Chương 12
Trong ánh mặt trời luôn vang lên tiếng đáp lại sàn sạt cháy vàng, giống như gõ lên cái chiêng vỡ vậy, từ mặt dốc bên này vọng sang mặt dốc bên kia, càng đi càng xa, mãi cho đến khi biến mất. Ông lão đợi âm thanh đó hoàn toàn yên lặng, kéo lại một tấm chiếu cói, cầm chiếu đi về phía máng mộ, nói với con chó mù nằm bên cạnh mộ huyệt, chôn tao xong, mày men theo con đường mà tao nói với mày đi về phía bắc, đến chỗ con rạch nước suối đó, ở đó có nước, còn có đầy xương trên mặt đất mà sói vàng ăn còn để lại, ở đó mày có thể sống đến hết đại hạn, có thể đợi người dân núi Bá Lâu từ thế giới bên ngoài chạy về. Nói, nếu ông trời an bài không cho tao tiếp tục sống với mày, hôm nay chết cũng là chết, từ mai về sau cũng là chết. Trong lúc đang nói ấy, mặt trời chiếu trên đỉnh đầu ông lão, hạt đất giữa tóc lắc lắc chạm vào nhau kêu tinh tang. Nói xong những câu này, ông dùng tay phủi đất trên đầu, rồi nằm xuống thành mộ áp sát với rễ cây ngô, lấy cái chiếu cói phủ lên người từ đầu tới chân, nói cào đất đi, mù, chôn tao xong mày đi về phía bắc, nhớ rõ con đường tao nói với mày đi về phía lạch nước suối.
Dãy núi yên tĩnh không tiếng động, trong ánh mặt trời khốc liệt ẩn giấu ngọn lửa sắp đột ngột trào lên và cuộn chảy. Trong mênh mông mờ mịt, mùi khô cháy của sườn núi như mây mù cuồn cuộn. Dãy núi, khe rãnh, thôn làng, con đường, lòng sông khô cạn và sườn núi, chỗ nào cũng là ánh sáng sền sệt như canh lửa mịt mờ.
Tưởng rằng mùa thu không có mưa thì mùa đông nhất định có tuyết, nhưng mùa đông lại chần chừ không muốn nối gót mùa thu đến. Nhưng sau khi mùa đông đến, lại là một mùa đông khô trắng giá lạnh khốc liệt. Đại hạn cứ tiếp tục không ngừng đến mùa mạch năm sau. Thời tiết này, cuối cùng đã có mây mưa, lúc dày lúc tản, cứ lặp lại trong nửa tháng, cuối cùng mới đổ mưa. Trời mưa tối tăm như ánh mặt trời phủ lên dãy núi Bá Lâu vừa chẵn bốn mươi ngày. Trong bốn mươi ngày, nước mưa cuốn trôi mọi thứ, phủ đất ngập trời, mưa đến mức nước lũ cuồn cuộn, trắng xóa đầy thế giới. Vật vã chịu đựng đến lúc trời quang mây tạnh, lại đến vụ thu rồi, trên sườn núi đã bắt đầu có người từ thế giới bên ngoài trở về, gánh chăn đệm, bát đũa, tay dắt trẻ con đã lớn hơn một tuổi. Ban đêm, tiếng bước chân nhợt nhạt lẻ tẻ giẫm lên ánh trăng trên sườn núi. Đến khi trời sáng, trên sườn núi đã có dòng người cuồn cuộn. Tiếng xe kéo, tiếng gánh gồng, tiếng người nói, nhìn tiếng reo kinh ngạc của cây xanh, cỏ xanh mới mọc trên dãy núi, giống như dòng sông cuộn chảy trên sườn núi.
Sát theo sau là mùa trồng trọt. Thời tiết này người trong làng tháo nạn trở về, đùng đoàng một tiếng rùng mình, phát hiện ra nhà nhà đều không còn giống cây trồng vụ thu. Trong vòng mấy trăm dặm xung quanh dãy núi Bá Lâu đều không có giống cây trồng vụ thu.
Cũng chính lúc này, đột nhiên có người nhớ đến ông lão. Nhớ đến một năm trước ông lão đã lưu lại dãy núi vì một mầm ngô xanh non. Thế là người dân trong làng đều đi về ruộng nhà ông lão ở ngoài tám dặm rưỡi, đều từ rất xa đã nhìn thấy trong ruộng một mẫu mấy phân, có một cái lều cô lẻ. Đến dưới gác lều, lại đều nhìn thấy hễ trong ruộng mà ông lão đã từng cuốc, cỏ mọc dày như trồng, trong một lớp màu xanh rất dày, tỏa ra mùi xanh non thuần khiết dày đặc và mùi tươi sống vàng nhạt trắng ngần. Họ nghe thấy trong núi đồi trơ trọc này, âm thanh của vị cỏ đang cuộn chảy giống như tiếng nước sông trong đêm yên tĩnh. Trong cỏ xanh này, thứ người dân trong làng nhìn thấy đầu tiên là cây ngô đã khô chín năm ngoái, ngọn của nó đã gãy, giống như thân của một cây nhỏ, nghiêng ngả ở bên hai chiếc chiếu cói, lá ngô phủ đầy các chấm mốc, có lá rơi trên thảm cỏ, có lá vẫn đang phát triển, giống như tờ giấy đã từng ướt giờ khô lại đang bay. Có một bắp ngô to như cái chày treo ngược trên thân cây ngô, vững vàng đung đưa trong gió. Râu ngô đen khô cháy, tay người chạm vào, liền giống như hoa rụng rụng xuống cỏ dày. Người trong thôn đã bẻ bắp ngô này, nhanh chóng bóc vỏ khô trên bắp, phát hiện ra bắp ngô rất lớn này to bằng cái bắp chân, dài như cánh tay, tổng cộng có ba mươi bảy hàng hạt. Trong ba mươi bảy hàng, có bảy hạt to bằng bụng ngón tay, trong suốt như hạt ngọc, còn lại đều là hạt ngô nửa vàng nửa xám, chưa kịp trưởng thành đã khô quắt, teo tóp như hạt đậu.
Bảy hạt ngô này, lấm chấm trong một mảng khô xám quắt queo, giống như trong bầu trời màu đen, chỉ có bảy ngôi sao xanh lóng lánh. Người trong thôn nhìn bắp ngô chỉ có bảy hạt, đứng lặng dưới gác lều, ánh mắt tìm kiếm bốn phía, liền nhìn thấy chiếc chiếu cói trên cái vại to bị gió thổi đến bên cạnh bếp lò bên con rạch. Trong vại không còn một giọt nước nào, có một lớp đất dày. Một thân trúc cắm dưới vại nước, đã bị nứt rất nhiều kẽ. Trên mặt phía đông của vại nước, vứt mấy cái bát và cái muôi. Bên trên là một cái roi ngựa và một cái cân treo trên cột gác lều. Cách năm thước về phía tây nam của vại nước, trên bãi cỏ áp sát cây ngô, có một đống cỏ nhô lên khỏi mặt đất, lại có một mảng cỏ lõm xuống dưới mặt đất, hiện ra một cái máng rộng thước rưỡi, dài năm thước, sâu hai thước.
Trong chỗ cỏ thẫm ở đầu máng đó, một con chó đang nằm, trên da lông lởm chởm khô đét, có rất nhiều lỗ bị côn trùng cắn; hai hố mắt trên đầu, đen thui mà sâu thẳm. Toàn thân nó đều bị mặt trời chiếu khô, người trong thôn chỉ khe khẽ đá một cái, đã đá nó ra chỗ đám cỏ ngoài máng. Đương nhiên khi con chó bị đá ra, cái máng bất ngờ đã hiện hình một huyệt mộ giống như cái quan tài, thế là người trong làng kêu ồ lên, liền hiểu ra đây là mộ của ông lão. Ông lão được chôn trong cái máng này. Để chuyển ông lão đến mộ cũ, người trong làng đào rộng cái hố mộ ra, nhát xẻng đầu tiên ấn xuống liền nghe thấy tiếng lục cục, giống như đào phải cành lá đan chen. Hết sức cẩn thận nhổ cỏ trong hố lên, xúc đất xốp ra, mỗi người trong làng đột nhiên nhìn thấy cái quần cộc của ông lão đã biến mất không dấu vết, biến thành một lớp đất mỏng. Toàn bộ thân thể ông, đã thối rữa vụn ra, các khớp xương đã lìa nhau. Một mùi màu trắng mục nhức mũi bốc lên giống như sương mù. Ông lão nằm trong mộ, một cánh tay thò ra chính dưới cây ngô đó, còn thân hình, đều dựa sát vào bên cây ngô, lỗ mọt cắn khắp người, giăng mắc như sao trời, chi cha chi chít như mạng nhện, còn nhiều gấp mấy lần lỗ mọt trên người con chó mù. Còn mỗi rễ cây ngô đó, đều giống như sợi dây leo, giăng mắc vào nhau, hiện ra màu phớt đỏ, đều cắm vào lồng ngực, đùi, cổ tay và bụng ông lão qua các lỗ mọt. Có mấy cái rễ đỏ to như cái đũa, xuyên qua thịt rữa trên người ông lão, cắm trên xương sọ, xương sườn, xương chân và xương tay trắng toát của ông. Có mấy cái rễ lông trắng xen đỏ, cắm vào mắt ông lão, rồi lại từ gáy ông lão mọc ra, bám chặt vào lớp đất cứng dưới đáy mộ. Mỗi khúc xương, mỗi miếng thịt rữa trên người ông lão, đều bị mạng rễ của cây ngô giống như cái lưới bó lại, thông lên thân cây ngô. Đến lúc này, người làng mới nhìn thấy, dưới thân cây ngô đã sớm bị gãy ngọn, còn có hai đoạn thân, sau khi trải qua một mùa đông một mùa hạ, vẫn phủ mỏng một sắc xanh của nước ẩm ướt, vẫn sống trong năm nay.
Suy nghĩ một chút, người làng lại mai táng ông lão ở chỗ cũ. Chôn con chó như cỏ khô với ông lão trong cùng một huyệt hình cái máng. Khí đất mới ở ruộng dốc này, lan ra một lớp mỏng ấm áp và mục nát. Sau khi chôn xong, khi sắp đi thì có người phát hiện ra một cuốn lịch vạn niên từng bị mưa thấm ướt ở dưới gối trên giường ở gác lều. Có người còn nhặt được một đồng tiền xu trên thảm cỏ. Trên đồng tiền xuất hiện đầy gỉ xanh cổ kính. Cạo lớp gỉ xanh thô ráp đi, phát hiện ở mặt này của đồng tiền là mặt ráp có đúc chữ, mặt kia của đồng tiền cũng là mặt ráp có chữ. Không ai từng thấy đồng tiền mà hai mặt đều có chữ, người trong thôn truyền nhau nhìn một lượt. Xem rồi lại ném nó đi. Ánh mặt trời ngời sáng mà mềm mại, đồng tiền trên không trung chạm vào làm đứt từng khúc từng khúc ánh sáng, phát ra tiếng leng keng leng keng của từng cánh từng cánh hoa màu hồng, rơi xuống ruộng, lại lăn vào con rạch.
Mọi người cầm cuốn lịch vạn niên đó về.
Cuộc sống cứ từng ngày, từng ngày qua như vậy, đã đến lúc không thể trì hoãn việc trồng hoa màu rồi, người trong thôn trên dãy núi Bá Lâu đã ăn hết chỗ lương khô và lương thực xin về, cuối cùng không tìm được hạt giống ngô của mùa thu, người ba thôn năm làng, lại bắt đầu kết đội giống như sóng nước ào ra thế giới bên ngoài để tránh nạn. Cũng chỉ chưa đầy nửa tháng, dãy núi Bá Lâu hàng trăm dặm, liền lại trở nên hoang vắng mênh mông, yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng ánh mặt trời rơi xuống đất, tiếng lanh lảnh của trăng sao mọc trên trời.
Nhưng những người cuối cùng ở lại, là bảy người con trai của bảy hộ gia đình trong làng này, họ trẻ tuổi, khỏe mạnh, có sức vóc, bắc bảy cái gác lều trên bảy sườn núi, trên bảy mảnh đất màu nâu cách xa nhau, họ chống chọi không biết mệt mỏi với ánh mặt trời và nỗi cô đơn, trồng được bảy cây ngô tươi non xanh mướt.
HẾT