộc đời quay rối tít mù xung quanh, cũng thú ra phết các ông ạ.
- Vậy nhân danh những con người phong nhã, chúng ta bắt đầu chơi tổ tôm. Một canh tổ tôm cũng chẳng khác gì những chuyện diễn ra trong cuộc đời.
Ông Huy phản đối:
- Không đúng, cuộc đời như một canh xì phé. Toàn những cái tẩy giả, đầy rẫy những trò bịp. Đánh tổ tôm dù sao cũng chững chạc hơn. Vì thế sau khi ở tù ra, chúng ta đánh tổ tôm hay xoa mạt chược còm. Hết mẹ nó tiền đánh phé rồi. Bây giờ nhường cho những thằng khác đánh phé, chúng nó đánh bằng đô-la. Hiểu chưa? "Bắt cái" đi, mấy cha!