← Quay lại trang sách

Chương 3

Khi ông lão tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao bằng ba cây sào. Ông cảm thấy mí mắt bỏng rát giống như có kim châm, ngồi dậy, dụi mắt, nhìn ra xa thấy một vầng vàng kim vẫn treo như cũ ở chính giữa phía trước, thầm chửi một câu, tám đời tổ tiên nhà mày, sẽ có ngày ông đào mả họ mặt trời nhà mày lên cho mà xem. Sau đó, ông nhìn thấy con chó mù nằm bên mầm cây ngô ở giữa ruộng. Trong lòng khẽ nghi ngờ, hỏi, mọc mầm rồi à? Con chó hướng về phía ông khe khẽ gật đầu, ông liền bò xuống gác lều, đến chỗ đó quả nhiên nhìn thấy bên mầm cây giống như một mẩu củ cải non, lại mọc lên một cái mầm nhỏ phơn phớt như nước, mầm cây vừa mọc giống như mầm bồ kết, cao bằng nửa ngón tay, non đến mức như chỉ cần khẽ vuốt ve thì sẽ rớt xuống như giọt nước, mượt mà như ngọc lấp lánh ánh sáng non tơ dưới nắng mặt trời.

Ông muốn tìm một chiếc lá cây che lên mầm non đó, liền đến bên con rạch dưới vách núi đi một vòng rộng, nhưng về tay không, lại đứng một lúc bên cái bếp nhỏ, cầm cuốc đến chỗ cây hòe móc xuống một cành dài, quay lại nhẹ nhàng đặt phía trên mầm cây, rồi lại bò lên gác lều lấy chiếc áo vải của mình, phủ lên cành cây, che mát cho mầm cây.

Ông nói, dù thế nào cũng không dám để xảy ra chuyện gì nữa.

Con chó nghe tiếng nói, nhìn ông.

Ông nói, mù này, ăn cơm thôi, mày muốn ăn gì đây?

Con chó vẫn nhìn ông như cũ.

Sáng bảnh rồi ăn uống gì nữa, ông lại nói, nấu bát canh tấm ngô ăn nhé, buổi trưa sẽ nấu một bữa cơm ngon.

Khi mầm ngô mới lại mọc thêm hai chiếc lá, ông lão về làng tìm lương thực. Lương thực trong nhà ông không còn một hạt. Ông nghĩ một cái làng to như thế này, vại lương thực mỗi nhà rơi một nắm lúa mạch, trong vại sót lại một nhúm bột, thì cũng đủ cho ông và con chó mù sống qua cơn hạn hán này rồi. Nhưng khi về làng, ông mới đột nhiên phát hiện ra cửa của mọi nhà đều đã khóa, mạng nhện giăng từ bên này sang bên kia đường làng. Ông về nhà mình trước, ông biết rõ vại lương thực đã dùng bàn chải quét rồi, nhưng vẫn phủ phục trên vại nhìn nhìn, thò tay vào trong sờ sờ. Rút tay ra, ông đưa ngón tay lên mồm mút mút, mùi bột thơm trắng toát lập tức tan trong miệng ông, râm ran lan khắp toàn thân. Ông hít sâu một cái, nuốt mùi vị đó, quay ra đứng bên đường làng. Ánh nắng xiên chéo giống như một lớp dịch vàng chuyển động thành âm thành tiếng trong làng, càng khiến người ta cảm thấy cái tĩnh lặng chết chóc. Có thể sờ thấy nỗi cô đơn giống hệt như màn đêm. Có thể dùng ánh mắt sờ thấy tiếng ánh nắng từng giọt rơi trên hiên nhà. Ông lão nghĩ, tất cả người trong dãy núi đều đã đi rồi, kẻ trộm không bị chết vì nắng thì cũng bị chết vì đói rồi, mẹ kiếp bà nội nhà các ngươi, các ngươi khóa cửa là để phòng ông lão này sao? Càng phòng ta, ta càng phải cạy cửa trèo tường. Ông lão nói, đừng tưởng ta không biết, làm gì có nhà nào không để lại chút lương thực? Không để lại lương thực sau khi hạn hán qua đi, trở về lấy gì mà ăn? Không để lại lương thực thì khóa cửa làm gì?

Ông lão đứng lại trước cửa một nhà. Đây là nhà của đứa cháu trong họ, ông lão suy nghĩ một thoáng rồi lại đi đến một nhà ở phía trước. Đến trước cửa nhà của một quả phụ già. Quả phụ già khi còn trẻ, mỗi mùa đông đến đều làm cho ông một đôi giày đế được lót bằng lông cừu. Bây giờ quả phụ già đã chết rồi, con trai bà sống ở căn nhà cũ này. Nhớ đến sự ấm áp mà căn nhà này mang lại cho ông, giống như năm tháng lưu lại rất lâu trong lồng ngực trống trải của ông, ông lão nhìn cái cổng đó một lúc lâu, rồi lại lặng lẽ đi về phía trước. Bước chân ông cô lẻ nhưng âm vang, giống như tiếng chặt cây trong rừng sâu nước xanh năm xưa, vọng mênh mang đến cổng lớn từng nhà từng nhà đều đang khóa trong thôn, lại giống như một chiếc thuyền khô trượt đi từ cửa nhà này đến nhà khác.

Cuối cùng ông đã đi hết một lượt cả thôn.

Mặt trời đã lên lưng chừng trời. Đã đến lúc phải nấu cơm trưa. Chó mù ở đây thì tốt, ông lẩm bẩm nói, nó bảo mình trèo tường nhà ai, mình sẽ xông bừa lên trèo tường nhà đó.

Thế là ông lão hướng lên sườn núi gọi:

Mù ơi… mù ơi, mày nói tao nên đến nhà ai để tìm lương thực đây?

Trả lời ông lão chỉ là sự im lặng mênh mang vô tận.

Ông lão nản lòng, ngồi xuống hút một tẩu thuốc, lại tay không đi về ruộng nương Tám Dặm Rưỡi, về tới đó, con chó mù từ rất xa đã vẫy đuôi, theo âm thanh chạy lại, cọ đi cọ lại cái đầu vào ống quần ông. Ông lão không để ý đến nó. Ông lão đến chỗ cây hòe lấy cái cuốc xuống, đến gác lều lấy một cái bát, cuốc từng nhát, từng nhát một từ bờ ruộng. Sau ba nhát cuốc, ông lão cuốc lên được hai hạt ngô hồi đó trồng xuống, vàng ươm không bị hư hại gì, bị mặt trời chiếu nóng đến bỏng cả tay. Ông lão dựa theo khoảng cách gieo hạt trước kia, mỗi nhát cuốc đều đào lên được một, hai hạt giống. Ước chừng sau khoảng thời gian bằng đi mấy dặm đường, trong cái bát trống đã đầy hạt ngô giống.

Một bữa ngô rang ngon lành.

Giữa lúc uống nước ăn ngô rang, ông lão và con chó mù ngồi trong bóng râm của cái gác lều rủ xuống, đột nhiên lặng lẽ không cười nữa. Trong ruộng của mỗi nhà đều cất giữ lương thực cho ta, ông lão nói, tao ra ruộng cuốc nửa ngày, đủ cho hai chúng ta ăn ba ngày. Nhưng khi đến cuốc ở ruộng nhà người khác, lại không dễ dàng như vậy nữa. Không phải nhà nào cũng giỏi trồng trọt, khoảng cách giữa các hàng cây khi gieo trồng không ngay ngắn. Còn có rất nhiều nhà, khi đó vội gieo hạt trước khi trời mưa, phần lớn là trẻ con trai gái cuốc lỗ, chúng cuốc cao cuốc thấp, dùng sức mạnh yếu, gieo hạt lộn xộn lung tung, lúc xa lúc gần, khác xa với quy luật đều đặn như ông lão gieo trồng. Trước kia, các gia đình tuyệt nhiên không cho trẻ em cầm cuốc gieo trồng. Nhưng trong đợt hạn hán này, làm cái gì cũng lung tung.

Ông lão không thể đào nửa ngày mà đủ ăn ba ngày cho ông và chó mù. Ông lão vắt sức đổ mồ hôi cuốc một ngày, lúc may mắn có thể ăn hai ngày, không may mắn thì chỉ có thể ăn một ngày. Mầm ngô mỗi ngày một cao, trong đêm yên tĩnh âm thanh sinh trưởng của nó bé nhỏ và non nớt, giống như tiếng thở của đứa trẻ con khi say ngủ. Lúc đó, ông lão và con chó ngồi bên mầm cây ngô, cho cơ thể được nghỉ ngơi sau một ngày cuốc đất, nghe tiếng thở sinh trưởng của mầm ngô, cảm thấy khớp xương toàn thân mềm ra nhưng lại rất dễ chịu. Mặt trăng mọc lên, giống như gương mặt phụ nữ, treo trên đỉnh đầu mênh mông, những vì sao sáng lấp lánh vây quanh vầng trăng, giống như những cái cúc đơm trên áo mới ngày lễ tết đính trên tấm vải lụa xanh lam thuần khiết rộng vô tận vô biên. Lúc này, ông lão liền hỏi chó mù, mù này, khi còn trẻ, mày làm cái việc ấy với mấy con chó cái?

Con chó như vô cùng tiếc nuối nhìn ông.

Ông nói, mày nói thật đi mù, ở đây không có ai khác, chỉ có hai chúng ta, đêm khuya lại yên tĩnh.

Con chó vẫn cứ lơ ngơ nuối tiếc nhìn ông.

Không nói thì thôi. Ông lão thở dài một cái, có vẻ buồn bã châm thuốc hút, hướng lên trời nói, thời trẻ tuyệt vời biết bao, cơ thể khỏe khoắn, đêm xuống có phụ nữ. Nếu được người phụ nữ thông minh, khi từ ruộng trở về, cô ấy bưng nước lên cho anh, khi mặt đổ mồ hôi, cô ấy đưa quạt hương bồ cho anh, ngày tuyết rơi thì trải ổ ấm áp cho anh. Ban đêm “bận rộn” với cô ấy, trời sáng phải ra đồng, cô ấy còn nói là mệt suốt đêm rồi, anh ngủ thêm một chút nữa đi. Cuộc sống như thế, ông lão hít mạnh một hơi thuốc, thở ra dài như một bờ đê mười dặm, rồi lại vuốt tay lên lưng con chó, nói tiếp, như thế có khác gì cuộc sống của thần tiên đâu, có gì khác nhau đâu?

Ông lão hỏi, mày đã từng sống cuộc sống như vậy chưa? Hả mù?

Con chó mù vẫn im lặng.

Ông lão nói, mù này, có phải đàn ông đến với thế giới này là vì cuộc sống như vậy không? Không để cho con chó mù trả lời nữa, ông hỏi xong thì tự mình nói, theo tao thì đúng đấy. Lại nói tiếp, có điều già rồi thì không phải như vậy nữa, già rồi thì lại sống vì một cái cây, một ngọn cỏ, một đàn cháu trai, cháu gái mà thôi, sống dù sao cũng tốt hơn là chết. Ông lão nói đến đây, lại rít một hơi thuốc, mượn ánh lửa để thấy âm thanh sinh trưởng của cây ngô xanh tươi non lướt qua trước mắt ông, đi đến bên tai ông như một sợi dây. Ông nhìn về phía mầm ngô, nhìn thấy đầu mầm cây cao bằng đầu gối đột nhiên tẽ ra, lại có một mầm lá mới cựa quậy mọc ra từ trong khoảng màu vàng nhạt tia tía, cuộn tròn tròn giống như một cây sáo liễu nhỏ. Đã có chín chiếc lá rõ ràng cong cong như cánh cung trên thân cây. Đứng dậy trên ruộng, cầm cuốc đào một cái hố dưới mầm cây, ông và con chó mù đều đái vào cái hố đó, rồi đổ ba bát nước vào trong, phủ đất lên, cuốc vài cái, rồi lại đắp một đống đất nhỏ quanh cây ngô. Sợ đột nhiên có một cơn gió lớn lại làm bật gốc cây, thế là ông lão trở về thôn ngay trong đêm, tìm bốn cái chiếu cói, ở cách bốn thước xung quanh cây ngô, đóng xuống bốn cây cọc to như cánh tay, đem bốn chiếc chiếu cói quây quanh cây gậy để thành một bức tường chiếu. Khi dựng bức tường chiếu cói đó, ông lão nói, mù này, mày về làng tìm ít dây đến đây, dây gì cũng được. Con chó mù bèn chân cao chân thấp men theo đường sườn núi dò dẫm đi về thôn, khi trăng lặn sao thưa, nó ngậm về chiếc mũ rơm bị ông lão xé nát trong trận gió đó, ông lão liền dùng dây mũ buộc chặt cái chiếu lên cột. Dây mũ không đủ, ông lại dùng dây rút quần đen của chính mình.

Làm xong tất cả những việc này thì phương đông đã hửng sáng.

Sớm chiều, vòng chiếu cói giống như một vườn rau nhỏ vây trước cổng một nhà nông giàu có. Cây ngô cô độc trong cái vườn đó đứng thẳng ở giữa như cột cờ, sống một cuộc đời phú quý, khát có nước, đói có phân, lúc chính ngọ còn có một chiếc chiếu rơm phủ lên trên đỉnh giá tròn che nắng cho, thế là nó vui vẻ sung sướng lớn rất nhanh, sau năm, bảy ngày, đã thò đầu ra ngoài chiếu quây rồi.

Vấn đề là mặt trời cứ chiếu từng chùm từng chùm, nước dưới giếng cuối cùng cũng khô cong. Ông lão hằng ngày về làng gánh nước, phải thả thùng hơn mười lần mới được một thùng nước, mỗi lần kéo lên, chỉ có thể đổ được một bát nước bùn pha cát. Một sự hoảng loạn bắt đầu trào lên từ đáy giếng, lạnh như băng xâm chiếm toàn thân ông lão. Cuối cùng, có một hôm, ông thả thùng không xuống, dây ròng rọc dài mấy trượng đều đã dùng hết, mới kéo lên được nửa bát nước. Sau đó phải đứng bên giếng đợi thêm rất lâu, nửa bát nước khác mới từ đáy giếng rỉ ra.

Nguồn nước khô kiệt rồi, giống như lá cây rụng hết.

Ông lão nghĩ ra một cách, trước khi trời tối, thả tấm đệm giường xuống đáy giếng, để nó hút nước suốt một đêm, sáng hôm sau kéo nó từ dưới giếng lên, có thể vắt ra được một nửa thùng nước. Sau đó lại thả tấm đệm xuống đáy giếng, xách nước trở về nương. Nước rửa nồi, nước rửa mặt, nước giặt áo mà chẳng mấy khi giặt, tất cả đều dùng để tưới mầm ngô, nước như vậy cũng không thực sự là thiếu. Khi vắt từng dòng, từng dòng nước từ tấm đệm vào thùng, hơi nước mát mẻ bay ra trong cái nắng chói chang. Ông lão và ánh nắng tranh nhau hít hơi nước như là đánh trận vậy, vừa tranh vừa nói, ta bảy mươi hai tuổi rồi, có chuyện gì mà chưa từng gặp? Giếng khô rồi ngươi có thể gây khó dễ được ta sao? Chỉ cần dưới lòng đất nhà ngươi có nước, ta sẽ có thể moi nước lên. Mặt trời nhà ngươi có giỏi thì chiếu khô nước dưới lòng đất đi.

Ông lão luôn là người chiến thắng.

Một hôm, ông lão cuốc ở ruộng nhà đứa cháu từ sáng đến tối được nửa bát hạt ngô. Hôm sau lại đổi sang ruộng nhà người khác, nhưng đến nửa bát cũng không đào được. Ba ngày sau đó, ông lão và con chó đã chuyển từ ba bữa ăn một ngày thành hai bữa, đổi canh sền sệt thành canh loãng. Ông cảm thấy sự tình đã nghiêm trọng rồi. Ông không thể nào hiểu được, hồi đó các gia đình đều cần cù cẩn thận gieo hạt giống xuống ruộng, hạt giống không nảy mầm, lẽ ra từng hạt, từng hạt vẫn còn chôn trong đất nâu chứ, nhưng bây giờ cuốc nửa ngày cũng không được nửa bát hạt ngô. Lại một hôm, khi ông đột nhiên nhìn thấy xương sườn của chó mù tranh nhau lộ ra giữa đám lông của nó, một tiếng run rẩy phát ra trong lòng ông lão. Ông thử chạm vào da mặt mình, không ngờ có thể kéo da mặt lên cao nửa thước. Da mặt giống như cái túi vải đựng một cái đầu lâu. Ông cảm thấy người không còn một chút sức lực gì. Kéo tấm đệm từ dưới giếng lên mà phải nghỉ đến mấy lần.

Ông lão nghĩ, mình không thể chết đói như thế này được.

Ông lão nói, mù ơi, chúng ta không thể không trèo tường vào nhà người ta rồi.

Ông lão nói, coi như đi vay vậy, mưa một trận, năm sau thu hoạch mình sẽ trả lại cho người ta.

Ông lão xách một cái túi, vật vờ lảo đảo trở về làng. Con chó đi sau ông, dọc đường không có một chút âm thanh nào. Trời quả thực quá nóng, mặt đất như bốc cháy. Ông bấm ngón chân cái xuống, cho ngón chân và gót chân bám xuống đất, để lòng bàn chân cong lên như chiếc cầu, tránh cái bỏng rát đỏ lửa trên mặt đất. Con chó mù cứ đi được mấy bước chân lại phải đưa móng chân trước lên miệng liếm láp. Chặng đường tám dặm rưỡi, mà họ đi như mất cả một năm, đến chỗ chuồng trâu ở lối vào làng, ông lão vội đến dưới bóng tường, cởi giày ra lấy tay xoa chân không ngừng.

Con chó gục xuống dưới bóng tường thè lè lưỡi thở mấy hơi, nghếch chân đái mấy giọt lên góc tường của một nhà.

Ông lão nói, mày đái ở đó à? Thế thì đi vay gạo nhà người ta vậy. Ông móc trong túi vải ra một cái rìu, đập tung khóa cổng. Đẩy cổng đi vào trong, đi thẳng tới cửa nhà trên, lại đập khóa cửa nhà trên, bước vào bên trong, ông lão nhìn thẳng vào lớp bụi dày đặc trên bàn phòng chính, mạng nhện giăng tứ tung. Dưới lớp mạng nhện bụi bặm đó, có một chiếc bài vị và bức chân dung của một ông lão phúc hậu. Ông ta mặc áo khoác ngắn khoác ngoài trường bào, đôi mắt sáng như dao, ánh mắt đó xuyên vỡ lớp bụi đất, đập chan chát lên người ông lão.

Ông lão có chút sợ sững người.