Chương 10 Nhà của chú Henry
Lonnie và tôi đứng trên hiên nhà lát xi măng trong lúc cô giới thiệu tôi với căn nhà của khách hàng mới. Chúng tôi gõ lên cánh cửa gỗ đỏ sau đó đứng đợi ít nhất là một phút, nghe thấy tiếng chó sủa ông ổng và ai đó đi lại bên trong để dỗ dành lũ chó. Người đàn ông ra mở cửa mặc áo choàng tắm bên ngoài áo phông trắng, quần vải xanh sẫm, và đi dép lê.
“Hai người đây rồi!” Ông ấy nói, giọng sang sảng. Hai con chó chăn cừu Úc to sụ vẫy cái đuôi cộc và phấn khích nhảy cẫng lên.
“Henry”, Lonnie nói. “Tôi muốn ông gặp cô nhân viên dọn dẹp giỏi nhất của chúng tôi, Stephanie.”
“Xin mời vào”, ông ấy nói sau đó khoát một cử chi đề nghị giúp tôi mang đồ nghề vào. Lonnie mỉm cười và cảm ơn, còn Henry khép cửa lại. Ông ấy đặt cái túi đựng những chiếc khăn trắng gấp làm tư xuống và nói, “Để chú chỉ cháu cách dọn dẹp nhé.”
Henry yêu cầu công ty cử một người giúp việc mới. Lonnie khuyên tôi nhận việc này và đã thuyết phục Henry rằng tôi giỏi hơn người cũ. Tôi được yêu cầu chỉ dọn dẹp căn nhà theo hướng dẫn của ông ấy. Theo cách mà ông ấy muốn. Không bao giờ được đến muộn. Không bao giờ làm quá giờ. Và luôn luôn, luôn luôn làm hết khả năng. Tôi sẽ dọn dẹp trong vòng bốn tiếng đồng hồ vào các ngày thứ Sáu cách tuần. “Chuẩn bị đổ mổ hôi đi nhé”, Lonnie bảo tôi.
Henry làm tôi sợ. Vào thời điểm cuối cùng cũng được diện kiến người đàn ông này sau khi nghe Lonnie kể ông ấy khắt khe đến mức nào, tôi không thể nào không nao núng. Ông ấy cao hơn tôi gần ba chục phân. Ở ông ấy có dáng đứng thẳng toát lên sự tự tin, cái bụng lớn phưỡn ra đằng trước.
Chúng tôi bắt đầu từ phòng khách, được vợ chồng Henry dùng làm thư phòng. Họ có hai chiếc bàn riêng bằng gỗ gụ bóng bẩy. Bàn của Henry ở cạnh cửa sổ, nơi mà hầu hết mọi người sẽ kê một bộ sofa sang trọng. Trên các giá treo tường đầy ự những cuốn tiểu thuyết phương Tây, sách du lịch và hướng dẫn lập trình máy tính. Henry từng làm cho một công ty công nghệ gì đó ở Hawaii, sau đó ông ấy nghỉ hưu rồi một thời gian ngắn sau, vợ chồng ông chuyển về đây. Mặt bàn làm việc của ông ẩn bên dưới những chồng hóa đơn, máy ảnh và sách hướng dẫn. Ngược lại, bàn của vợ ông nhỏ hơn và ngăn nắp hơn - chỉ đặt một máy scan, một máy ép plastic, một chồng các công thức nấu ăn và mẹo làm sổ album được cắt ra từ tạp chí, cùng những tấm hình chụp chó mèo nhà mình.
Henry sẽ ở nhà trong thời gian tôi dọn dẹp, và ông muốn tôi làm vệ sinh theo một chu trình nhất định thích hợp với thời gian biểu của ông. Tôi sẽ dọn thư phòng và phòng ăn chính trong khi ông ăn xong bữa sáng và xem thời sự. Đến giờ phát sóng chương trình Hãy chọn giá đúng, tôi sẽ di chuyển sang chái nhà bên kia, trước khi vào nhà vệ sinh dành cho khách sẽ ghé qua dọn phòng giặt, và sau đó là xử lí nhà vệ sinh lớn.
Tại nhà vệ sinh dành cho khách, đầu tiên tôi xếp bốn chiếc thảm ra ngoài để giặt sau. Tôi sẽ dọn toilet trước. Nó đối diện với một buồng tắm đứng lớn có hai vòi hoa sen, được viền đá cuội -Henry sẽ tự dọn chỗ này. Sau khi gấp lại khăn tắm, tôi sẽ lau bồn tắm Jacuzzi góc mà theo như tôi được biết, họ chẳng sử dụng bao giờ. Henry giải thích là họ hay dùng bồn tắm nước nóng ở ngoài hiên, vừa nói vừa chỉ những bộ đồ bơi treo bên cửa. Sau bồn tắm, tôi sẽ lau gương - lớn đến mức tôi phải quỳ trên bệ để với lên tận trên cùng - rồi phủi bụi bóng đèn, bồn rửa đôi, và cái kệ kính bừa bộn. Bên của bà vợ có vài ngăn kéo bằng nhựa trong và những cái giá có nhiều lỗ hình thù khác nhau giữ bàn chải và đủ loại dụng cụ làm đẹp khác mà tôi không biết là gì. Phía bồn rửa của Henry có các hộp đựng thuốc đa dụng - loại nhiều ngăn đề chữ cái đầu của từng ngày trong tuần. Ông có vài chiếc bàn chải, và kem đánh răng vương vãi khắp nơi.
Sau khi hút bụi các tấm thảm nhà vệ sinh, tôi sẽ lau sạch tường và sàn nhà. Khi đặt các tấm thảm về chỗ cũ, tôi phải thật cẩn thận để không làm xê dịch đường hút bụi. Tiếp theo, tôi sẽ phủi bụi khá nhiều kệ, giá trong phòng để quần áo khá rộng trước khi dọn phòng ngủ rồi hút bụi lùi ra ngoài.
Vào ngày đầu tiên đến nhà Henry ấy, chúng tôi đã dừng lại ở hành lang để chiêm ngưỡng một tủ trưng bày bằng kính. Henry thích nghệ thuật chạm khắc gỗ, và ông xen vào chuyến tham quan của tôi để nói hầu hết những tác phẩm ở đây thuộc về những nghệ sĩ tài năng hơn ông rất nhiều. Ông ngại ngùng nói rằng một nửa garage của ông được dành làm xưởng gỗ, nhưng giờ thì ông hiếm khi đóng đồ nội thất.
Tôi khá kiệm lời trong buổi hướng dẫn, cố ghi nhớ càng nhiều càng tốt và tự hỏi liệu Henry có giận nếu tôi không làm đúng như ông muốn hay không. Trong phòng sinh hoạt chung có một chiếc tivi còn lớn hơn xe ô tô của tôi. Cái kệ bên dưới có vài hộp thiết bị điện tử khác nhau như đầu DVD, hoặc hộp truyền hình cáp, hộp điện và âm li của dàn loa đặt quanh phòng. Tôi chỉ mới thấy kiểu sắp xếp tương tự trong các cửa hàng. Bài trí bên một bức tường khác là lò sưởi có mặt lát gạch sống đi kèm một chiếc ghế băng. Để quét tước căn phòng, tôi phải di chuyển hai chiếc ghế nặng trịch bọc da có bánh xe, một cái bàn đặt chính giữa, cẩn thận không động vào năm cái điều khiển từ xa đặt bên trên. Khi bắt đầu hút bụi tấm thảm đỏ, tôi mới nhận ra nếu không có lớp lông chó mỏng phủ bên trên thì nó thiên về màu đỏ gạch hơn. Sau phòng sinh hoạt chung, tôi dọn góc ăn sáng, tủ lạnh bằng thép không gỉ, bệ đá hoa cương, sàn bếp, và cuối cùng nhà tắm nhỏ ở lối vào.
Trong mấy lần dọn dẹp đầu tiên, giọng của Henry làm tôi sợ rúm người. Tôi làm liên tục, chỉ dừng để đổi nhạc trên chiếc iPod hoặc nhìn đồng hồ đảm bảo mình vẫn thực hiện đúng lịch trình. Tôi làm quá giờ trong hai ngày thứ Sáu đầu tiên, khiến Lonnie lo lắng đến mức phải gọi điện nói chuyện với Pam, khiến Pam sau đó lại gọi cho tôi hỏi xem tất cả có ổn thỏa hay chăng. Được một thời gian, tôi đã biết phải nhặt tóc ở đâu, chỗ nào chỉ cần lau qua, nơi nào cần kì cọ hoặc chỗ nào có tốn sức mấy cũng không sạch được. Tất cả biến thành một loạt các chuyển động theo quán tính, và tôi dành thời gian lo lắng về những chuyện khác của mình.
Khi tôi đến nhà Henry vào các buổi sáng, chúng tôi luôn nói chuyện phiếm một chút. Sau đó ông sẽ bận rộn trong bếp làm đồ ăn sáng, thường là hai lát bánh mì dày ăn kèm cà chua và quả bơ. Đợi ông xong, tôi sẽ dọn cái bàn gỗ nơi ông ngồi ăn sáng, phủi những mảnh vụn bánh mì còn sót lại, tháo các mặt bàn xoay đặt đầy các lọ muối và nước xốt cay khác nhau để lau bên dưới. Đến lúc tôi dọn ngoài hành lang, ông sẽ làm việc tại bàn của mình cho tới khi tôi ra về.
Một hôm thứ Sáu nọ, ông hỏi tôi có thể làm thêm một ngày thứ Sáu nữa trong tuần sau hay không.
“Tiếc là cháu không thể rồi ạ”, tôi nói. “Cháu dọn vệ sinh một căn nhà khác vào các thứ Sáu không làm cho chú.” Tôi cũng mới nhận dọn dẹp Nông trại, và tôi ngạc nhiên nhận ra cũng giống với nhà của Henry, chủ nhà này đã kinh qua hầu hết các nhân viên dọn vệ sinh của công ty trước tôi. Cả hai ngôi nhà đều yêu cầu người làm dọn dẹp bốn tiếng, tác phong nhanh nhẹn, phải đổ mồ hôi với những tấm thảm kinh khủng và đều nuôi nhiều thú cưng. Tôi kìm một cơn rùng mình vô tình khi nghĩ về việc hút bụi tấm thảm màu xanh sẫm phủ cầu thang nhà ấy.
“Thế à”, Henry cúi đầu thất vọng và nói.
“Nhưng cháu có thể đến vào ngày cuối tuần”, tôi nói. “Nếu chú thấy được. Con gái cháu cứ cách tuần lại sang nhà bố vào dịp cuối tuần, và cháu có thể đưa con đi sau khi đã dọn xong nhà chú.”
Henry đứng thẳng hơn và có vẻ hài lòng. “Tuyệt vời, vì chú sắp tổ chức một bữa tiệc tối!” Ông nói rồi ra hiệu cho tôi đi theo. Chúng tôi bước ra ngoài cửa kính trượt ra cái hiên sau nhà. “Và chú muốn cái lò nướng này sáng bóng.”
Tôi gục gặc trước vẻ cáu bẩn của cái lò nướng và để ý thấy ở góc bồn tắm nước nóng là một chai champagne rỗng. Cơ thể tôi đau đớn thèm khát được chỉ một lần, một cơ hội ngâm mình trong bồn nước nóng mà thưởng thức một li champagne.
Trở vào trong nhà, tôi tiếp tục hút bụi phòng ăn chính. Henry có một bộ trò chơi điện tử cũ ở đó, cùng một chai rượu gin đắt tiền đã vơi nửa đặt cạnh cái bồn rửa nhỏ bên quầy bar. Tôi tự hỏi cuộc sống lúc về hưu của tôi sẽ ra sao, nếu tôi có. Chắc chắn tôi sẽ không bao giờ có một ngôi nhà rộng đến nỗi không thể tự mình dọn dẹp. Sao ta phải phí phạm thuê một người dọn dẹp cái chốn mà ta chẳng bao giờ lui tới? Tôi cố gắng làm việc theo cùng một quy trình, chìm sâu trong mạch suy tư trong lúc tiếng nhạc dộng uỳnh uỳnh vào màng nhĩ. Đúng lúc đó, Henry vỗ vai tôi. Hoang mang, tôi lúng túng tắt máy hút bụi và tháo tai nghe.
“Cháu có thích ăn tôm hùm không?” Ông hỏi.
Tôi chớp chớp mắt.
“Chú thường làm bữa tối với thịt và đồ hải sản vào các ngày thứ Sáu”, ông nói. “Chú định mua hai con tôm hùm.”
Tôi gật đầu, tự hỏi vì sao ông lại xen ngang lúc tôi đang hút bụi, và vắt óc suy nghĩ xem liệu đã từng thấy ai mua một con tôm hùm còn bơi trong bể hay chưa.
“Tối nay cháu nấu ăn cho mấy người?” Ông hỏi.
“Hai ạ”, tôi nói.
“Thế để chú lấy cho cháu hai con”, ông nói. “Cảm ơn cháu đã làm thêm ngày vì bữa tiệc của cô chú.”
Tôi lúng búng cảm ơn. Tôi chưa từng gặp một khách hàng nào tốt với tôi, đối xử với tôi như giữa con người với con người. Tôi không biết phải đón nhận ra sao. Hơn nữa, tôi chỉ mới đôi lần được ăn cả một con tôm hùm và không biết chế biến. Tôi đã bắt đầu thấy có lỗi vì rất có thể tôi sẽ làm hỏng món quà hào phóng này bởi tay nghề nấu nướng dở ẹc.
Mấy phút sau, Henry rời nhà, dắt theo hai con chó. Đây là lần đầu tiên ông để tôi ở nhà một mình. Tôi vui vì được ông tin tưởng. Tôi đã quá quen với cảm giác không được tin tưởng rồi. Tôi nghĩ về người phụ nữ ở Nông trại: bà ấy ở nhà vào lần đầu tiên tôi đến dọn dẹp, sau đó luôn đi đi lại lại, vòng quanh giám sát tôi suốt. Tôi có cảm giác bà ấy cố dụ dỗ tôi ăn cắp vặt bằng cách để đồ nữ trang hớ hênh bên ngoài ngăn kéo.
Khi cho tay vào túi quần lấy điện thoại, tôi nhìn quanh quẩn mặc cho căn nhà vắng tanh và không ai giám sát. Tôi gọi Travis và khi anh nhấc máy, tôi vui vẻ kể cho anh nghe về chuyện tôm hùm. Tôi nhờ anh bỏ hai miếng bít tết tôi đã mua trong đợt khuyến mại ra khỏi tủ lạnh. Tôi cảm thấy bằng cách chia sẻ tin tức tốt lành, vận may này với anh, tôi sẽ cho chúng tôi thêm một cơ hội nữa.
Nhưng anh không thích tôm hùm, cũng chẳng ưa bít tết. Thay vào đó, anh nói giọng đều đều, “Em đã kiểm tra dầu nhớt xe em chưa?”
“Rồi, còn ít lắm”, tôi nói, bỗng thấy cụt hứng. Tôi dừng lại ngắm nhìn bức tranh ánh bạc vẽ một ngọn hải đăng, được treo nơi hành lang nhà Henry. Sau đó tôi nhìn xuống đôi chân đi tất của mình và di một bên xuống sàn gỗ sáng bóng.
Có lẽ Travis thích thể hiện tình yêu bằng cách quan tâm đến phương tiện đi lại của tôi, nhưng tôi không nghe ra được. Hiếm hoi lắm tôi mới trò chuyện với người thân, và tôi cần anh. “Em yêu anh”, tôi nói vào đúng lúc chúng tôi sắp cúp máy, nhưng anh không hề đáp lại.
Sau khi cúp máy, tôi bắt đầu dọn phòng tắm của Henry trong lúc nỗi thất vọng từ cuộc trò chuyện với Travis vẫn còn vương vất. Henry về nhà đúng lúc tôi quấn giẻ vào một cây gậy để cọ toilet.
“Cháu biết xử lí chúng không?” Giọng ông vang oang oang giữa những bức tường, đến nỗi làm tôi giật mình. Khi tôi quay lại, ông ra hiệu cho tôi theo ông vào phòng giặt. Ở đó, trên nóc cái máy giặt tôi vừa lau chùi, là hai con tôm hùm lớn nhất mà tôi từng được trông thấy. Chúng có màu nâu đỏ. Chúng còn sống. Và chúng là của tôi.
Henry đưa cho tôi tờ hướng dẫn chế biến và một cái kẹp vỏ sáng bóng.
“Chú biết không”, tôi nói, đưa ngón tay cái xoa xoa cái dụng cụ kẹp vỏ bằng bạc, “rất có thể chú sẽ cứu vãn được mối quan hệ của cháu.”
“Thế à?” Ông hỏi, nhìn tôi với vẻ vừa tò mò vừa hứng thú.
“Vâng”, tôi nói rồi nhún vai như thể đó không phải chuyện gì to tát. “Chúng cháu hay cãi vã. Về tiền, và nhiều chuyện khác nữa.”
“Chà”, ông khoanh tay rồi nói. “Chú rất tiếc.” Ông nhìn thẳng vào tôi, mắt hơi nheo lại, chỉ cái kẹp vỏ tôm vào mũi tôi. “Khi chuyện tình cảm đã không còn vui vẻ nữa thì cháu nên dừng lại.”
Những lời ấy cứ văng vẳng trong đầu tôi cả ngày hôm ấy. Travis và tôi không có sở thích chung. Anh có thú ngồi lên xe dã ngoại và phóng nhanh phanh gấp, trong khi tôi thích uống bia nhẹ và bàn chuyện chính trị, sách vở. Chúng tôi đã cố hòa hợp. Có những đêm anh cùng tôi ngồi ngoài hiên uống bia và ngắm nhìn khu vườn lớn do chúng tôi tạo nên ở một góc sân. Giữa những sự khác biệt của chúng tôi là Mia - nhảy nhót, vui vẻ, choàng ôm cả hai chúng tôi. Những lúc ấy, chúng tôi như một gia đình thật sự. Tôi không bao giờ hiểu nổi tại sao Travis không thích đi đầy đó, thiếu óc tò mò ham học hỏi. Chúng tôi đã đi đến điểm chán chường, trách cứ nhau vì những khác biệt của đối phương.
Vi Mia, tôi cố bám lấy giấc mộng. Trang trại. Lũ ngựa. Cái xích đu lốp xe ở sân trước, những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Tôi hay thì thầm xin lỗi con mỗi khi quan sát con ôm một ôm cà rốt nhổ từ mảnh vườn mà chúng tôi tưới tắm suốt mùa hè qua, trong bộ dạng chỉ mặc quần xà lỏn và đi đôi giày cao bồi nhỏ nhắn. Mẹ xin lỗi vì thế này là không đủ đối với mẹ.
Khi tôi dọn dẹp xong, Henry giúp tôi mang đồ nghề ra xe. Tôi ôm túi tôm hùm trước ngực, nhưng thật tâm tôi rất muốn ôm Henry cảm ơn lòng tốt của ông, vì ông đã đối xử như thể tôi không phải một cô giúp việc mà giống một người xứng đáng được yêu thương và tươi cười, thi thoảng có một bữa tối với tôm hùm thịnh soạn. Khi tôi cảm ơn, Henry cười tươi và vỗ ngực. “Về nhà đi”, ông nói, dù tôi bắt đầu nhận ra “nhà” là một thứ gì đó phù du, một quả bom hẹn giờ, một vụ nổ đang chực chờ xảy tới.
Tại tín hiệu đèn giao thông cuối đường, tôi dừng xe lại sau góc ngoặt. Tôi nhoài người, áp trán vào vô lăng. Nói chuyện với Henry làm tôi nhớ bố vô cùng.
Hồi năm ngoái, chuyện này hay xảy ra lắm. Mỗi khi cảm nhận thấy nỗi đau của sự mất mát - trong ngực tôi như có một cái hố rộng ngoác, tôi thấy tốt nhất nên dừng lại và chờ đợi cho cảm xúc ấy trôi qua. Nỗi đau không thích bị ta tảng lờ. Nó cần được yêu thương, cũng như tôi cần được yêu thương. Khi tôi ngồi trong xe với túi tôm hùm ở cạnh trên ghế phụ lái, tôi hít vào thở ra, mỗi lần đếm đến năm. Tôi yêu bạn, tôi thì thầm với chính mình. Tôi ở đây vì bạn.
Tôi chỉ còn cách tự nhắc nhở mình hãy tự yêu lấy bản thân.
Khi tôi đón Mia từ nhà trẻ để đưa đến nhà Jamie, con bé còn đang ngủ. Đã gần hai giờ và giao thông sẽ ùn tắc hơn nếu chúng tôi đi muộn hơn. Con bé phản đối khi tôi bế nó lên, mặc áo khoác cho và thắt dây an toàn. Chúng tôi ghé qua nhà, tôi vẫn để xe nổ máy trong lúc chạy vào bỏ túi tôm lại và lấy cái ba lô đặc biệt đựng đồ dùng cho dịp cuối tuần của Mia. Tôi nhét vào đó vài bộ quần áo, một cái chăn, một cuốn album ảnh do chúng tôi làm, và Khỉ George Tò mò của con. Mia ngủ trên xe nên tôi có cơ hội nghe chiếc đĩa CD tôi làm đợt trước. Bài hát đồng quê lố bịch về người nông dân cắt cỏ khô vang lên. Travis luôn bật to đoạn đầu bài hát mỗi khi Mia ở trong xe tải của anh, vì nó bắt đầu với tiếng động cơ ì ì làm rung lồng ngực bằng âm bass trầm. Tôi mỉm cười khi nhớ Mia đã yêu cầu anh bật đi bật lại, đôi giày hồng có hình ngựa của con bé đá lên đá xuống khi con bé cười khanh khách. Khi đại dương hiện ra trong tầm mắt, tôi với tay ra sau lắc lắc chân để đánh thức con.
Sáu giờ tối, tôi mới về đến nhà. Một mình trong bếp, tôi lấy một nồi nước và bắc lên bếp. Khi nước sôi lục bục, tôi dùng người che cho con tôm khỏi phải nhìn thấy nồi nước trong khi đọc hướng dẫn lần thứ năm hoặc sáu gì đó. Travis chọn ở ngoài hiên với lò nướng, có lẽ đang nướng bít tết. Còn thả hai con tôm hùm vào nồi là sứ mệnh của tôi.
Cái nồi không vừa cho cả hai con. Tôi phải luộc từng con một. Bố tôi thường làm những mẻ tương ớt lớn bằng cái nồi này và vì một lí do nào đó mà tôi được thừa kế nó sau khi bố mẹ li dị. Nó có kèm theo một cái xửng hấp. Khi mới ngoài hai mươi tuổi, tôi sống với người bạn trai hồi ấy trong một căn nhà nhỏ tại Alaska. Ở đấy không có nước máy và nó nằm trên một mảng băng vĩnh cửu rộng năm hecta. Khi đến thăm chúng tôi, bố mang theo công thức làm tương ớt viết tay. Bố còn viết “Tương ớt của bố” ở ngay đầu trang. Tôi nhét tờ giấy vào một túi nhựa trong, lồng vào cuốn sổ còng chứa các công thức nấu ăn do mình thu thập.
Đó không phải một công thức cao cấp - nguyên liệu cũng chỉ gồm hamburger, hành, đậu cúc cộng thêm chút nghệ. Tôi khá chắc ông đã sao nó ra từ sách cẩm nang nấu ăn của hãng Betty Crocker. Nhưng khi còn bé, tôi rất thích thấy bố làm tương ớt. Chúng tôi sẽ ngồi quanh bàn với những cái tô bốc khói, dùng tay bóp vụn bánh quy mặn, và sau đó phẩy vụn trên sàn khiến mẹ trợn trừng mắt. Khi Mia và tôi lần đầu tiên xuất hiện trước cửa nhà bố và Charlotte, khoảng một tháng trước khi Jamie đấm tan cửa và đuổi chúng tôi đi, Charlotte đã năn nỉ tới khi bố chịu làm một mẻ tương ớt cho tôi. Tôi yêu bà vì lí do đó. Khi tôi đăm đăm nhìn cái nồi nước sôi sùng sục, những con tôm hùm chờ chết, những kí ức đó bỗng ào ạt quay về. Tôi nghĩ đến Charlotte, nhưng tôi không thể nhớ ra lần cuối cùng tôi gặp hay thậm chí là nói chuyện với bà.
Khi tôi thả con tôm hùm đầu tiên vào nồi nước, nó không kêu hay quẫy như tôi đã tưởng, vỏ của nó chuyển sang màu đỏ rực gần như ngay lập tức, sau đó một lớp bọt xanh xuất hiện trên bề mặt. Tôi hớt lớp bọt ra trước khi xử lí con còn lại.
Bàn đã được dọn - hai miếng bít tết, hai con tôm hùm, hai cốc bia. Tôi tự hỏi bàn ăn của chúng tôi có gì khác với của Henry. Vợ chồng họ có lẽ có những chiếc đĩa chỉ dùng cho dịp đặc biệt này, cùng những chiếc khăn vải linen lớn đặt trên đùi. Travis và tôi ăn trong im lặng. Tôi cố cười với anh, tảng lờ chuyện anh không thích một bữa ăn kiểu cách thế này. Trong khi anh bắt đầu xem phim, tôi dọn bàn, bỏ chén đĩa vào máy rửa bát, rửa những chiếc lớn hơn rồi lau bàn và kệ bếp. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trên chiếc sofa da nâu anh được thừa hưởng từ bố mẹ, nhưng không chạm vào nhau. Xem được nửa chừng, tôi ra ngoài hiên châm một điếu thuốc - một chuyện mà bây giờ tôi chỉ làm khi Mia vắng nhà. Tôi đã mua một bao từ vài tuần trước, sau khi dọn dẹp Nông trại. Nó ngày càng giống một nghi thức. Travis ra ngoài hút nửa điếu thuốc trước khi thông báo rằng anh cần đi ngủ.
“Anh muốn em vào cùng không?” Tôi hỏi, vỗ tàn thuốc xuống. Anh dừng lại. “Tôi không quan tâm”, Travis nói và đi vào nhà. Tôi tưởng anh sẽ không giận chuyện tôi không dọn chuồng ngựa vào cuối tuần đó, vì tôi còn bận đi làm. Tôi còn hi vọng chúng tôi sẽ làm tình thật sự chứ không phải theo cái cách hời hợt, tay anh chạm vào hông tôi một cách chiếu lệ, mặt chúng tôi không bao giờ kề bên nhau, bóng tối và sự tĩnh lặng chỉ bị quấy rầy bởi ánh đèn pha của chiếc ô tô đi qua.
Sáng hôm sau, Henry đón tôi ngay tại cánh cửa lớn màu đỏ. “Chuyện thế nào rồi?” Ông hỏi và mỉm cười khi tôi trả ông dụng cụ kẹp vỏ đắt tiền.
“Đó là món ngon nhất mà cháu từng được ăn ạ”, tôi nói, cười tươi rói nhưng sau đó dừng lại vì đột nhiên hiểu ra ý ông. “Nhưng chúng không cứu vãn được chuyện tình cảm của cháu.”
“À”, ông nói và nhìn xuống cái dụng cụ bằng bạc. “Có lẽ như vậy là tốt nhất. Cháu không có vẻ thuộc tip phụ nữ cần đàn ông cứu mình. Cháu thuộc kiểu người chăm chỉ.”
Dù được Henry khen ngợi nhưng tôi thừa biết mình không bao giờ có thể đủ chăm chỉ. Xoay vần giữa chuyện học hành, nội trợ, Mia và cố kiếm đủ tiền trang trải cuộc sống, công việc đã trở thành một thứ gì đó khắc nghiệt, không ngơi không nghỉ. Tiền lương ít ỏi gây ra cho tôi cảm giác tôi làm việc không đủ. Nhưng Henry tôn trọng tôi. Ông là vị khách hàng đầu tiên mà tôi chắc chắn là có tôn trọng tôi.
Chẳng bao lầu sau bữa tôm hùm, Travis và tôi chia tay. Tối đó, tôi về nhà nấu bữa ăn, dọn dẹp, tắm cho Mia và ru con ngủ. Tôi đặt sách vở và laptop lên bàn bếp, đeo tai nghe để át tiếng tivi và bắt đầu làm bài tập về nhà. Sau đó tôi chợt nhận thấy rác nhà bếp chất thành đống. Tôi rời bàn và đứng trước mặt Travis, chắn mất màn hình tivi.
“Anh làm ơn đi đổ rác được không?” Tôi chống hông, nói.
Không hề lưỡng lự, anh buông một câu, “Tôi nghĩ cô nên đi đi.” Sau đó anh đứng dậy, đẩy tôi sang một bên rồi lại ngồi xuống. Tôi đứng đó nhìn anh, choáng váng. Một tràng cười bật ra từ tivi và Travis, gương mặt được ánh sáng màn hình hắt vào, mỉm cười. Tôi trở lại bàn và ngồi xuống ghế, những lời nói ấy quá nặng nề và đang đè bẹp tôi xuống, ép tôi trở về cái hố mà tôi không chắc khi nào có thể thoát ra.