Chương 2
Một hôm, khi mặt trời vượt qua ngọn núi phía đông, chuyển từ màu vàng kim sang đỏ chói, ông lão và con chó đi đến đầu ruộng Tám Dặm Rưỡi giống như mọi lần. Từ rất xa, ông đã nhìn thấy ở giữa mảnh ruộng một mẫu ba, mầm ngô đó đã cao bằng cái đũa rồi, dưới ánh mặt trời đỏ sẫm, màu xanh biếc giống như một dòng nước phun ra. Nghe thấy không? Ông ngoái đầu hỏi chó mù, nói thơm quá, cách chín, mười dặm cũng có thể nghe thấy hơi thở của mầm cây tươi non mềm mại. Con chó mù ngẩng đầu nhìn ông, cọ vào chân ông, chẳng nói chẳng rằng chạy về phía mầm cây đó.
Phía trước là một con rạch sâu, cái khô nóng tích đầy trong rạch cuồn cuộn bốc lên, lúc này chỉ chực trào lên làm bỏng rát mặt ông lão. Ông cởi chiếc áo lót trắng duy nhất đương mặc ra, cuộn tròn lại, quệt một cái lên mặt. Ông ngửi thấy mùi mồ hôi dày dăm ba thước. Loại phân thật là tốt, ông nghĩ, đợi cây ngô này phát triển trong nửa tháng nữa, rồi giặt chiếc áo vải này, bưng nước giặt áo từ thôn ra, để cây ngô ăn một bữa no nê như ăn Tết. Ông lão kẹp chiếc áo quý giá vào nách. Cây ngô đó đã xuất hiện trước mặt ông, cao một gang, bốn chiếc lá, mầm lá không phân thêm nữa như ông mong muốn. Quan sát ngọn mầm ngô, phủi nhẹ mấy hạt bụi ở trên, sự hẫng hụt lạnh lẽo trong lòng xâm chiếm nửa người ông.
Con chó cọ cọ mấy cái vào chân ông lão, đi một vòng quanh mầm ngô, lại đi một vòng nữa. Ông lão nói, mù ơi, mày vòng xa một chút. Con chó liền đứng yên không động nữa, sủa lên mấy hồi dài màu xanh chắc nịch, ngẩng đầu nhìn ông lão, dường như có việc gì vô cùng gấp gáp cần phải giải quyết.
Ông lão biết nó không nhịn đái được nữa. Đến lấy cái cuốc chim treo trên một cây hòe khô ở bên bờ ruộng (nông cụ ông dùng xong đều treo trên cây hòe đó), trở lại bổ soạt một cái đào một cái hố phía tây của mầm ngô (hôm qua là ở phía đông), nói đái đi mày.
Không đợi chó mù đái xong, đột nhiên, đôi mắt của ông lão bảy mươi hai tuổi bị cái gì đó đâm vào. Trước tiên khóe mắt giần giật, sau đó tim lại đập thình thịch thình thịch. Ông nhìn thấy hai chiếc lá thấp nhất của mầm ngô đã lốm đốm có vết nhỏ, tròn tròn giống như trên lá kết vỏ tiểu mạch nhỏ. Đây là vết đốm do khô hạn phải không? Ta sáng sớm ra đây đái, sẩm tối đến tưới nước, làm sao có thể khô được chứ? Lúc cúi người xuống, tiếng nước tiểu màu vàng bàng bạc của con chó gõ lên đầu óc ông, ông đã hiểu, vết đốm khô cháy đó, không phải là vì hạn hán, mà vì phân bón quá nhiều. Nước tiểu chó chất hơn nhiều nước tiểu người, cũng nóng hơn nữa. Mù ơi, tổ sư mày, mày lại còn đái nữa à. Ông lão đá mạnh một cái, con chó bị văng ra xa hơn năm thước, rơi xuống giống như một bao thóc trên mảnh ruộng chết chóc. Tao cho mày đái, ông lão gầm lên, mày lại rắp tâm đốt chết mầm ngô phải không?
Con chó ngỡ ngàng đứng đó, hốc mắt như cái giếng khô đột nhiên ngân ngấn…
Ông lão nói, đáng đời mày. Sau đó hằm hằm nhìn con chó một cái, ngồi xuống kéo lá ngô non, nhìn nhìn vết đốm khô trên lá sáng trong như ngọc, hoang mang dùng tay vốc một vốc bọt trắng nước đái chó trong cái hố được đào bằng cuốc chưa kịp thấm xuống, lại xúc đi mấy nắm bùn nhão thấm nước đái chó bên cạnh, cầm cuốc lên lấp hố nước tiểu đó, dùng lưỡi cuốc đầm chặt lớp đất xốp bên trên, rồi lại nói với con chó, đi thôi, về nhà gánh nước đến tưới nhé, không tưới nước làm loãng phân ngay thì chưa đến hai ngày, mầm ngô sẽ bị mày tưới chết mất.
Con chó liền men theo đường cũ đi về phía sườn núi. Ông lão đi sau nó, tiếng bước chân nóng hôi hổi, giống như mấy chiếc lá khô cong lượn vòng rơi dưới ánh mặt trời gay gắt.
Tuy nhiên, tai nạn của mầm ngô vẫn giống như tiếng bước chân của ông lão và con chó, đi đâu theo đó. Khi nó mọc chiếc lá thứ sáu, ông lão đi xách nước, đến bên miệng giếng, có một luồng gió xoáy nhẹ thổi bay mũ rơm của ông. Chiếc mũ lăn lăn trên đường làng về phía trước, ông lão vội vàng đuổi theo, luồng gió xoáy giống như cái sàng, trước chậm sau nhanh, luôn giữ một khoảng cách chừng một trượng với ông. Ông lão cứ thế đuổi đến cổng làng, mấy lần đều sờ được vào mép mũ rơm, cơn gió xoáy đó lại tiến nhanh mấy bước kéo ông lão lại. Ông lão đã bảy mươi hai tuổi rồi. Không còn đi lại giống như trước kia nữa. Ông lão nghĩ, mình không cần chiếc mũ rơm đó có được không? Cả làng ngoài mình ra không còn một ai khác, mình mở cửa bất kì nhà nào, chẳng lẽ lại không tìm được một chiếc mũ rơm sao. Ông lão dừng bước, ngước nhìn xa, luồng gió xoáy đó như nhìn thấy tâm tưởng của ông, đột nhiên xoáy chậm lại. Trên sườn núi có gian nhà tranh cô độc, đứng bên đường giống một cái miếu, luồng gió xoáy đến đó, yếu ớt va vào tường nhà, xụi xuống không đi nữa.
Ông lão lững thững đến dưới bức tường đó, đá mấy cái vào luồng gió mỏi mệt, cúi xuống nhặt chiếc mũ rơm lên, hai tay vận sức xé chiếc mũ thành từng mảnh, ném trên mặt đất, đạp mạnh kêu lên:
“Tao cho mày chạy này.”
“Tao cho mày chạy theo gió xoáy này.”
“Có giỏi thì mày chạy tiếp cho tao xem.”
Chiếc mũ rơm đã nát vụn rồi. Mùi trắng tinh của thân lúa mạch tản ra, bao nhiêu ngày đều buồn bực trên sườn núi khô cháy, đã bắt đầu có chút mùi vị khang khác rồi. Cuối cùng, ông lão vo chiếc mũ đã bị xé nát thành một cuộn, vứt trên mặt đất, giẫm lên một cái, day day trên vành mũ và hỏi, không chạy nữa à? Cả đời mày cũng không thể chạy được nữa rồi, mặt trời hạn hán đã ức hiếp tao, bà nội nhà mày cũng muốn ức hiếp tao à. Nói một hồi xong, ông lão thở ra chầm chậm, đưa ánh mắt về mảnh ruộng dốc bên ngoài tám dặm rưỡi, cứ thế nhìn, bàn chân giẫm trên vành mũ không động đậy nữa, tiếng lẩm bẩm trong miệng đột nhiên cũng như sợi dây thừng đứt phựt.
Phía ruộng dốc Tám Dặm Rưỡi bên kia toàn màu than bụi đỏ lửa khắp núi đồi, giống như một bức tường nửa trong suốt lại lắc lư chập chờn. Ông lão sững người, đột nhiên ý thức được rằng trên ruộng dốc ở phía kia không phải là luồng gió xoáy nhẹ, mà là một trận lốc xoáy mùa thu cực kì hiếm gặp. Ông đứng thẳng trước góc tường dưới mặt trời chang chói, trong lòng rền vang một âm thanh cực lớn, dường như bức tường phía sau ông đã đổ sập xuống, đè lên trước ngực sau lưng ông.
Ông bắt đầu nóng ruột nóng chân chạy về phía ruộng dốc Tám Dặm Rưỡi.
Bức tường lốc xoáy lắc lư cuồn cuộn phía xa, đang dềnh lên màu tro bụi nửa trong suốt, lúc này càng đặc sệt, dập dềnh lên xuống, trong phút chốc lại trở thành ngọn lũ cuộn trào kích động, lúc sóng dâng, lúc sóng hạ, nhấn chìm dãy núi trong một vùng hồng hoang mênh mông.
Ông lão nghĩ, thôi rồi, thôi rồi, e rằng thôi thật rồi.
Ông lão nghĩ, vừa rồi luồng gió nhẹ thổi mũ rơm của mình, kì thực là gió thông gió tuệ dẫn mình lên núi, chính là muốn nói với mình nương rẫy trước mặt có gió lớn đấy. Ông lão nói, tao có lỗi với mày rồi, gió xoáy nhỏ à, tao không nên đá ba cái lên người mày. Còn cái mũ rơm của mình nữa chứ, ông lão nghĩ, nó có ý tốt mới lăn theo luồng gió, sao mình lại xé nó ra cơ chứ? Mình già rồi, thực sự già rồi. Già đến hồ đồ, không phân biệt được tốt xấu nữa rồi. Ông lão vừa nghĩ vừa nói, tiếng tự trách mình từng luồng từng đám thổ ra từ miệng ông, giống như dây mây dứt mãi không đứt. Cứ thế vừa nói vừa vội vã lúc đi lúc chạy về phía trước, khi ông cảm thấy lòng bình tĩnh lại, gió lớn vàng đục xa xa đã ngừng rồi, tiếng ù ù giống như đánh trận cứ ong ong trong tai, cũng ngừng công kích rồi. Đột nhiên sự yên tĩnh trầm xuống bên tai, khiến lỗ tai ông hơi nhoi nhói đau. Ánh nắng cũng đã khôi phục sức sống của nó, mạnh mẽ cứng cỏi, khiến trong ruộng phát ra tiếng răng rắc rừng rực rõ ràng, giống như hạt đậu nổ tung ra dưới ánh mặt trời gay gắt. Bước chân của ông chậm lại, tiếng thở bắt đầu trở nên đều đặn chậm rãi, giống như người phụ nữ kéo chỉ khâu giày.
Đến nương, ông lão đứng ở góc đầu nương, kinh ngạc đứng sững lại, hơi thở đầm đìa máu như bị cảnh tượng tàn khốc trước mặt một dao chặt đứt.
Mầm ngô đó đã bị gió thổi gãy. Đoạn gốc còn lại run rẩy như ngón tay bị chặt đứt, trong cái nắng rừng rực, vết thương bị đứt chảy ra một màu xanh sẫm, nhỏ xíu sền sệt như một sợi dây.
Ông lão và con chó đã chuyển đến ở trên nương Tám Dặm Rưỡi.
Ông lão không do dự, giống như một ông già canh dưa, khi dưa chín tất yếu phải đến ruộng dưa ở, ông lão ở bên mầm ngô đó, trồng xuống bốn cái rui nhà làm cột, trên thân bốn cái cột, buộc hai cánh cửa, lại phủ bốn chiếc chiếu cói trên đỉnh cột, thế là đã chuyển nhà lên nương rồi. Ông cắm đầy đinh lên trên cột, treo nồi, muôi, bàn chải lên trên những chiếc đinh đó, để bát vào trong chiếc bao bột cũ, treo ở phía dưới nồi, khoét một cái bếp nhỏ ở sườn dốc bên ruộng, việc còn lại là chờ gốc ngô kia mọc trở lại.
Đột nhiên thay đổi giường chiếu, đêm đến ông lão cố gắng hết sức nhưng không tài nào ngủ được. Cái nóng như thiêu và ánh trăng chuyển động trên trời khiến ông cởi nốt cái quần lót duy nhất mặc trên người ra, trần nhồng nhộng ngồi hút thuốc trên chiếc chiếu dưới trăng. Trong khói thuốc mờ tỏ, ông vô tình nhìn thấy cái thứ ở giữa hai đùi, đang treo giống như một cái đèn lồng, cảm thấy xấu đến mức không lời nào nói hết, thế là lại mặc quần lót vào. Cách lần quần lót sờ sờ cái vật xấu xí đó, trong lòng liền cảm thấy bi thương, nghĩ mình đã già rồi, già hoàn toàn rồi, nó chẳng có tác dụng gì với mình nữa, chẳng thể mang lại một chút khoái cảm gì. Nghĩ, có nó còn không bằng có một mầm ngô ấy chứ. Mỗi chiếc lá ngô đều khiến mình thêm sức sống, giống như thời thanh niên đứng ở đầu làng hoặc bên giếng nước nói chuyện với người con gái mà mình ngưỡng mộ, cảm giác sung sướng ẩm ướt hội tụ trong im ắng nhẹ nhàng, chầm chậm lặng lẽ khiến toàn thân chìm trong ẩm ướt. Ông muốn hút thuốc tiếp, khi gõ tẩu, đốm lửa phá vỡ màn đêm nơi bờ ruộng, khiến con chó mù ở bên cạnh tỉnh dậy.
Ông lão nói, mày tỉnh rồi à?
Con chó ngẩng ngẩng đầu.
Ông lão tiếp tục nói, mày bị mù lại có thể ngủ ngon. Tao là người mắt sáng, trái lại không ngủ được.
Con chó trườn đến liếm tay ông. Ông vuốt ve đầu con chó, vuốt từng đám lông của nó. Khi đang vuốt, ông liền nhìn thấy hai giọt nước mắt sáng long lanh chảy ra từ trong hốc mắt của chó mù. Ông lau giọt nước mắt đó, nói, mặt trời chết tiệt, mày lòng dạ đen tối, làm mù cả mắt chó. Nghĩ đến việc con chó bị nắng chiếu mù, trong lòng ông lão chợt bị một cái gì đó chà xát đau đớn, vội ôm con chó vào lòng, lau mắt nó từng chút từng chút một. Lúc này, nước mắt của chó giống như hai dòng nước suối ướt đẫm tay ông. Việc đó không ai ngờ tới, ông lão nghĩ, cho dù là hạn hán năm nào, thôn dân đều bắc một cái đài tế ở đầu làng, bày lên ba mâm đồ cúng và hai vò nước lớn. Vò đổ đầy nước, bên trên vẽ Thủy Long Vương. Sau đó, buộc một con chó vào giữa hai cái vò, để đầu chó ngửa lên trời, khi nó khát thì cho uống, đói thì cho ăn, khi không đói không khát thì để nó nhìn mặt trời sủa điên cuồng. Những năm tháng trước đây, lễ tế nhiều thì bảy ngày, ít thì ba ngày, mặt trời bị chó sủa phải thoái lui, liền nổi gió đổ mưa hoặc trời âm u. Nhưng năm nay, bắt một con chó hoang tháo chạy từ thôn khác đến trói lên đài tế, để nó kêu điên cuồng cả nửa tháng, mặt trời vẫn như thiêu như đốt, mọc đúng giờ, lặn đúng giờ. Đến chính ngọ ngày thứ mười sáu, ông lão đi qua đài tế đó, phát hiện ra mặt trời chiếu cùng chó uống, đã cạn một trong hai vò rồi, còn một vò kia thì cũng bị thiêu cháy đến tận đáy, lại nhìn con chó này, lông đen cuộn khô cháy lại, sủa không thành tiếng nữa.
Ông lão thả con chó ra, nói, mày đi đi, trời sẽ không mưa nữa đâu.
Con chó từ trên đài tế đi xuống, đi về phía trước được mấy bước, đột nhiên đâm thẳng vào tường, quay đầu lại chạy, đâm tiếp đầu vào gốc cây, ông lão đi đến kéo tai nó nhìn, lòng trào lên một nỗi kinh hoàng, mới biết là con ngươi của chó đã bị mặt trời chiếu hỏng rồi, chỉ còn lại hai giếng mắt khô ở phía dưới trán nó.
Ông lão giữ con chó lại.
Ông lão nghĩ, may mà nuôi con chó mù này, nếu không một mình ở lại dãy núi này thì biết nói chuyện với ai. Đêm đã đến rồi, trời đã trở nên mát mẻ hơn, cái nóng nực của một ngày bắt đầu lùi đi một chút. Trăng sao trên bầu trời phía trên lều cũng bắt đầu thu lại ánh sáng của nó, giống như kéo lưới đánh cá, có tiếng nước dầm dề tí ta tí tách màu trắng xanh. Ông lão biết, âm thanh này không phải là tiếng nước, cũng không phải là tiếng cây, tiếng cỏ, tiếng côn trùng thỉnh thoảng kêu. Đây là âm hưởng của sự yên tĩnh cực độ được tiết ra từ sự tĩnh mịch cực độ trong màn đêm trống trải mênh mông. Ông vuốt từng đám từng đám lông trên đầu con chó, men theo sống lưng nó, vuốt đến đuôi, rồi lại đưa tay vuốt lên đầu nó. Con chó đã không còn rơi lệ nữa. Ông không ngừng vuốt lông nó, nó không ngừng liếm lên tay kia của ông. Đêm nay, họ chìm đắm trong cảm giác ấm áp của sự tựa nương, trong lòng có nỗi đồng cảm khó nói thành lời.
Ông nói, mù này, tao thương lượng với mày một việc, mày phải bằng lòng với tao.
Con chó liếm nhẹ lên tay ông.
Ông lão vuốt ve trán chó, hỏi, hai chúng ta thành một nhà sống qua ngày, mày đồng ý không? Có một người bạn khiến cuộc sống trở nên thú vị biết bao.
Con chó lại liếm liếm khắp lòng bàn tay ông.
Ông lão nói, tao không sống được mấy năm nữa đâu, mày có thể làm bạn đến lúc tao chết thì cũng coi như cuộc đời tao có hậu rồi.
Nó liếm từ ngón tay ông dần dần lên cổ tay ông, đường lưỡi dài cứ như mười dặm, hai mươi dặm.
Để mặc cho nó liếm một lúc, ông lão lại hỏi con chó, mù này, mày xem mầm ngô đó của chúng ta còn có thể mọc lên không? Con chó không liếm tay ông nữa. Chó gật đầu với ông. Ông nói, đêm nay sẽ mọc mầm, hay là ngày mai, ngày kia mọc? Hỏi xong lại tiếp tục nói, tao buồn ngủ rồi, mày đừng có gật đầu với lắc đầu, tao không nhìn thấy đâu, cổ họng mày có âm thanh thì mày nói đi. Mày nói là đêm nay mọc mầm hay là qua đêm nay mới mọc mầm? Ông lão nằm trên gác lều, nhắm mắt lại rất nhanh, bóng lều nhàn nhạt giống như lớp voan mỏng thấm nước phủ lên mặt ông. Ông không vuốt trên sống lưng của con chó nữa. Tay ông dừng trên đầu con chó, từ từ lặng lẽ chìm vào giấc ngủ.