← Quay lại trang sách

Chương 11

Sau đó là một khoảng thời gian dài, ông lão và con chó sống bình yên và an nhàn, chẳng có bấp bênh lẫn muộn phiền. Họ đào mười mấy cái hố bẫy chuột trong ruộng theo hình cái vại, miệng nhỏ bụng to, vách như bầu trời đang treo, chỉ cần chuột nhảy xuống, thì sẽ không thể trèo lên được. Mỗi khi đêm đến, bỏ mười mấy hạt ngô tìm được trong ruộng về đập vụn luộc, cứ luộc cho đến khi mùi thơm ánh vàng bắt đầu tản ra khắp bốn phía, mới bỏ canh tấm vào trong hố, yên tâm ở trên gác lều hóng mát ngủ, ngày hôm sau chắc chắn có mấy con, thậm chí có mười mấy con chuột ở trong hố sợ hãi chít chít kêu thảm thiết. Như thế là có đủ lương thực cho một hoặc hai ngày rồi, cách một ngày thì đến vũng nước suối lấy một gánh nước về, ngày tháng yên bình như một dòng sông không có sóng. Cây ngô sống khỏe trong chiếu quây, cuối cùng sau nửa tháng đã mọc ngọn, trên lưng chừng thân cây đột nhiên phình to ra, mắt nhìn thấy rõ trổ ra một bắp ngô bằng ngón tay cái. Lúc nhàn rỗi, ông lão thường nói chuyện với con chó mù ở trước bắp ngô đó. Ông lão nói, mù ơi, mày nói xem ngày mai bắp ngô này liệu có to ra bằng cái chày giã bột không? Con chó mù nhìn ông lão vui vẻ, rồi lấy lưỡi liếm vào chân ông. Ông lão vuốt sống lưng con chó, lại đột nhiên cười một chút, nói ngô từ khi kết bắp đến lúc được thu hoạch thì phải một tháng mười ngày, làm gì có chuyện trong một đêm mà đã trưởng thành cơ chứ. Có lúc, ông lão nói, mù này, mày xem bắp ngô sao vẫn chỉ to bằng ngón tay cái vậy? Con chó mù đi xem bắp ngô đó, ông lão lại nói, mày bị mù, làm sao có thể nhìn thấy được cơ chứ, bắp ngô này đã to hơn ngón tay cái của tao từ lâu rồi.

Một hôm, ông lão gánh nước về, tưới cho cây ngô xong, nhàn rỗi buồn chán, ông liền cuốc một mảnh ruộng trên đất trống, đột nhiên phát hiện ra bắp ngô đã trổ dây tua, màu trắng như sữa bột, mềm mại mọc ra từ đầu bắp, giống như tóc của trẻ sơ sinh. Thế là ông liền đứng sững trước bắp ngô một lúc, cười khanh khách, nói, vụ mùa sắp chín rồi, mù ơi, mày nhìn thấy không? Vụ mùa sắp chín rồi.

Không thấy chó mù đáp lại, ông lão quay đầu tìm, thấy nó đang ở bên con rạch ăn da chuột, xương chuột hôm qua lột, nhai làm thối cả thế giới và lông chuột bay lượn khắp mặt đất. Ông lão cũng qua đó nói, không bẩn à, mù. Chó mù không nói gì, dẫn ông lão đi về phía hố bẫy chuột. Đến bên hố chuột, tim ông lão đập thình thịch một niềm kinh ngạc, hóa ra trong hố bẫy chuột chỉ có một con chuột nhỏ. Trong nửa tháng nay, đây là lần chuột rơi xuống hố ít nhất. Hôm trước năm con, hôm qua bốn con, hôm nay chỉ có một con. Hôm đó, ông lại đào mấy cái hố bẫy chuột trên sườn núi khác, trong mỗi hố đều đặt mấy hạt tấm ngô, sáng hôm sau đến hố đó bắt chuột, có một nửa hố trống không, các hố còn lại cũng chỉ có một, hai con.

Không còn cảnh một hố có mấy con hoặc thậm chí mười mấy con nữa rồi. Nửa tháng thịt chuột dồi dào ấy đã qua rồi. Trong những ngày không bắt được chuột ăn, ông lão một mình đi lên sườn núi, sau khi đi cân trọng lượng của ánh mặt trời ngày càng tăng cao, một mình ông đứng trên đỉnh núi, hướng về mặt trời ác độc, trong lòng có chút cảm giác sợ hãi. Cảm giác sợ này một khi đã nảy sinh, trong thoáng chốc liền mênh mông mờ mịt khắp núi rừng, sườn đồi đỉnh núi. Ông bắt về một con chuột, lột da rồi luộc, lấy vải bó lại, vỗ khe khẽ mấy cái vào đầu con chó, để nó canh giữ ruộng, còn mình thì lại lên đường. Ông lão thấy đường là đi, gặp chỗ ngoặt thì rẽ, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn đi một buổi, qua năm thôn làng trống, cuối cùng đứng trên một đường núi cao nhất, nhìn thẳng vào mặt trời một lúc, giơ tay nâng cân trọng lượng mặt trời, sau khi thở dài một cái, ngồi xuống chỗ râm mát dưới một vách núi nghỉ ngơi. Đoạn vách đất đó dốc ngược dựng đứng, hạt đất không chịu nổi ánh mặt trời chiếu, thỉnh thoảng từ trên vách núi đó vãi xuống như mưa. Mảnh ruộng trước mắt, những kẽ nứt nẻ như mạng lưới khô khốc sâu như hẻm núi trên mặt dốc, đưa ngón tay vào trong khe nứt đó, có thể cảm thấy có luồng gió mát mẻ. Lại nhìn về phía xa, sườn núi uốn lượn không ngừng giống như những tia lửa đang cháy bập bùng, chăm chú nhìn một lúc, sẽ cảm thấy khóe mắt đau rát như lửa đốt. Ông lão liền ở trong bóng vách núi vàng nhạt nóng cháy ngồi một lúc, lấy một cái bao vải từ trong túi, mở ra, hóa ra một cuộn thịt chuột vốn tươi non, khi luộc còn vừa đỏ vừa sáng giống như một nửa củ cà rốt đỏ, nhưng chỉ qua nửa ngày, đã biến thành màu đen sì đen sịt, cứ giống như một nắm bùn. Ông lão để thịt chuột dưới mũi ngửi, mùi thơm hoàn toàn mất hết không biết đi đâu rồi, trong mùi khai màu xám còn lại kẹp theo mùi thối màu trắng mốc nhàn nhạt. Ông đi hơn nửa ngày đường núi, thực sự đã đói đến mức không thể chịu nổi nữa, khi xé cái chân chuột đang định ăn, thì lại phát hiện ra trong thịt chuột có mấy hạt gì trắng sáng, giống như hạt gạo động đậy qua lại. Người ông đột nhiên run lên, muốn ném chỗ thịt chuột đó đi, nhưng đã đưa tay ra, lại rụt tay vào.

Ông lão nhắm mắt lại, há to miệng, một miếng nhét liền đầu, thân chuột vào trong miệng, trệu trạo nhai mấy cái rồi gắng nuốt xuống bụng, xong lại làm miếng nữa ăn hết con chuột.

Ăn hết thịt chuột, mở mắt ra, ông lão nhìn thấy hai con giòi rơi trên đất khô cháy trước mặt mình, một lúc sau đã khô trên mặt đất.

Khoác màn đêm trở về bên ruộng, đêm ấy, ông ngồi bên cây ngô cả đêm không ngủ, để mặc con chó mù thân thiết với ông vẫn cứ lặng lẽ hồi lâu không nói gì. Ông nhìn lên trời, nhìn râu ngô đã chuyển sang màu đỏ, đến khi trời sáng, ông đột nhiên ngồi dậy, một mình giẫm lên sắc trong tờ mờ sáng, đi về phía thôn làng.

Thế giới trên dãy núi vẫn rộng lớn vô bờ vô bến. Con chó mù hướng về sườn núi đuổi theo ông vài bước, rồi lại quay lại quyết canh giữ dưới cây ngô.

Nó canh gác đợi ông lão trở về.

Buổi trưa, ông lão quay về. Ông vần từ thôn về một cái vại nước màu tương to như cái thúng. Ông lão dựng cái vại ở bên cây ngô, lên nương rẫy đi vài vòng, cuối cùng bắt về một con chuột to như nắm tay, ông lấy tay bóp cổ chuột, đến dưới lều giết con chuột đó, nhỏ máu chuột vào bát. Sau đó lột da chuột cho con chó mù, còn mình thì chưng tiết chuột, luộc thịt chuột, ăn tiết chuột, lại gói thịt chuột, gánh thùng nước lên đường.

Ông muốn gánh đầy vại nước.

Đi trên sườn núi, ông lão thầm tính một chút, ba mươi mấy hố bẫy chuột khắp trời khắp đất, tổng cộng còn có chín con chuột, ông và chó mù một ngày cùng ăn một con chuột, chín ngày sau cũng hết sạch lương thực. Trong tất cả ruộng nương, không có hạt giống mà người dân trong thôn trồng cách đó mấy tháng; trong tất cả thôn làng, không có nửa hạt lương thực, nửa cây rau dại nữa. Đúng vào tiết thu hoạch này, trọng lượng ánh mặt trời mỗi ngày tăng thêm một hoa, đây là lúc cây ngô cần chất dinh dưỡng và nước nhất. Trong chín ngày này, ông lão mỗi ngày một gánh đổ đầy vại nước, lúc đó ông và chó mù có ngồi đợi chết đói, cây ngô vẫn có thể nhờ có nước mà trổ bắp. Tính toán như vậy, ông lão một mình vừa đi vừa đá bụi đất trên sườn núi, ánh mặt trời sắc nhọn từng chùm, từng chùm đâm nghiêng chọc trên người ông. Ông lại ngửi thấy mùi râu cháy khét của mình. Ông đặt con chuột đã luộc chín đó vào trong thùng, lấy mũ rơm che lên thùng, mồ hôi từ trán chảy xuống, lấy đầu ngón tay gạt đi, thè lưỡi ra liếm liếm mồ hôi trên đầu ngón tay ướt. Cảm thấy mồ hôi chảy ở đầu gối, ông liền ngồi xuống hút mồ hôi trên đầu gối vào bụng, cố gắng hết sức không để nước trên người lãng phí mất đi trong ánh mặt trời. May mà mỗi ngày ông đều gánh thùng nước đi về phía bắc vào lúc trời chưa sáng, khi mặt trời ngang đỉnh đầu, cách suối nước vẫn còn năm, sáu dặm thì mới đổ mồ hôi đầm đìa, như vậy ông chỉ cần ở trên năm, sáu dặm đường này hút uống mồ hôi của mình. Đến khi mặt trời treo cao trên đỉnh thì ông đã đến bên suối, có thể ăn thịt chuột, uống một bụng nước, nghỉ ngơi một lúc, chờ hồi phục sức lực, quẩy một gánh nước hổn hà hổn hển trèo lên sườn núi, khi khát thì ông tiếp tục nhoài lên thùng nước uống, đói cũng nhoài lên thùng nước uống. Lúc này cũng đến buổi trưa rồi, mặt trời rừng rực, rừng rực không nặng đến một lạng, thì cũng tầm tám hoa hoặc chín hoa. Dưới ánh mặt trời nóng bỏng cô đơn đó, ông lão có thể nghe thấy tiếng mồ hôi chảy đầm đìa trên mặt, trên người. Ông không hận ánh mặt trời, cũng không oán ngày tận thế hạn hán trên thế giới chỉ còn ông và con chó, chỉ khi hai chân mệt đến mức run rẩy, không ngừng tự hỏi, mình đã già rồi sao? Mình đã già rồi sao? Trong thôn từng có chuyện ông lão bảy mươi tuổi vẫn có thể cùng phụ nữ sinh con, sao mình lại không gánh nổi một gánh nước thế này? Nhưng cuối cùng, hai chân vẫn yếu đến mức không chịu nổi, đành phải đặt thùng nước xuống thở dốc một hồi, nằm rạp trên thùng uống căng tròn bụng. Sau đó lại tính tính toán toán một chút, mỗi lần gánh một gánh nước, mười mấy dặm đường phải nghỉ tới hơn hai mươi lần, hoặc ba mươi lần. Mỗi lần nghỉ đều phải uống ít nước, uống rồi chảy mồ hôi, chảy rồi lại uống nước, mỗi lần gánh hai thùng nước trở về chỉ còn lại một thùng.

Nước trong vại lớn đã được một phần ba, nhưng chuột trong ruộng năm ngày sau thì chỉ còn bốn con thôi. Cây ngô dưới ánh mặt trời mọc tươi tốt màu xanh lục đậm, râu ngô sau khi chuyển sang màu đỏ, dường như dừng lại nghỉ không đổi sắc nữa, bắp ngô tuy bằng củ cà rốt nhỏ, nhưng râu ngô không đổi sắc nữa nên dường như bắp ngô cũng dừng lại chẳng phát triển. Đầu không vàng, râu không đen, con đường đến lúc trưởng thành của cây ngô vẫn còn rất xa xôi. Lúc hoàng hôn, vùng núi vẫn là một màn nóng bỏng khô khốc, chỗ nào cũng một màu máu đỏ quành quạch, ông lão chọc vào làn máu đó, dùng tay sờ bắp ngô và râu ngô xanh thẫm, cảm giác mềm mại khiến lòng ông có chút ớn lạnh dâng lên, khi nào mới đến kì thu hoạch đây? Theo đà sinh trưởng bây giờ, e rằng ít nhất vẫn cần đến hai mươi ngày hoặc một tháng. Ông tính thời gian và mùa vụ, từ khi người dân trong thôn rời làng, đến nay đã bốn tháng rồi. Thông thường thời gian trưởng thành của một cây ngô là bốn tháng rưỡi, hoặc nhiều hơn một chút, cây ngô này vì gặp phải nhiều tai ương, thời gian trưởng thành đương nhiên sẽ kéo dài. Không hiểu sao trong lòng ông tràn lên rất nhiều nỗi cảm thương vô duyên vô cớ như mưa mung lung. Ông dẫn con chó đến mỗi hố bẫy chuột một lượt, vẫn không nhìn thấy thêm một con chuột nào. Ông lão đón một hơi gió từ trên sườn núi thổi tới, rồi lại nằm ngửa bừa ra bên đường. Cái nóng như lửa thiêu nâu đỏ trên đất, xuyên thấu qua lưng ông, cuộn chảy trong thân thể ông. Con chó nằm bên cạnh ông lão, gầy đến mức nằm xuống thì dường như không có sức lực để đứng lên nữa. Có tiếng kêu yếu ớt của một con chuột từ dưới hố truyền lên, dẫn dụ cơn thèm ăn núi lở sóng gào của con chó và ông lão.

Con chó mù quay đầu đối diện với hướng chuột kêu nhưng không động đậy gì.

Ông lão nhìn lên bầu trời vẫn trầm mặc như bao năm năm tháng tháng.

Thời gian cứ trôi qua vừa tĩnh mịch vừa vang động, sau đó, ông lão lật người, tạo ra một âm thanh kinh thiên động địa trên dãy núi, con chó mù tưởng ông lão cuối cùng cũng muốn mở lời nói chuyện, vội vã quay đầu lại, ông lão lại nhấc người đứng lên đi. Ông trở về bên gác lều, không nói gì chỉ nhè nhẹ miết miết sờ sờ bắp ngô, lặng lẽ đứng một hồi, nhìn về phương xa mờ mịt, miệng lẩm bẩm khàn đặc một câu gì đó, sau đó mượn ánh trăng gánh thùng nước đi về phía bắc.

Ông lão suốt đêm lại đưa về một gánh nước. Gánh nước này ông chỉ uống vài hớp, đến bên vại vẫn còn đầy ăm ắp hai thùng. Đổ một nửa thùng vào vại, còn lại nửa thùng tưới mấy bát vào thân cây ngô, còn mấy bát khác đổ vào trong một cái chậu, để con chó mù khi nào khát thì uống, sau đó luộc một con chuột, rồi lại gánh thùng nước đi.

Trong liên tiếp ba ngày, ban đêm ông lấy về một gánh, ban ngày lấy về nửa gánh, thế là vại nước đã đầy. Ông lão quyết định nhân lúc mình vẫn còn chút sức lực, trong hố vẫn còn một con chuột, cuối cùng đến con rạch lấy một gánh nước. Gánh nước này có thể giúp ông và chó mù đỡ đói và đỡ khát trong rất nhiều ngày. Đương nhiên không thể hi vọng trời đổ mưa, ông chỉ có thể hi vọng chỗ nước này có thể khiến cây ngô gắng gượng đến ngày thu hoạch bắp chín, có thể khiến mỗi hạt trong bắp ngô đều căng tròn chín mẩy. Một cây giống, đến mùa thu hoạch tẽ ra chính là một vốc vàng óng. Nếu mỗi hàng trên bắp ngô có ba mươi lăm hạt, một vòng ít nhất có khoảng hai mươi ba hàng, thế thì được một vốc ngô tới mấy trăm gần nghìn hạt. Bốn tháng rưỡi qua rồi, cho dù thế nào, kì thu hoạch đang đến từng ngày, vào lúc chính ngọ, đã có thể ngửi thấy mùi thơm nồng vàng vàng dinh dính trong bắp ngô đó. Đến lúc nửa đêm, mùi thơm đó lại tinh khiết như dầu vừng, từng đợt, từng đợt bay tản ra, giống như tơ tằm rơi vào trong ruộng.

Ông lão đi lấy gánh nước cuối cùng vào lúc trăng ở giữa trời, khi trở về đã là quá trưa hôm sau, trên đường tổng cộng nghỉ bốn mươi mốt lần, uống một nửa gánh. Đem nửa gánh cuối cùng về ruộng ở đầu sườn núi, ông cứ ngồi nghỉ liên tục cho tới khi đêm xuống. Ông tưởng rằng mình không còn sức đưa nửa gánh nước này về bên vại ở dưới lều nữa, liền quyết định đi luộc con chuột cuối cùng để ăn. Đó là con chuột to nhất trong chín con chuột, sau một lúc, mắt chuột hiện ra màu đỏ. Nhưng ông đến bên cái hố bẫy chuột xa nhất đó, lại phát hiện ra trong hố giống như cái vại, ngoài đất vụn do chuột giẫm đạp rơi xuống, trong hố trống không, chẳng biết chuột đã đi đâu hết rồi. Ông lão lặng người, ngồi bên hố, lại nhìn thấy trên tầng đất vụn trong hố còn có dấu chân của chó mù, có lông chuột loạn xạ và vết máu giống như vỏ táo.

Ông lão không nói gì, ngồi bên hố đến tận lúc trời tối.

Khi vầng trăng xuất hiện, ông lão cười nhạt một cái, khóe miệng giống như tảng băng dần dần tách ra, cuối cùng ông phải mở miệng nói. Từ từ đứng dậy, ngắm nhìn chòm mây và bóng khói di động trong ánh trăng, ông lão lầm bầm nói, mù à, mày ăn con chuột đó rồi, ăn hết rồi. Mày ăn rồi thì tao có thể nói với mày rằng, những ngày tiếp theo không phải là mày coi tao là cơm, sống tiếp cùng cây ngô, thì là tao coi mày là cơm, sống tiếp cùng cây ngô đến khi thu hoạch. Ông lão nghĩ, mù à, cuối cùng tao có thể nói với mày những lời này rồi, bao nhiêu ngày tao không tìm được cơ hội để nói những lời này. Ông lão bắt đầu đi về phía dưới gác lều, hai chân tuy mỏi nhừ, bước chân vẫn có thể bước tiếp như cũ, hơn nữa đã đến đầu sườn núi, ông vẫn đem nửa gánh nước về.

Con chó mù đang nằm dưới lều, nghe thấy tiếng bước chân của ông lão, nó đã đứng lên, như muốn đi về phía ông, nhưng lại lặng lẽ lùi lại phía sau mấy bước, nằm trên cửa chiếu quây cây ngô. Ánh trăng mênh mông, vẫn còn nhiễm rất nhiều khí nóng rừng rực. Ông lão đặt thùng xuống bên cái vại, mở cái chiếu ra xem nước trong vại, cởi giày đổ hạt sỏi trong giày ra, nhìn một hồi cái roi đánh ngựa cũ treo trên cột lều, sau đó ho một tiếng, khe khẽ chầm chậm nói, mù ơi, mày lại đây.

Đây là lần đầu tiên con chó mù nghe ông lão gọi nó trong mấy ngày nay. Dưới ánh trăng, nó khe khẽ thu mình lại, cố gắng đứng lên, sợ sệt nhích một bước về phía trước, rồi đứng lại hướng về phía ông ngồi, trong đám lông lơ thơ trên lưng vang lên tiếng run rẩy khe khẽ. Ông lão chuyển ánh mắt về phía xa xa, nói, mù à, mày không cần phải sợ, ăn thì cũng đã ăn rồi, đó là khẩu phần ăn cuối cùng của tao và mày, tao không trách mày đã ăn phần lương của tao. Sau đó, ông lão quay đầu lại, nói, mù à, đã đến lúc nên nói với mày câu này, bởi vì mày không nhìn thấy, nên tao nói thật với mày vậy, trong vòng trăm dặm trên dãy núi này, không còn một hạt lương thực nào nữa đâu, không còn một con chuột nào nữa. Sau ba ngày, tao và mày đều đói đến không còn sức để nói nữa. Đến lúc đó, ông lão ngập ngừng nói, nếu mày muốn sống, thì mày coi tao là cơm ăn từng bữa, từng bữa, sau đó canh giữ cây ngô này, đợi người trong làng trở về, đưa họ đến đây bẻ bắp ngô này; đương nhiên rồi, ông lão ngừng một lúc rồi nói tiếp, mày muốn cảm ơn tao đã nuôi sống mày bốn, năm tháng nay, muốn để tao sống trên thế gian này, thì để tao coi mày là cơm ăn, để tao vật vã sống đến mùa thu hoạch. Ông lão nói, mù ơi, việc này do mày quyết định, mày muốn sống thì đêm nay rời khỏi nơi này, trốn ở đâu cũng được, sau dăm ba ngày trở về, tao cũng đã chết đói ở đây rồi, mày cuối cùng cũng có cái ăn, cũng có cái uống. Sau khi nói xong câu này, ông lão nhìn ra chỗ khác, dùng tay lau lên mặt một chút, từ trên xuống dưới, hai dòng nước mắt ướt lòng bàn tay ông, sau đó lặng im không nói điều gì.

Ruộng nương, sơn dã, màn đêm và cây ngô, lúc này yên tĩnh đến mức ánh trăng rơi trên đất cũng kêu giống như nước chảy rào rào.

Con chó mù đứng im không động đậy, đợi ông lão nói xong, nó ngơ ngẩn một lát, bắt đầu từ từ đi về phía ông mấy bước, đi thẳng đến dưới đầu gối ông, từ từ khuỵu chân trước xuống, chân sau vẫn đứng thẳng, cái đầu dài lởm chởm xương của nó lại ngẩng cao cao lên, dùng hai hố mắt như cái giếng khô vọng nhìn ông lão không nói gì.

Ông lão biết, nó đang quỳ trước ông.

Sau khi quỳ, nó lại đứng lên, từ từ đi về bên bếp lò, dùng miệng đùn cái nắp nồi, lấy một thứ gì đó từ trong nồi ra, đi về phía ông lão.

Nó đặt cái thứ đó xuống dưới chân ông. Là một con chuột đã lột da, hiện ra màu xanh tím trong ánh trăng như nước dầm dề, nhìn một cái là biết máu bầm trên người con chuột đều vẫn ở trong thịt, không giống như khi ông lão giết chuột, mổ bụng moi ruột, máu đều chảy ra từng giọt từng giọt. Ông lão cầm cái cuộn thịt tím đó lên xem, vết răng con chó mù trên thịt chi chít như tổ ong. Nín thở một hơi rồi lại thở phào một hơi dài, ông lão nói, mày đã ăn da của con chuột này rồi? Nói, cho dù ăn hết rồi cũng không sao đâu. Chỉ cần mày có thể sống, không cần phải giữ lại cho tao miếng thức ăn này. Đến lúc ấy, ông lão cảm thấy đã nói ra những câu một sống một chết quá sớm, như thể mình có chút vô tình vô nghĩa với con chó vậy, liền ôm nó vào lòng mình một lúc, rút tay ra soi soi thịt chuột trong ánh trăng, nói, mày xem chỗ thịt này đầy bụng đều là màu xanh, e rằng thế nào cũng không ngon bằng dùng dao mổ thịt đâu.

Chó mù liền liếm láp cổ tay ông lão, gắng gượng nằm xuống bên chân ông, gối đầu lên bàn chân ông.

Hôm sau ông lão luộc thịt chuột, cho chó mù một nửa, nói, ăn đi, có thể sống đến ngày nào hay ngày đó. Chó mù không ăn, ông nhét vào miệng nó một cái đầu chuột và bốn cái xương đùi, thịt chín còn lại, ông lão cầm trong tay, đứng trước bắp ngô nhai kĩ nuốt chầm chậm. Ông biết hai miếng thịt tím này ăn xong cũng là không còn một chút lương thực nào nữa rồi, việc còn lại chính là ngã xuống đất đói đến lúc sức cùng lực kiệt chết đi. Chết thì chết, bảy mươi hai tuổi rồi, cũng là rất thọ ở dãy núi này rồi. Thiên hạ đại hạn, lương thực tận tuyệt, không chỉ sống thêm được nửa năm, còn nuôi dưỡng được một cây ngô như vậy, cao hơn ông ba cái đầu, lá vừa to vừa dài, bắp ngô cũng đã bằng củ cà rốt. Ông lão nhìn kĩ râu ngô trên bắp, chờ ăn hết chỗ thịt chuột đó rồi, khi bỏ ngón tay vào miệng mút ra trò, đột nhiên có một thứ gì đó giống như hoa tuyết bay táp vào má trái ông. Từ từ ngẩng đầu lên, đầu ngón tay của ông lão đã cứng trong miệng rồi. Ông lão nhìn thấy trong một đêm ngọn cây ngô vốn có màu vàng đột nhiên biến thành màu đỏ thẫm, râu nhỏ như vỏ trấu trên ngọn bắt đầu bay xuống. Chính là nói, cây ngô sắp thụ phấn rồi, sắp bắt đầu kết hạt rồi.

Ngày thu hoạch lại đến bất chợt như thế.

Ông lão kinh ngạc vui mừng ngẩng đầu nhìn lên khoảng không một cái, ánh sáng trắng nhức mắt từng cọc, từng cọc va chạm vào nhau trên không trung phát ra tiếng chan chát chan chát. Có gió thì tốt, ông lão nghĩ, vụ mùa này nên có chút gió thổi. Có gió, việc thụ phấn của cây ngô sẽ nhanh chóng, bén nhạy, đều đặn, hạt sẽ chắc khỏe, ngay ngắn. Rút tay ra khỏi miệng, lau qua loa mấy lượt trên cái quần cộc xong, ông lão bắt đầu thận trọng dùng tay miết lên vỏ ngô. Cách cái vỏ ngô dày dày, ông lão sờ thấy trên bắp ngô mềm giống như củ cà rốt chín, có một lớp gì đó bằng nửa viên đạn cộm cộm tay. Thoắt cái, nhịp tim ông lão bỗng dừng lại không đập nữa, giống như cánh cửa đột nhiên đóng lại. Tay ông cứng đờ trên bắp ngô, mặt đanh lại trong không trung, đôi môi mím chặt. Sau khoảnh khắc đó, khi ông chắc rằng bắp ngô đã kết hạt như viên đạn mềm cộm tay, giống như cánh cửa đột nhiên mở ra, tiếng đập thình thịch dào lên trong tim, giống như búa đập trên ngực ông. Trên mặt ông bắt đầu có sắc thái hưng phấn, dưới làn da đen thui nhăn nheo, dường như có dòng sông đang chảy xiết. Lúc này, hai tay đang ngừng trên vỏ bắp ngô, đột nhiên rất ngứa giống như bị nấm. Ông rụt tay về để trước miệng thổi một hơi, đi ra khỏi cái chiếu quây, lấy cái cuốc treo trên cây hòe khô xuống, cuốc thình thịch, thình thịch quanh cây ngô. Đất viên và bụi hạt bắn lên rơi xuống, nhỏ vụn, đều đặn như tiểu mạch, hạt thóc, lồng trong đó hương thơm nồng vàng óng của mùa thu hoạch nóng nực. Phía trước cây ngô, từng nhát cuốc nối nhau xới đến dưới cái chiếu quây, ông lão mệt đến mức thở dốc, ngắn, loạn xạ giống như dây gai vụn. Sau đó ông bỏ chiếu cói ra, ném chiếu, cọc trụ dưới gốc cây hòe, con chó mù không biết làm gì chỉ biết đi theo sau ông. Ông lão không nói gì, cuốc đến chỗ đã khá xa bên ngoài cột của chiếu quây, rồi lại quay đầu cuốc đến vòng ngoài cái vại nước to, cho đến khi không cẩn thận cuốc lên cái vại, vại nước phát ra một tiếng lanh lảnh, ẩm ướt, ông mới đột nhiên dừng lại, đứng thẫn thờ trong khoảnh khắc, trên mặt một nét cười xán lạn nóng ran, nói, mù ơi, mùa thu hoạch đã đến rồi, cây ngô đã kết hạt rồi.

Con chó mù dùng lưỡi liếm liếm lên mép.

Ông lão nằm trên mặt đất nhìn trời, nói, tao đã chịu đựng đủ rồi, mùa thu hoạch đã đến rồi. Tao đã chịu đựng đủ rồi, vụ mùa sắp chín rồi.

Chó mù lại dùng lưỡi liếm liếm ngón tay ông.

Ông lão đã ngủ một giấc trong sự liếm láp nhồn nhột của chó mù, nằm lăn trên đất như đứa trẻ, khép mắt lại, không động đậy như sắp ngủ.

Cuối cùng lại thành ngủ thật. Sau khi tỉnh dậy, lại đi xem kĩ bắp ngô, sự hưng phấn trên gương mặt ông lão không còn nữa. Ông phát hiện ra màu xanh thẫm trên lá ngô không còn đậm như trước nữa, thấm ra một lớp màu vàng mỏng nhạt. Màu vàng này không phải chỉ có lá dưới mới có, ngay cả lá mới mọc trên ngọn cây cũng có. Ông lão đã trồng màu cả một đời, ông biết đây là do cây ngô thiếu phân rồi. Trong thời điểm then chốt, cần kíp khi ngô kết hạt, phân đủ nước đủ thì hạt mới đầy. Hơn nữa phân tốt nhất là phân và nước tiểu của người. Vào thời kì này những năm trước, ông đều đổ một gáo phân và nước tiểu của người đầy bên mỗi cây ngô. Hoa màu của ông như tiểu mạch, đậu, cao lương, luôn là loại tốt nhất trong làng. Ông là người trồng hoa màu giỏi nhất trong dãy núi Bá Lâu. Lúc này, đứng trước cây ngô, miệng ông đã khô nẻ thành đất khô trên sườn núi này rồi, nhưng ông không đi uống nước, cũng không múc nước cho con chó uống. Ông suy nghĩ nên đi đâu để kiếm ít phân người. Nhà xí trong thôn đều sạch như bốc hơi, phân còn lại cũng đã sớm bị nắng chiếu giống như đất khô không còn dưỡng chất. Ông và chó mù đã rất nhiều ngày ăn mà như không, căn bản không buồn đi đại tiện, bụng nhét vào toàn là thịt chuột và vụn xương chuột. Ông lão nhớ đến da chuột và vụn xương chuột đã ăn, liền đến dưới con rạch tìm một lượt, nhưng đến một miếng một mảnh cũng không có. Ông đoán là chỗ da chuột đó, lúc ông đến vũng suối gánh nước, có thể đều đã bị chó mù ăn hết rồi. Từ dưới dốc thở phì phò bò lên, muốn hỏi chó mù, nhưng ông chỉ đứng trầm mặc trước nó một lúc, rồi đi uống một bát nước thịt luộc nổi váng mỡ trong nồi, không đậy nắp nồi, quay lại nói với con chó, khát hay đói thì uống đi, sau đó cầm túi lương thực về làng tìm phân.

Ông lão đi một hồi lâu, khi xách túi không từ làng trở về, ông chống một cây gậy trúc, cứ đi được vài bước lại dừng lại nghỉ một hồi. Ông hoàn toàn không còn sức lực nữa, vứt túi không lên mặt đất, đến dưới lều nhìn con chó mù vẫn nằm ở đó như cũ, bát nước luộc trong nồi cũng vẫn còn nguyên, mười một chấm váng mỡ nổi trong nồi vẫn là mười một chấm. Mày không uống sao? Ông hỏi chó mù. Nó nhúc nhích một cách yếu ớt, ông liền dùng cái muôi múc uống non nửa bát, đã uống năm chấm trong mười một chấm váng mỡ, nói với chó, phần còn lại là của mày đấy. Sau đó trở về trước cây ngô, xem lá ngô thêm lượt nữa, tầng vàng nhạt đó dường như đã đậm hơn, màu xanh dường như ẩn dưới màu vàng. Ông lão nghĩ, cái đồ già cỗi, làm ruộng cả đời, vì sao ngươi không chuẩn bị phân sớm hơn một chút? Ngươi chẳng phải là người già trong thôn sao? Ngươi chẳng phải là người làm ruộng tốt nhất mấy chục dặm quanh đây sao. Tổ mẹ nhà ngươi, sao lại không nghĩ ra khi cây ngô kết hạt là lúc nó cần phân nhất chứ!

Đêm ấy, ông lão liền ngủ ngay dưới cây ngô, ngày hôm sau tỉnh dậy liền phát hiện ra màu xanh trên mấy phiến lá ngô dường như đã biến mất hết rồi, màu vàng giống như giấy phủ lên trên lá.

Đêm thứ hai, ông lão vẫn ngủ ở dưới gốc cây ngô, ngày thứ ba tỉnh dậy, không chỉ phát hiện ra lại có thêm hai phiến lá từ trên xuống dưới đã úa vàng, còn thấy râu đỏ trên bắp ngô cũng đã có hai sợi khô đi từ lâu rồi. Miết miết vỏ ngô, cảm thấy mềm như bùn, giống như da thịt trên người ông và con chó vậy, cảm giác mơ hồ cộm cộm tay đã tan thành mây khói.

Đêm thứ ba, ông ở dưới gốc cây ngô không ngủ, ông dùng chút sức lực cuối cùng đào một cái máng dài bên cây ngô, rộng một thước rưỡi, sâu ba thước, dài năm thước, vừa đủ một người nằm, hoặc một con chó có thể nằm thoải mái.

Hố máng này là một huyệt mộ.

Huyệt mộ ngay sát cây ngô, có mấy cái rễ ngô lộ lên trên vách huyệt. Đợi đào huyệt xong, ông lão nằm trên mặt đất nghỉ một lúc, đến trước bếp lò nhìn trong nồi vẫn còn nửa bát canh thịt, sáu chấm mỡ lấp lánh dưới ánh trăng sáng, lấm chấm lập lòe đậu sát thành nồi. Ông muốn uống chỗ canh mỡ đó, dùng muôi múc lên rồi lại đặt xuống. Ông đã nói nửa bát canh nước mỡ này là của chó mù, mình làm sao có thể uống đây. Lẩm bẩm rồi ông quay người đi tìm chó, nói, mù ơi, ba ngày qua đi rồi, sao mày đói mà vẫn không uống vậy?

Con chó mù nằm dưới gác lều. Ba ngày nay nó nằm dưới gác lều không động đậy, màn đêm mát mẻ rưới lên người nó, cả người nó giống như một khóm cỏ khô rỗng không ở đó. Nó là cỏ khô, nhưng lại ngẩng đầu hướng một mắt mù về phía ông lão nói, không tiếp lời mà chỉ áp tai xuống chân trước. Trời đã sáng mờ mờ, màn đêm trên sườn núi đang chuyển chỗ cho ánh sáng ban ngày. Lúc này, ông lão liếc nhìn con chó, đến bên người nó vuốt ve, nói, uống đi, đó là của mày, mày uống đi. Sau đó, ông nằm bò lên vại nước uống vài ngụm, lấy một cái kéo làm mũi khoan, khoan đáy vại.

Ông lão khoan một cái lỗ dưới đáy vại, khi có nước thấm ra, lại dùng một nắm đất bít cái lỗ nhỏ đó lại. Làm xong tất cả việc này, dường như không có việc gì để làm nữa, ông treo cái cuốc lên trên cây, đặt cái xẻng bên huyệt mộ, đậy chặt miệng vại nước, gấp chăn trên gác lều lại, dọn bát, đũa, muôi đặt dưới cột lều, cuối cùng đứng trước cây ngô nhìn màu vàng úa lan trên lá, miết miết vỏ ngô giống như một túi nước, quay đầu lại, mặt trời đã tràn ra ở giữa hai dãy núi bên sườn núi phía đông, một vùng đỏ dính dớp đổ trên dãy núi, dường như vùng núi đều mênh mông chảy máu. Ông lão đứng giữa cây ngô và gác lều, lướt nhìn những sườn núi trước mặt, dường như đã nhìn thành đàn bò nghìn vạn con lưng đỏ đang từ bốn phương tám hướng chuyển động. Ông biết mình không còn sức lực nữa, mắt đã hoa lên rồi. Dụi dụi mắt, đưa ánh mắt ngước nhìn lên, thấy trời đã khảm đám mây vẩy cá viền vàng, lượn lờ nhảy nhót trước mặt trời, giống như vô số cá bơi lội trong hồ đỏ đầy ắp. Ánh mặt trời hôm nay ít nhất cũng nặng một lạng tư, ông lão đang nghĩ như vậy, ngoái đầu nhìn lên cái cân treo trên gác lều một cái, sau đó nhích về phía trước mặt con chó mù, ôm lấy nó, đặt vào trong huyệt mộ đó, để nó nghỉ ngơi trong hố một lát, lại ôm nó từ dưới hố lên, nói mù ơi, có biết thế có nghĩa là gì không? Lần này không phải là mày chết thì tao sẽ chết, chúng ta ai sống thì sẽ chôn người chết trong cái hố này. Nói đến đây, ông lão đặt tay lên lưng con chó vuốt lông cho chó, lau nước ở khóe mắt nó, rồi lại móc một đồng tiền từ trong túi ra, đặt mặt có chữ hướng lên trên, cầm móng trước chân phải của con chó đặt lên chữ đó sờ sờ, nói, sống chết có số, tao ném đồng tiền này lên trời, rơi xuống mặt ráp có chữ hướng lên trên, thì mày chôn tao vào cái hố này làm phân bón, mặt ráp có chữ hướng xuống, tao sẽ chôn mày vào hố này làm phân bón.

Hai giếng mắt khô của con chó nhìn chằm chằm đồng tiền trong tay ông lão, nước mắt đục ngầu nửa đen nửa đỏ chảy đầm đìa, rơi trên mộ địa mới đào của ông.

Không cần khóc, ông lão nói, tao chết rồi Diêm Vương để tao biến thành loài vật, đầu thai thành mày; mày chết rồi Diêm Vương biến mày thành người, mày sẽ đầu thai thành con tao, chúng ta vẫn có thể dựa vào nhau để sống.

Nước mắt của con chó quả nhiên không chảy nữa, nó muốn thử đứng dậy, cố gắng một chút, chân trước mềm ra rồi lại nằm trên huyệt mộ.

Ông lão nói, mày đến uống nửa bát canh mỡ trong nồi đi.

Con chó mù hướng tới ông lão lấy đầu ra dấu.

Thực sự không uống sao? Ông lão nói, không uống thì để đó, nếu sống thì uống nhé. Bây giờ thì sẽ tung đồng tiền nhé, ai còn sống thì uống nửa bát canh mỡ đó, tích chút sức lực còn chôn người kia vào trong mộ.

Con chó mù đưa đôi mắt mù lên chỗ ông lão đã đào trên miếng đất bằng phẳng.

Cuối cùng, ông lão chải mấy đường trên lưng con chó, từ trên đống đất chầm chậm đứng lên. Mặt trời đang rảo bước đi về sườn núi này. Lắng nghe kĩ, có thể nghe thấy âm thanh lép bép cực lớn của lửa bùng lên trên bãi lửa mênh mông này, giống như mảnh vải ở chỗ ruộng nương phấp phới quạt gió. Ông nhìn mặt trời chửi một câu, tổ sư nhà mày, cuối cùng nhìn đồng tiền một cái, quay đầu nói với chó, tao ném đây, rồi quả thực tung đồng tiền lên không trung. Ánh mặt trời rậm rà rậm rạp như rừng lửa. Đồng tiền chạm vào từng cọc ánh sáng, phát ra âm thanh màu sáng đỏ như thép lửa chạm vào thép lửa, từ nhanh đến chậm tung lên, rồi lại từ chậm đến nhanh rơi xuống, xoay tròn một cái, khiến chùm sáng đứt thành bảy, tám đoạn. Ông lão nhìn đồng tiền từ trên không trung rơi xuống, giống như nhìn vào một giọt mưa rất to đột nhiên nhìn thấy, giọt nước mắt cứng lại có chút đau đớn như rỉ máu.

Lúc này, con chó mù bất ngờ từ đống đất đứng lên. Nó nghe thấy khi đồng tiền rơi xuống, có tiếng gió vàng đỏ đang thổi, giống như quả hạnh chín rơi trên thảm cỏ.

Ông lão đi về phía đồng tiền đó.

Con chó mù đi theo ông lão.

Ông lão đến trước đống đất bới lên, hơi cúi người xuống rồi lại đứng thẳng lên. Ông nhìn đồng tiền đó, thở một hơi rất dài, quay người bình tĩnh nói, mù ơi, uống nửa bát canh mỡ đó đi, uống rồi mày sẽ có sức bới đất chôn tao.

Con chó mù đứng yên bất động.

Ông lão nói, đi đi, ngoan nào, uống xong mày chôn tao.

Nó vẫn đứng yên không động đậy, yên lặng một lúc, nó lại từ từ cong chân trước xuống, đột nhiên quỳ trước ông lão. Ông lão nói, không cần quỳ, đây đều là ý trời, tao nên làm phân bón cho cây ngô. Sau đó, ông nhặt đồng tiền đó lên, để móng phải trước của con chó xoa xoa lên mặt có chữ của đồng tiền, nói, mày cảm thấy áy náy, thì tao tung đồng tiền hai lần nữa, nếu ba lần tung có hai lần mặt lưng hướng lên trời thì tao chết, hai lần mặt sáng hướng lên trời thì mày chết.

Con chó mù lại đứng lên trên mặt đất.

Ông lão lại tung đồng tiền một lần nữa. Đồng tiền rơi xuống trước mặt con chó mù, ông lão nhìn một cái, nói, không cần tung thêm nữa, rồi ngồi nhũn ra trên đất. Con chó mù tìm âm thanh đồng tiền rơi xuống, dùng móng chân trước sờ sờ đồng tiền, lại dùng lưỡi liếm lên mặt đồng tiền, nằm xuống nước mắt chảy không ngừng, tiếng u u giống như một đứa trẻ câm khóc gọi mẹ, nước mắt từ hố mắt đen đầm đìa chảy xuống. Trong nháy mắt, dưới đầu nó đã có hai đám bùn.

Đi uống nửa bát canh mỡ đi, ông lão nói, uống xong mày sẽ có sức bới đất chôn tao nhé. Nói xong câu này, ông lão nhấc người đến dưới gác lều, rút ra một cái ống trúc mảnh đã chuẩn bị sẵn, dài hơn hai thước, mắt giữa đã đục thông, dùng miệng thổi rất thông suốt trôi chảy. Ông cắm cái thân trúc đó vào lỗ nhỏ dưới đáy vại, dùng cao su chèn các kẽ xung quanh cái lỗ, khiến bên lỗ không thấm một chút nước nào, sau đó ấn đầu của thân trúc mảnh xuống một cái, vừa đúng có một hạt nước nhỏ, tí ta tí tách, giống như hạt ngọc long lanh long lanh chảy xuống, một giọt tiếp một giọt rơi xuống phần gốc sâu nhất của cây ngô. Lập tức, đất ở đó vang lên tiếng hút nước nửa xanh nửa đỏ, chẳng mấy chốc liền ướt cả một mảng đất.

Ông lão lấy đất vụn đắp một vòng đất nhỏ xung quanh cây ngô, phòng nước nhỏ xuống nhiều sẽ chảy đi chỗ xa. Làm xong công việc tỉ mỉ này, ông phủi phủi đất trên tay, quay đầu nhìn thẳng vào mặt trời trên đỉnh đầu, lấy cái cân cân ánh mặt trời, nặng một lạng rưỡi. Sau đó lấy chiếc roi xuống, đứng ở chỗ đất trống, đối diện với mặt trời quất liên tục hơn mười roi, khiến ánh mặt trời giống như hoa lê vụn ra rơi thành mảng lớn trước mặt, hơn nữa còn vừa quất vừa mắng chửi, tổ sư nhà mày! Cho đến khi sức lực cuối cùng dùng cạn, ông mới treo cái roi ngựa lên, lại dùng giọng khàn khàn hét lớn với mặt trời - ông nội mày vẫn có thể trồng được cây ngô kết hạt, mày có thể làm gì được ông nội mày? Mày có thể làm gì tao?