Chương 9 Dọn vệ sinh nhà cũ
Với tôi, làm mẹ thường đồng nghĩa với việc phải học cách tạm biệt để giành được sự tin tưởng. Tôi học được từ các chuyên gia điều trị tâm lí cho mình vượt qua cuộc khủng hoảng tôi và Mia phải hứng chịu vì Jamie rằng: Để trẻ phát triển trí tuệ cảm xúc và hoạt bát thì điều quan trọng - nếu không muốn nói là cốt yếu - là trẻ phải có một người luôn luôn ở bên chăm sóc, một người lớn sẵn sàng có mặt khi trẻ cần. Không quan trọng có bao nhiêu người chăm sóc chúng đến rồi đi, xuất hiện và biến mất, chỉ cần người quan trọng nhất vẫn ở đó. Qua những năm đầu đời, khi Mia ngày ngày đi học rồi lại sang nhà bố vào cuối tuần, tôi trở nên cực kì nghiêm túc trong việc giữ vững thời gian biểu, ổn định cuộc sống ở nhà theo khuôn khổ. Tắm xong là bắt đầu một chuỗi hoạt động khác: Lần nào cũng thế, tôi trải một chiếc khăn tắm trên sàn toilet, bế Mia lên đứng vào giữa, lau khô người và đầu tóc cho con bằng chiếc khăn khác, rồi cù con cười nắc nẻ. Kể chyện trước khi đi ngủ, hôn chúc ngủ ngon và nói, “Chúc con ngủ ngon, mẹ mãi yêu con, chúng ta sẽ gặp nhau vào sớm mai thức giấc” sẽ tạo ra một cảm giác quen thuộc. Là mẹ, quy trình ấy trở thành món quà lớn nhất tôi dành cho con, vì nó đòi hỏi tôi phải luôn có mặt khi tôi nói sẽ có mặt, và không bao giờ, không bao giờ được thất hứa. Tôi chỉ hy vọng mặc cuộc sống của Mia có hỗn loạn ra sao thì ít nhất con cũng biết dù nhà chúng tôi ở đâu thì ở đó vẫn luôn có bánh kếp như cũ.
Học cách nói tạm biệt, cũng giống như học cách chia sẻ con gái mình với người đàn ông đã đối xử tàn tệ với hai mẹ con, không bao giờ là đơn giản. Mỗi sáng đưa con bé đến nhà trẻ, sau khi dừng xe lại thì luôn là một cảnh tượng kinh khủng. Vào lớp, một cô trông trẻ sẽ kéo Mia ra khỏi tôi, còn Mia thì la hét, đấm đá và gào khóc gọi tôi khi tôi vội quay đi sau khi nói, “Tạm biệt con yêu. Mẹ yêu con. Lát nữa mẹ sẽ đón con nhé.” Có những hôm các cô trông trẻ sẽ đón con bé và ôm nó một lúc, nhưng chủ yếu họ giằng Mia khỏi tôi và đặt xuống đất, còn tôi phải nhìn Mia khóc bên cửa sổ, đưa tay đập kính gọi mẹ.
Tôi từng cho rằng gửi Mia tại một nhà trẻ nằm trong trại dưỡng lão là ý hay vì con bé gần như chưa từng được gặp ông bà. Nhưng hai lần mỗi ngày, tôi đi trên hành lang, nhìn các nhân viên quát nạt yêu cầu các cụ già xếp hàng lấy thuốc và thẳng thừng phàn nàn về mùi cơ thể của họ. Tôi có cảm giác mình đang trực tiếp chứng kiến khoảng thời gian cuối đời của khá nhiều người, và khác với Nhà Buồn, những người này sống những ngày cuối cùng theo một cách khổ sở nhất.
Nhà Buồn không hề bẩn. Có lúc tôi phải cọ máu khô trên sàn nhà vệ sinh, còn toilet thật là một thảm họa. Ngoài ra, mọi thứ đều được phủ một lớp bụi mỏng. Ông lão ấy ở nhà hầu hết thời gian trừ phi đi viện, nhưng có vẻ ít sử dụng nhà mình.
Từ những tấm ảnh, tôi đoán vợ ông qua đời vào cuối những năm 1990. Lúc đầu tôi tưởng bà mới mất nhưng không tìm được bất cứ bức ảnh nào của bà có vẻ chụp trong mấy năm gần đây. Những món đồ linh tinh do bà thu thập, nào là những con búp bê vải be bé và tổ chim, vẫn được đặt gọn gàng trên bậu cửa sổ. Ghim trên tấm cách nhiệt phía trên cái bàn trong bếp là một danh sách những việc cần làm do chính tay bà viết bay phất phơ. Nhà vệ sinh có hai bồn rửa, và bên trên bồn rửa của bà là một chiếc máy sấy tóc vẫn được cắm điện treo trên móc và lần nào tới tôi đều phủi bụi cho nó. Bồn của ông có một cây lược, và các loại thuốc - mỗi lần tôi đến lại một khác. Tôi kiểm tra thuốc men, bâng khuâng tự hỏi ông bị bệnh gì. Nhưng tôi có cảm giác ông bị tâm bệnh thì đúng hơn.
Trên một cái giá trong nhà vệ sinh, chiếu thẳng về đằng sau nơi ông đứng nhìn vào gương, là lọ tro cốt vợ và con trai ông. Trong một bức hình, anh con trai đứng trên đỉnh núi và giơ tay chữ V. Anh đội khăn rằn và để râu dài. Trong khung hình là hai câu thơ nổi tiếng:
Xin đừng nhỏ lệ bên mộ tôi
Tôi chẳng ở đó, cũng không ngủ vùi. *
Bên dưới đó là hai chiếc hộp nhỏ nằm bên nhau: một hộp đất nung màu hồng chạm hình những bông hồng và hộp kia là hợp kim thiếc tối màu. Hình vợ ông được đặt sau chiếc hộp hồng. Tôi mở ra xem có gì. Hai hộp đựng tro, những tấm thẻ ghi và các bài phát biểu trong tang lễ.
Ông ăn bánh nướng và sandwich mua từ một cửa hàng tạp hóa, uống cà phê và thích rượu Kahlúa. Ông có lẽ ở độ tuổi cuối sáu mươi đầu bảy mươi, và vẫn thích đi đánh golf, đánh bài tại một sòng bạc Anh-điêng. Trong garage là một chiếc thuyền cao tốc đẹp đẽ và một chiếc xe Jeep CJ. Trên bức tường phòng khách có treo một tấm hình chụp vợ ông đeo kính râm, tươi cười đứng trước chiếc xe Jeep đó. Ông thường hút thuốc lá Camel không đầu lọc trong phòng ngủ, trước khung một cửa kính trượt, hoặc tại hiên nhà nếu thời tiết đẹp. Con trai út của ông, sống cách đây hai giờ chạy xe, có vẻ không năng đến thăm lắm. Ông cô độc, chết dần chết mòn trong cái lăng mộ chưa hề thay đổi kể từ khi vợ qua đời. Ông đã sống một cuộc đời mà nhiều người mơ ước - có công việc tốt, căn nhà đẹp, cưới được người mình yêu và cùng nhau đi đây đó - nhưng mặc cho tất cả, ông vẫn chết già trong cô độc.
Khi trở về nhà vào tối đầu tiên sau khi dọn dẹp Nhà Buồn, tôi không thể ngừng nghĩ về vị khách hàng của mình. Đây đáng ra phải là một công việc không cần động não và đơn thuần để trang trải các hóa đơn, nhưng bây giờ tôi lại thấy nó đã hằn in một dấu ấn không ngờ lên cuộc đời tôi, và điểm yếu lộ ra không hiểu sao lại khiến tôi nhẹ nhõm. Dù tôi chưa từng gặp hay nói chuyện với bất kì ai trong số họ, dù nhiều người không biết tôi tồn tại, nhưng các khách hàng đã dần dần giống như người nhà hoặc bạn bè khiến tôi phải lo lắng, quan tâm từ xa. Tôi tự hỏi khách hàng của mình làm gì vào ban tối: Họ ngồi ở đâu?; Họ ăn gì và xem gì vào hôm trước?; Ngày qua ngày họ cảm thấy ra sao? Cuộc đời tôi đã quá lặng lẽ. Những người ấy cho tôi một thứ gì đó để mà chờ mong, để hi vọng và mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với những người khác không phải bản thân tôi.
Mia liên tục chuyển lớp tại nhà trẻ vì sự thay đổi nhân sự và số lượng trẻ tăng hay giảm. Trong hai tuần liên tiếp, buổi sáng mỗi khi đến trường, tôi đều thấy cô đón trẻ vội vàng lau nước mắt trước khi ra đón con tôi, còn Mia đấm đá gào thét đòi mẹ. Tôi có lần nghe cô than phiền với một phụ huynh về chuyện sống với đồng lương còm cõi vất vả đến nhường nào. “Tôi học đại học chỉ để đổi lấy điều này”, cô bực bội nói. Tôi ghét phải phó mặc Mia cho cô, ghét mình không đủ tiền cho Mia học ở một cơ sở trả lương thỏa đáng cho nhân viên.
Một sáng nọ, sau một màn tạm biệt đặc biệt khó khăn, tôi chui vào xe mà khóc, cho mình hai phút để dành cho nỗi buồn của tôi một sự âu yếm vuốt ve và quan tâm xứng đáng. Tôi cho Mia đi học sớm hơn mọi ngày một chút, nhưng chuyện con bé nhất định không chịu rời xe khiến hai mẹ con vào lớp muộn. Tôi bực bội ra mặt và không thèm hôn gió tạm biệt con. Tôi hay nghĩ đến cái chết. Kiểu như, nếu tôi chết vì tai nạn xe và kí ức cuối cùng của Mia là tôi bỏ đi, để mặc con la khóc với những người lạ thì sao?
Sáng hôm ấy, những suy nghĩ tương tự lẩn khuất vào tâm trí tôi nhiều hơn bình thường. Tôi biết mình sẽ dành hai ngày tới dọn dẹp một ngôi nhà trên đảo Camano không có sóng điện thoại. Tôi không muốn xa Mia, không thích để con lại một nhà trẻ không có vẻ gì là sẽ chăm sóc và quan tâm tới con bé kĩ càng, và đặc biệt ghét nếu như có chuyện gì xảy ra với Mia trong ngày mà không ai liên lạc được với tôi. Nhưng tiền lương quá hời làm tôi không bỏ qua được.
“Khách hàng thuê chúng ta dọn nhà sau khi người ta chuyển đi”, Lonnie đã nói với tôi qua điện thoại. “Dạo này chúng ta không hay nhận công việc đó.”
Thường thì Classic Clean sẽ báo cho các khách hàng tiềm năng một mức giá ước tính. Họ gặp chủ nhà, xem xét mức độ công việc cần làm và cố tính sát lượng thời gian (và đôi khi là số nhân công) dọn dẹp cần thiết. Những khách hàng thông thường, thuê người giúp việc một tuần một lần, hai tuần một lần, hoặc một tháng một lần sẽ trả công nhật, còn dọn vệ sinh công trường và dọn nhà chuyển đi sẽ tính công khoán.
Mỗi tháng tôi dọn dẹp chừng năm đến sáu nhà, nhưng tất cả đều thuê hai tuần hoặc một tháng dọn một lần, nghĩa là hầu hết tiền lương của tôi là cho tổng cộng 20 giờ làm cho hai tuần. Tôi không thể kiếm việc khác vì lịch làm việc mỗi tuần một khác nên đành phải đợi được phần công cho nhiều giờ hơn, còn làm việc gì thì mặc. Khi Lonnie gọi hỏi tôi có muốn dọn nhà sau khi người ta chuyển đi không, tôi vui vẻ nhận lời, thậm chí còn cảm ơn vì cô đã gọi cho tôi chứ không phải cho ai khác.
Tôi sẽ vệ sinh một căn nhà lưu động rộng thênh thang, nằm cách một con phố so với một ngôi nhà khác do tôi phụ trách, có biệt danh là Nhà Bếp Trưởng vì cái bệ bếp khổng lồ. Trong một dịp hiếm hoi ở nhà, người chủ đã đứng trong bếp, bên cạnh nó, choán toàn bộ không gian giữa bếp và đảo bếp chính giữa. “Tôi đã phải dùng toàn bộ khoản vay cá nhân để mua nó đấy”, ông vừa nói vừa dịu dàng vuốt qua rìa ngoài. “Có khi nó đắt gấp đôi cái xe của cô chứ chẳng chơi!” Dù không nghi ngờ sự thật trong phát ngôn đó nhưng tôi vẫn cố không nhăn mày khi ông ta chỉ ra rằng tôi đang lái một chiếc Subaru cũ, và chỉ hỏi xem ông ta có yêu cầu gì đặc biệt đối với việc lau chùi nó không. Chỉ trong vòng hai tuần giữa hai lần đến dọn dẹp của tôi, toàn bộ mặt bếp đã dính đầy dầu mỡ vì niềm đam mê sử dụng chảo chiên và dầu ô liu thả phanh từ chủ nhân của nó.
Chắc hẳn ông ta phải dùng chảo rán vài lần mỗi tuần vì cả ngôi nhà nồng nặc mùi dầu mỡ. “Có chứ”, ông ta nói và nhấn mạnh. “Đừng dùng mặt ráp của miếng bọt biển!” Vì vậy tôi không được để lại một vết xước nào và phải lau đi lau lại bằng năm hoặc sáu miếng giẻ.
Khi dừng xe trên lối đánh xe của căn nhà lưu động, tôi đã trễ mười phút. Pam đã ở đó cùng người đồng sự của tôi trong ngày hôm nay. Tôi vội chạy lại.
“Em xin lỗi đã tới trễ”, tôi vội vàng thanh minh, cố sao cho chân thành. “Sáng nay Mia không chịu buông em ra.”
Pam hơi càu nhàu gì đó về chuyện lũ trẻ cần hiểu và tôn trọng nhu cầu đi làm của bố mẹ. Tôi không bảo chị nhắc lại hay nói rõ vì biết chị đã từng rơi vào hoàn cảnh như tôi, luôn cảm thấy như vì công việc mà chẳng có thời gian trông thấy con và đã vượt qua được thời gian khó khăn ấy. Pam hất hàm về phía người giúp việc còn lại, là một phụ nữ đẫy đà, mái tóc vàng buộc gọn; cô ấy tỏ vẻ cau có vì chán ngán hơn là vì tôi đến muộn.
“Đây là Sheila”, Pam nói. “Hết tuần này cô ấy sẽ nghỉ việc.”
Sheila và tôi nhìn nhau, gật đầu và hơi mỉm cười, chúng tôi đã dỡ xuống khỏi xe những loại dung dịch xịt xa lạ, không dùng cho việc dọn dẹp hằng tuần. Có những loại thuốc tẩy mạnh để đánh bay mốc meo, dầu mỡ và cặn bẩn. Pam đưa cho tôi các khay đồ dùng và những túi giẻ lau, sốt ruột đợi tôi uống nốt cốc cà phê.
“Trước khi vào dọn dẹp, chị cần nói rõ vài vấn đề liên quan đến căn nhà này”, Pam nói khi chúng tôi đứng bên ngoài căn nhà lưu động. Chị yêu cầu Sheila và tôi lại gần hơn. Sheila nhìn Pam, nhưng tôi chỉ nhìn Sheila và tự hỏi vì sao cô nghỉ việc trong khi dằn cảm giác ghen tị cháy bỏng của mình.
Pam ngoái đầu nhìn ra cánh đồng cỏ mọc cao. chị chỉ về phía đó và nói, “Qua đó là nhà mẹ của Tướng cướp Chân đất.”
Tướng cướp Chân đất là biệt danh. Tên thật Colton Harris Moore của hắn ít được dùng, nhưng tôi biết vì chúng tôi đều được sinh ra ở hạt Skagit. Tướng cướp Chân đất mới mười chín tuổi và dạo này đang làm rúng động nơi đây: Hắn đột nhập vào những ngôi nhà giàu có khi chủ nhân của chúng đang say ngủ, có lần để lại dấu chân trên nền bụi trong một garage. Hắn đã đột nhập vào Nhà Bếp Trưởng tuần trước để sử dụng máy tính và ăn cắp thông tin thẻ tín dụng để mua đồ và kiếm cho mình một chiếc máy bay nhỏ. Tôi có thể tưởng tượng hắn ngồi bên chiếc bàn tôi lau chùi hai tuần một lần, thừa hiểu chuyện tìm số thẻ tín dụng giữa đống giấy tờ ngổn ngang đó dễ đến mức nào. Báo chí địa phương nói hắn có vũ khí, nguy hiểm và cho rằng hắn đang ẩn nấp trong nhà mẹ mình.
Dù tôi nghi ngờ chuyện đó nhưng toàn bộ nơi đây giống như bối cảnh hoàn hảo cho một câu chuyện kinh dị. Dù gì thì chúng tôi cũng đang ở cạnh một căn nhà lưu động không người ở nằm bên một con đường đất chạy dài trong rừng. Những công nhân dọn dẹp nhà ở sau khi chủ nhân của nó đã chuyển đi luôn bị ám ảnh bởi cảm giác họ đang dọn hiện trường án mạng, xóa dấu vết của bất kì hoạt động nào liên quan tới con người.
Khi chúng tôi tới cửa trước, Pam tiếp tục chuẩn bị tinh thần cho chúng tôi đón nhận điều bên trong. Chị giải thích rằng căn nhà thuộc về một cặp vợ chồng đã li dị. Người vợ chuyển đi trước còn chồng ở lại cùng hai người bạn cùng nhà một thời gian.
“Khả năng tài chính của chủ nhà có hạn nên chúng ta cần làm việc rất hiệu quả”, Pam nói, quay lại nhìn chúng tôi trước khi mở cửa chính. “Chị sẽ ở đây vài tiếng để giúp mọi người bắt đầu, còn Stephanie - em sẽ quay lại vào ngày mai để làm nốt.”
Tôi không rõ “rất hiệu quả” là thế nào. Bình thường chúng tôi đã không được phép nghỉ trưa vì chúng tôi nên “giải lao” trong lúc lái xe từ nhà này sang nhà khác, gặm táo hoặc ăn vội vàng cái bánh sandwich phết bơ lạc. Nhưng hôm nay chúng tôi sẽ không đi đâu. Trong hai ngày này tôi sẽ ở trong một căn nhà lưu động nằm sâu trong rừng, không có sóng điện thoại di dộng nên tôi chẳng thể gọi cho ai và không ai có thể gọi cho tôi trong trường hợp Mia gặp chuyện khẩn cấp.
“Đừng để cơ thể bị mất nước”, Pam nói trong lúc mở khóa. Chị đặt cái xô nước đã đổ thêm thuốc tẩy và bỏ khăn giấy vào. “Thi thoảng khi nào cần thì nhớ phải nghỉ ngơi.”
Tôi nhướng mày trước câu đó. Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói được phép nghỉ giải lao trong giờ làm. Có lẽ việc dọn nhà sau khi chủ chuyển đi cần đến những lần nghỉ giải lao ngắn mà quy trình dọn dẹp bình thường sẽ không cần đến. Cho tới lúc đó tôi vẫn nghĩ chúng tôi không được phép ngồi.
Tính đến thời điểm này, hầu hết các ngôi nhà do tôi dọn dẹp đều thuộc về những người chủ có đủ tiềm lực tài chính duy trì nó, và tôi hiếm khi là người giúp việc đầu tiên đặt chân vào căn nhà. Còn công việc này lại rất khác. Căn nhà trống vắng. Không có bụi bám quanh đèn bàn, chẳng sách hoặc đồ trang trí trên các kệ, nên lúc đầu ta dễ tưởng đây nó dễ xơi. Nhưng thật ra đây lại là công việc mất thời gian, sức lực nhất, và cũng bẩn thỉu nhất. Thường thì người chủ quyết định bán nhà sau khi đã cho thuê và không được thường xuyên dọn dẹp nó vài năm. Trong những ngôi nhà như thế, một lớp bụi dấp dính, tựa như một lớp xi măng dẻo, sẽ phủ lên bếp. Khu vực sàn nhà quanh toilet ố vàng, lông tóc bám vào đủ các khe kẽ. Mỗi lần lau một bề mặt, màu sắc thật lại lộ ra, khiến mặt phẳng vốn đã biến màu trông lại còn bẩn thỉu hơn.
Vào trong căn nhà lưu động, đầu tiên tôi để ý tới những viên gạch lát nền ố đen ở lối vào. Một đường đen rõ rành rành in đậm trên tấm thảm dẫn vào phòng khách. Khi đứng trong phòng ăn, chúng tôi ngước nhìn ngọn đèn trần bị quấn đầy mạng nhện bám bụi, gần chạm đầu chúng tôi.
“Chị sẽ lo nhà vệ sinh cho khách”, Pam đề nghị, khiến tôi có cảm tình với chị hơn. “Trong đó rất bẩn.” Pam chống hông, ngước nhìn đám mạng nhện. “Sheila”, chị gọi người phụ nữ đang ngắm nghía góc các tấm rèm sáo trong phòng khách đã cong queo và phủ bụi đen sì. “Em quét nhà và phủi bụi các tấm rèm sáo nữa nhé.” Pam nhìn tôi, hít một hơi sâu và nói, “Chị muốn em dọn bếp.”
Tôi đi theo Pam vào phòng tiếp theo, Pam rút dây điện tủ lạnh, mở cửa tủ và hướng dẫn trong lúc nhòm vào trong. Chị nhăn mặt. Đó có lẽ là lần duy nhất tôi thấy Pam phản ứng với sự bẩn thỉu cáu ghét - chị thường giữ thái độ vui vẻ dễ chịu, ngay kể cả khi quở trách chúng tôi. “Em phải kéo tất cả các ngăn ra và rửa sạch”, chị nói, đầu thì quay về phía tôi nhưng mắt vẫn chăm chăm nhìn vào trong tủ lạnh. Tôi lại gần hơn để nhìn qua vai chị. “Dỡ tất cả các ngăn kính xuống và lau đẫm xà phòng vào.” Chị dừng lại để bóc miếng cao su rúm ró dính trên cửa tủ ra. “Nếu là chị, chị sẽ dùng bàn chải đánh răng để cọ dây gioăng. Cố gắng đánh sạch thức ăn bám vào các khe kẽ nhé. Cứ nói nếu em cần giúp đỡ”, Pam nói, vỗ vai tôi và mỉm cười. “Những vũng nước thịt khô kia khó cọ lắm đấy.”
Chúng tôi tiếp tục đi vòng quanh gian bếp nhỏ. Pam chỉ vào lớp dầu màu nâu cam kết dày ở máy hút mùi. Chúng tôi đang đứng dưới những vết ố bẩn, chỉ biết trợn tròn mắt lên mà nhìn. Có những vết lốm đốm như tương ớt trên trần nhà. Van chỉnh nhiệt độ bếp cũng két đầy thức ăn màu nâu xỉn. Mỗi xentimét vuông của căn bếp này, kể cả bên trong chạn, đều đòi hỏi được kì cọ và lau rửa sạch sẽ.
Khi đứng bên bồn rửa, tôi thấp thoáng trông thấy góc ngôi nhà thuở bé của Tướng cướp Chân đất qua cửa sổ. Tôi không thể rời mắt, phấp phỏng đợi chờ hắn có nhô đầu lên trên đám cỏ không. Tôi nghĩ mình phải để mắt trông chừng chiếc Subaru yêu quý - phương tiện đưa tôi đi làm và về nhà. Tôi bỗng hình dung ra cảnh hắn chĩa súng vào tôi đòi chìa khóa xe, sau đấy lái đi mất.
Để lau sạch trần, tôi phải đứng lên bệ bếp. Pam sang kiểm tra và cẩn thận coi chừng tôi. Chị bảo tôi nhớ gọi chị sau khi đã dọn xong bếp để sau đấy chị hướng dẫn tôi dọn nhà vệ sinh chính. Chị vẫn đang xử lí nhà vệ sinh cho khách. Tôi nghe thấy tiếng chị húng hắng ho do xịt chất tẩy rửa, dù đã đeo một chiếc khẩu trang dùng một lần. Chúng chẳng cản được các hóa chất độc hại này là mấy. Pam đeo để làm gương và nhắc nhở chúng tôi noi theo. Nếu có tai nạn nghề nghiệp gì, câu hỏi đầu tiên sẽ là chúng tôi có đeo đồ bảo hộ được công ty cung cấp hay không.
Bước vào bếp, Pam thấy tôi đang nghỉ giải lao. Tôi đã đứng bên bệ bếp gần ba mươi phút để kì cho bằng sạch các vết ố lấm tấm trên trần. Cuối cùng, tôi đành bó tay.
Chị ra hiệu cho tôi đi theo, và chúng tôi tiến về phía nửa còn lại mà tôi chưa có cơ hội “tham quan”. Phòng ngủ chính vẫn còn đầy đủ đồ đạc, tủ quần áo mới dọn được một nửa. Một chiếc chăn lông cừu dày in hình đàn sói phủ lên thứ gì đó xem chừng là đệm nước. Tôi không thể nào không nhăn mặt khi hình dung ra cảnh người đàn ông - sở hữu căn bếp mà tôi vừa mất hai tiếng đồng hồ để kì cọ thức ăn khô bám khắp nơi - chơi phụ nữ trong phòng ngủ. Tôi tự hỏi loại phụ nữ nào chịu lên giường với hắn và làm tình trong cái chăn lông cừu in hình sói này.
Chính những tưởng tượng hoặc hoang tưởng về khách hàng đã giúp tôi vượt qua những ngày bồn chồn, mệt nhọc và cô độc. Những cư dân tưởng tượng trong những căn nhà này đi cùng tôi. Tôi thấy họ ngồi trên giường vào bình minh ngày đi làm, dùng khăn lau người sau khi tắm - sau đó vứt toẹt ra sàn và bây giờ tôi rón rén nhặt lên, nhất quyết phải đeo găng tay. Họ cũng để lại dấu vết về chính họ và hành động của họ. Tôi có thể thấy họ đứng bên cửa sổ nhà bếp nhâm nhi tách cà phê buổi sáng, trong khi tôi lau đi vành cà phê khô do đế cốc để lại.
Hồi mười sáu tuổi, tôi làm công việc dọn dẹp các lồng chim, thú cảnh - chuột cảnh các loại, nhím, chồn sương và chim chóc -trong một tiệm thú cưng. Chủ tiệm có kiểu nói nhuốm màu hung hăng tiêu cực, giọng kim the thé đủ khiến tôi nhăn nhó. Một sáng nọ, tôi đến chỗ làm trong tình trạng mệt rũ vì phải làm quá nhiều việc ngoài yêu cầu, biết rằng mình không thể chịu đựng thêm một ngày nữa nhét tay vào lồng chim làm chúng đập cánh hoảng loạn, còn tôi chỉ muốn bay biến đi ngay tức thì.
“Công việc căng thẳng quá sức”, tôi nói sau khi đi thẳng vào phòng chủ tiệm. “Tôi xin nghỉ.”
“Chà”, cô ấy ngồi tại bàn, mỉa mai. Bên cạnh là lồng của mấy con chuột đực gây giống. “Tốt hơn hết là tôi nên cho em nghỉ trước khi em căng thẳng quá sức!”
Phải vài tuần sau tôi mới nhận được séc lương cuối cùng qua thư. Từ đó trở đi tôi chưa từng nghỉ ngang công việc bao giờ nhưng nhà vệ sinh chính trong căn nhà lưu động đó suýt đánh gục tôi.
Vào ngày thứ hai, tôi một mình quay lại làm việc. Tôi đậu xe, khóa chốt cửa nhốt mình bên trong. Tôi tránh nhìn ra ngoài vì sợ sẽ trông thấy Tướng cướp Chân đất đi ngang qua. Sáng hôm ấy, tôi đưa Mia đến nhà trẻ sau khi đã cho con uống một liều Tylenol để hạ sốt nhẹ. Ngày hôm qua đã cho thấy hoàn toàn không có sóng điện thoại di động trong Căn nhà Lưu động. Nếu Mia sốt cao hơn thì cũng không ai có thể liên lạc với tôi. Nỗi bồn chồn vì phải ở một mình trong Căn nhà Lưu động, không liên lạc được với thế giới bên ngoài gây ra cho tôi một nỗi bủn rủn không thể rũ bỏ được. Nó pha trộn cùng sự căng thẳng vì trong suốt thời gian làm việc, tôi như biến mất trong một cõi hư vô. Là mẹ, dù gì thì tôi cũng muốn nhận được một cuộc điện thoại nếu con tôi gặp vấn đề gì.
Hôm qua chúng tôi đã dọn dẹp gần xong, nhưng tôi phải làm lại phần việc của Sheila. Các ngăn kéo tủ lạnh vẫn bị ngâm trong bồn rửa. Tấm vải sơn trải trên sàn gian bếp - một mảnh màu nâu bạc phếch nối bếp, bồn rửa và tủ lạnh thành một hình tam giác - vẫn cần được cọ. Nhưng chủ yếu, tôi dành thì giờ cho nhà vệ sinh chính.
Hôm trước, Pam bảo tôi vừa xịt vừa cọ. Chị gợi ý tôi nên chỉ dọn nhà vệ sinh một lúc rồi chuyển sang xử lí những phần khác của căn nhà, sau đó quay lại làm tiếp. Phương pháp từ trái sang phải, từ trên xuống dưới của tôi là không đủ để đương đầu với cái đống hổ lốn trước mắt. Mốc đen mọc gần kín trần nhà và phần tường bên trên buồng tắm đứng. Tôi dùng hết hai chai xịt mốc, xịt đẫm rồi cọ đi, đeo kính bảo hộ và khẩu trang để không hít phải.
Trong buồng tắm, các góc và khe kẽ hổng lên vi mốc sương. Dưới chân tôi, nước tẩy rửa chảy thành dòng mang theo bụi bẩn cùng nấm mốc đen, nâu. Tôi làm sạch được vài chỗ rồi đâm ra hối hận, vì như vậy thì tôi sẽ phải cọ sạch từng xentimét của cái buồng tắm tí hin này. Tôi kéo cổ áo lên che mũi và đã vài lần phải ra ngoài để hít thở không khí trong lành.
Khi đang quỳ trên toilet và kiêm tra thật kĩ, tôi vội vàng đứng bật dậy và bỏ ra ngoài. Quá đủ rồi. Tôi ngồi ngoài hiên ít nhất mười lăm phút, dưới màn mưa bụi. Tôi chỉ ước giá mà có một điếu thuốc, hoặc ít nhất là đồ ăn trưa, hoặc gì đó không phải là nước lọc. Cà phê và bánh mì phết bơ lạc mà tôi mua lúc sáng đã vào bụng tôi từ lâu rồi.
Ở ngoài hiên, tôi đã đi qua vài cung bậc cảm xúc. Tất nhiên là có giận vì người ta trả tôi mức lương gần như tối thiểu để yêu cầu tôi dùng tay cọ phân trên toilet. Gấp ba lần lương cũng không xứng! Bên trong phòng tắm lớn của Căn nhà Lưu động là những vũng nước tiểu kết tinh đóng bánh quanh chân toilet. Mặt dưới bệ ngồi, viền và mặt trên toilet đều đầy những đốm nâu mà tôi đoán là phân khô, còn những vệt vàng cam trông giống chất nôn. Tôi đeo đôi găng rửa bát màu vàng, và được trang bị bột Comet. Nhưng người đàn ông sử dụng nhà vệ sinh đó đã mua những viên tẩy bồn cầu, chắc là để lừa mình lừa người rằng nhà vệ sinh rất sạch và chúng để lại những vệt xanh nước biển sẫm theo đường nước chảy và ở dưới bệ nơi nước sạch chảy vào. Tôi phải cho tay vào cọ chúng bằng đá bọt hết lần này đến lần khác, cho đến khi chúng biến mất.
“Họ trả công không xứng đáng”, tôi lẩm bẩm. Sau đó tôi hét vào rừng. Tôi ngồi một mình ngoài hiên trong cảnh nước mưa tí tách chảy xuống từ mái nhà, và chính tôi cũng phải bất ngờ trước nỗi bực bội bị dồn nén vào phát ngôn ấy. Tới lúc đó, sau khi phải chịu những trò bạo hành đến không báo trước của Jamie, khiến tôi phải ngã quỵ, hai lá phổi thít vào, ngực thắt lại như thể tôi bị một gã hộ pháp siết chặt trong đôi cánh tay cơ bắp, tôi đã trở thành một con người khắc kỉ. Mặt đất đã sụp xuống dưới chân tôi quá nhiều lần, và tôi đến giờ vẫn bước đi cẩn trọng, biết rằng chỉ cần một rắc rối nhỏ thôi cũng có thể khiến tôi trở về vạch xuất phát, trong khu nhà dành cho người vô gia cư. Hơn hết, mặc cho những bất ổn trong những việc không nằm trong tầm kiểm soát, tôi vẫn phải bình tĩnh. Đáng tin. Tôi phải đi làm và làm cho trọn vẹn. “Không được gục ngã!” Tôi tự nhủ. Đó đã trở thành câu thần chú được tôi thầm nhắc đi nhắc lại, và đôi khi là thành tiếng.
Chiếc Subaru màu hạt dẻ của tôi óng lên dưới mưa. Mây bỗng rẽ ra, để mặt trời chiếu rọi toàn bộ thân ôtô. Tôi chưa bao giờ muốn bỏ việc theo cách này. Tôi cảm thấy bị khinh mạt bởi cái toilet đó, người đàn ông đã để nó ra nông nỗi này, và bởi chính cái công ty trả cho tôi mức lương tối thiểu. Tôi đăm đăm nhìn chiếc Subaru, hình dung ra một lối thoát cho mình.
Tôi không có lựa chọn. Tôi và Travis bây giờ chẳng mấy khi nói chuyện với nhau. Anh giận tôi vì vào những ngày cuối tuần Mia ở nhà bố, tôi cứ ngủ bù thay vì dậy lúc bảy giờ sáng để giúp việc trang trại. Tôi chẳng quan tâm, chính anh cũng biết thừa. Chúng tôi cộng sinh trong bầu không khí giận dữ đó suốt nhiều tháng. Tôi hoàn toàn không có phương kế gì để kiếm tiền thuê chỗ ở. Vì vậy tôi đành quay lại với cái toilet. Nghỉ việc đồng nghĩa với nhiều tháng tiếp theo trôi qua trong tuyệt vọng vì không có thu nhập. Tiền trợ cấp nuôi con mà tôi được nhận còn chẳng đủ để trang trải tiền ga. Toàn bộ 275 đô đó được đổ hết vào những chuyến đưa đón Mia đến và rời nhà bố. Mất việc có nghĩa là tôi mắc nợ Travis; có nghĩa là tôi đánh mất lòng tự trọng.
Tôi siết chặt nắm đấm. Tôi đứng dậy. Tôi nghiến răng lấy tinh thần đi vào nhà. Đây không phải là số phận của tôi. Đây không phải là kết thúc của tôi. Tôi quyết tâm chứng minh rằng mình đúng.
Căn nhà Lưu động tặng cho tôi những cơn ác mộng. Trong mơ, tôi lái xe về nhà và điện thoại bắt đầu rung ì ì với những thông báo thư thoại. Đôi khi tôi mơ thấy có số lạ gọi tới. Khi tôi nghe máy, người phụ nữ ở đầu bên kia hoảng hốt nói gì đó tôi không hiểu được, cho đến hai chữ “bệnh viện”. Hình ảnh Mia nằm trên giường, mái tóc nâu ngắn loăn xoăn bết máu khô lóe lên trong tâm trí tôi trước khi người phụ nữ bắt đầu hỏi tôi ở đâu và vì sao trong danh bạ không có một số liên lạc khẩn cấp nào. Chỉ có tôi! Tôi nhắc đi nhắc lại trong mơ. Chỉ có tôi thôi.
Nhưng Căn nhà Lưu động vẫn còn quay lại, theo một cách khác. Tôi đã dành mười hai tiếng dọn dẹp nó và hai ngày sau, Lonnie gọi cho tôi. Giọng cô thiếu đi sự vui vẻ thường lệ. Khách hàng chê tôi dọn bẩn, than phiền về bụi bám bên bóng đèn, rèm sáo, hoặc những đốm bẩn trên gương, hoặc tất cả. “Chị cần em đến dọn lại”, cô nhẹ nhàng nói. “Và như đã ghi trong hợp đồng của em”, - cô dừng lại, hít một hơi sâu, - “phía công ty sẽ không trả tiền công cho lần này.”
Tim tôi bắt đầu đập thình thịch vào lồng ngực. “Không đời nào”, tôi nghẹn ngào. Lái xe một chiều mất bốn mươi phút, nghĩa là tiền xăng sẽ không được bồi hoàn. Từ chối Lonnie có thể khiến tôi mất việc, nhưng nếu quay lại đó thì tôi sẽ tự xin thôi việc mất. “Em không nghĩ mình có thể quay lại. Toilet nhà ấy khiến em chỉ muốn nghỉ việc.”
Lonnie thở dài. Cô biết tôi tuyệt vọng cần việc làm, tôi thực sự không thể tiêu tốn tiền xăng xe vô ích. “Vậy thì để chị lo liệu xem sao”, cô nói và cúp máy. Tôi không biết cô có cho ai đến thay tôi dọn dẹp không. Có lẽ họ gọi Sheila quay lại, nhưng cũng có thể Pam phải xử lí nốt. Nếu vậy thì cô cũng không kể với tôi.