Chương 17 Trong ba năm
Theo như tôi biết thì chỉ một khách hàng - chủ Nông trại - là có lắp camera giấu kín. Bà ấy đã nói thẳng với tôi, khiến tôi bất ngờ. Tôi cố hết sức để gật đầu, dù camera giấu kín là điều hoàn toàn bình thường. Nông trại trải thảm màu xanh lam ở cả hai tầng, bị bám đầy lông chó mèo. Cầu thang cũng được trải thảm, lông tóc chui trong các góc và kẽ của mỗi bậc thang. Trước khi tôi bắt đầu làm việc ở đó, Lonnie đã phân trần là cô đã thử mọi nhân viên dọn vệ sinh trong công ty để tìm ra người thích hợp - tôi là cơ hội cuối cùng của họ để giữ được khách hàng.
Cũng không rõ là tôi làm việc có gì khác biệt với những nhân viên dọn dẹp còn lại và vì tôi hiếm khi dọn vệ sinh cùng họ, tôi cũng không thể so sánh kĩ năng hay đạo đức nghề nghiệp với họ được. Nỗi sợ bị bắt quả tang không làm việc cứ đeo đẳng tôi. Hơn nữa tôi không thể nào quên vào một trong nhiều lần cãi vã với Jamie, anh ta đã nói với tôi rằng: “Cô ngồi không cả ngày, chỉ mỗi việc chăm con mà còn để cứt lộn lên đầu.” Tôi chưa từng quên cảm giác đó. Dù cho tôi có cảm giác mình đã làm tất cả những việc có thể nhưng vẫn chưa bao giờ là đủ.
Sau chuyện cặp vợ chồng già ở cửa hàng tạp hóa, tôi càng ý thức rõ ràng hơn cái vết nhơ là mình ăn bám xã hội. Nó giống như một chiếc áo khoác nặng trịch mà tôi không cởi ra nổi, hoặc giống như có ai đó lắp camera giấu kín quan sát tôi thường trực. Những người nói chuyện với tôi hiếm khi nghĩ tôi cần tem phiếu để sống, và họ luôn nói “loại người đó” trong các cuộc chuyện phiếm. Nhưng “loại người đó” không bao giờ là những người như tôi, mà là dân nhập cư, dân da màu, hoặc dân da trắng bị coi là rác rưởi.
Khi nghĩ về tem phiếu thực phẩm, người ta không hề nghĩ đến những người như tôi: một con người bình thường và da trắng. Một người giống cô bạn hồi trung học ít nói nhưng tốt tính của họ. Một người giống hàng xóm nhà mình. Một con người cũng giống như họ. Có lẽ nếu nghĩ theo chiều hướng đó, họ sẽ cảm thấy lo lắng cho chính mình. Có thể họ sẽ thấy sự mong manh của chính mình: chỉ cần một lần mất việc, một lần li hôn, họ sẽ rơi vào cùng tình cảnh như tôi.
Có vẻ có một số nhất định những thành viên xã hội luôn chòng chọc tìm cơ hội đánh giá và dè bỉu người nghèo vì những cái mà họ cảm thấy chúng tôi không xứng được hưởng. Họ nhìn một người mua miếng thịt ngon bằng thẻ EBT và coi đó làm bằng chứng cho giả thuyết rằng bất kể ai dùng tem phiếu đều như nhau. Chắc chắn có người luôn theo dõi tôi. Có lúc tôi cảm thấy thế ngay cả trong ngôi nhà an toàn của mình. Nếu tôi không làm việc hoặc chăm sóc Mia, tôi sẽ phải chăm sóc một cái gì đó. Tôi có cảm giác ngồi xuống nghĩa là mình không làm đủ - mình sẽ biến thành dạng người lười biếng ăn bám trợ cấp đúng như định kiến xã hội. Nằm dài đọc sách giống như một kiểu nuông chiều bản thân quá đáng - đó gần như một thú vui dành cho một tầng lớp khác. Tôi phải làm việc liên tục. Tôi phải chứng minh giá trị để cho xứng với sự giúp đỡ từ chính phủ.
Nhưng thi thoảng để giải thoát, tôi sẽ hẹn hò với ai đó. Tôi gọi cho một người bạn trai cũ hoặc gặp một ai đó trên mạng, hoặc Jenn anh họ tôi sẽ giới thiệu tôi với ai đó. Trong vài tiếng ngượng ngùng trôi qua, tôi được trở về là con người thời chưa làm mẹ, chưa làm người giúp việc. Nó như một trò giả vờ, có lẽ dành cho tôi hơn là cho người hẹn hò cùng tôi. Tôi biết tất cả những cuộc hẹn hò này đều không thật lòng. Tôi bàn chuyện sách vở, phim ảnh theo cái cách chính tôi nghe còn thấy lạ lẫm. Có lúc, cái cuộc sống khác, tồn tại song song đó là thứ tôi cần để thoát khỏi tôi về mặt tinh thần. Nhưng hẹn hò dần trở nên kém vui, kém thoải mái, khiến tôi càng thêm thấm thía cái cảm giác cô đơn hoặc cô độc. Một tin nhắn không được trả lời, hay một cuộc gọi đi vào thẳng hộp thư thoại nghĩa là người ta đã từ chối - bằng chứng rằng tôi không đáng được yêu. Tôi ghét sự khao khát đó và cũng chắc chắn nam giới cảm nhận được nó, vì nó tỏa ra một thứ mùi hăng hắc. Thêm vào đó, giao tiếp khiến tôi ê chề nhớ ra rằng hầu hết mọi người đều có một cuộc sống bình thường. Họ có thể mua vé đi xem hòa nhạc, đi chơi, đi du lịch, làm tất cả mà không có một đêm mất ngủ. Dù Mia liên tục lôi, kéo tôi và bàn tay dính dấp của con bé luôn nắm lấy bàn tay tôi nhưng tôi vẫn thèm tình thương, thèm một cái động chạm, một tình yêu. Trước đây tôi chưa từng thấy thèm khát những thứ đó. Tôi muốn mình mạnh mẽ và tỏ ra bất cần, nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn luôn cần chúng.
Tôi đang đi trong một con hẻm dẫn sâu vào sự vô vọng. Mỗi sớm mai tôi lại thức dậy cùng nỗi căng thẳng thường trực rằng làm sao đi làm rồi về nhà mà xe không chết máy hỏng hóc gì. Lưng tôi lúc nào cũng đau nhức. Tôi chiêu cái đói bằng cà phê. Tôi có cảm giác mình sẽ không thể thoát ra khỏi cái hố này. Hi vọng thực sự của tôi là nhà trường: Bằng cấp sẽ là tấm vé đưa tôi đến với tự do. Nó phải là thế, hoặc là một sự phí phạm quá nhiều thời gian quý báu. Giống như một người tù, tôi đếm từng ngày cho tới khi hoàn thành đủ tín chỉ để được xét tốt nghiệp. Ba năm nữa. Pell Grant sẽ lo toàn bộ học phí, nhưng không bao gồm sách giáo khoa, nếu các môn học cần. Tôi may ra mua được sách cũ, tài liệu cũ từ Amazon. Tôi sẽ trải qua ba năm đêm trường và những cuối tuần miệt mài sách vở, viết tiểu luận, rồi thi cử. Cuộc đời làm người giúp việc phục vụ người khác này chỉ là tạm thời. Nhiều đêm tôi khóc đến ngủ thiếp đi mất, chỉ biết an ủi mình rằng câu chuyện đời tôi sẽ không kết thúc như thế này.
Thế là tôi dừng việc cố gắng hòa nhập và dành thời gian cuối tuần cho công việc. Tôi nhận thêm một khách hàng mới yêu cầu dọn dẹp bốn tiếng, cộng thêm bốn mươi lăm phút đi lại vào những thứ Bảy Mia ở cùng bố tại Port Townsend. Chủ nhân của ngôi nhà này - Nhà Cuối Tuần - luôn ở nhà, nhưng chúng tôi không quen biết nhau. Cặp vợ chồng trẻ nhà ấy có một đứa con mới vài tuần tuổi. Đợt trước bà nội sống cùng để giúp chăm sóc cháu và khi ra về, bà tặng họ một người đến dọn nhà hai tuần một lần.
Họ không muốn tôi đến dọn dẹp khi họ không có nhà, điều đó cũng ổn thôi, nhưng tôi khó mà vệ sinh sạch sẽ khi họ dùng bàn bếp tôi vừa phủi bụi để làm bánh mì nướng, hoặc đi trên sàn nhà tôi vừa lau. Họ nói chuyện với bạn bè mang con cái tới chơi, cùng nhau ăn uống như thể tôi không tồn tại trên đời.
Vào lần thứ hai đến dọn dẹp, tôi tới và phát hiện cửa khóa trái. Sau khi gõ cửa vài lần, tôi nhòm qua cửa sổ garage và thấy chẳng có ai. Dù bấy giờ là sáng thứ Bảy nhưng tôi vẫn gọi vào số di động của Lonnie.
“Họ không có nhà, Lonnie”, tôi gần như hét lên, cho thấy sự bực bội trước việc khó chịu này. Tôi hiếm khi thể hiện điều ấy ra. “Họ có nói sẽ để lại chìa khóa ở đâu không?”
“Không”, cô nói. “Người mẹ vừa nói với chị rằng họ luôn ở nhà vào ngày cuối tuần. Để chị gọi điện xem sao. Chắc họ chỉ chạy đi đâu đó lo chút việc và sẽ về nhà ngay thôi.”
Vì không được đền bù nên tôi cố không cộng xem việc đi lại tôi tốn bao nhiêu tiền xăng, nhưng chẳng cần nghĩ tôi cũng biết là vào khoảng 10 đô - nhiều hơn tiền công một tiếng của tôi chưa trừ thuế và tiền giặt giẻ lau. Khi Lonnie gọi lại báo là họ quên mất, tôi mím chặt môi bực bội, cố gắng không bật khóc.
“Họ có muốn em quay lại vào ngày mai hay như thế nào không?” Tôi hỏi. “Nếu sớm thì được.”
“Không”, Lonnie nói. Tôi nghe cô thở dài. “Họ hủy lịch.”
Tôi im lặng chừng một phút, Lonnie hỏi tôi còn nghe máy không. “Vâng”, tôi nói. Cô hỏi tôi ổn chứ, tôi đáp rằng không. “Chị giúp em hỏi Pam xem liệu ít nhất em có được trả tiền xăng không. Em đã bỏ ra một tiếng đồng hồ và tiền túi của mình để đến đây. Em cũng không dư dả gì, chị biết mà?” Tôi quệt nước mắt chảy xuống má, cố không để giọng run rẩy. Lonnie nói cô sẽ xem xem có thể làm gì, nhưng tôi từng nghe Pam tâm sự rằng suy thoái khiến công việc bị đình trệ, và họ phải chi li từng khoản phụ phí. Tôi bắt đầu hối hận vì đã hỏi Lonnie.
Hai tuần sau, tôi quay lại dọn nhà họ. Người chồng đến gần khi tôi đặt đồ nghề xuống hành lang. “Tôi rất xin lỗi”, anh ta nói. Tôi gật đầu, lấy một cái giẻ lau nhét vào túi quần sau. “Chúng tôi không hay có người đến dọn dẹp nhà cửa.”
“Không sao hết”, tôi nói và cầm chai nước xịt.
“Đây”, anh ta vừa nói vừa nhét tay vào túi quần, sau đó rút ra hai tấm vé xem trận đấu của đội bóng chày Seattle Mariners. “Vé này là cho trận đấu tối mai.” Anh ta cố dúi cho tôi. “Chị nên nhận lấy.” Trên hai tấm vé có hình những cầu thủ ném bóng hoặc trượt vào điểm ba. Những tấm vé đắt tiền. Những tấm vé cho chỗ ngồi tốt. Hồi bé tôi có đi xem bóng chày, và từng được chứng kiến trận tranh vé vớt năm 1995 khi Ken Griffey, Jr., Edgar Martinez và Randy Johnson* còn chung đội, nhưng sau đó thì không.
Chúng tôi đứng trên chính viên đá lát nền trong hành lang lối vào mà mẹ anh ta đã yêu cầu tôi đánh bóng. Pam đã hướng dẫn tôi cách sử dụng trước khi bỏ máy đánh bóng gạch vào sau xe tôi. Nó đã ở trong đó ba tuần, chiếm mất nửa khoang để đồ của chiếc Subaru. Rõ ràng hôm nay anh ta cũng không muốn tôi xuất hiện, vì người ta đang đi ra đi vào lát lại buồng tắm đứng. Tôi biết chắc chắn anh không thể nào biết tôi đang khó chịu đến mức nào.
Tôi lại nhìn hai tấm vé. Tôi không thể trả nổi tiền xăng và tiền đỗ xe để đi xem bóng được. Tôi nhìn gương mặt mệt mỏi đang cố gượng cười, chiếc khăn tắm cho em bé màu xanh đang vắt trên vai như thể anh ta vừa vỗ cho đứa con mới một tháng ợ hơi sau khi cho ăn xong. Tôi thấy vẻ kiệt sức quen thuộc trong mắt người đàn ông ấy. Anh ta có lẽ có một trải nghiệm khác hẳn tôi khi nuôi trẻ sơ sinh - một căn nhà lớn, những chiếc xe đẹp, đầy đủ xích đu và ghế nhún, những người họ hàng đến cùng đồ ăn thức uống và sự giúp đỡ - nhưng làm bố, anh ta vẫn có hằng hà sa số việc cần làm. Kể cả những việc giống của tôi.
“Không sao đâu”, tôi nói và cố tin vào điều đó, cố không giận anh ta nữa. “Anh có thể dùng vé hoặc cho người nào đó có thể đi. Tôi không đi được đâu.” Tôi muốn nói rằng mình không có đủ tiền mua xăng đi xem bóng, nhưng chỉ sợ anh ta sẽ cho tôi tiền.
“Vậy thì chị cứ bán đi”, anh ta nói và lại chìa hai tấm vé cho tôi. “Chắc chắn sẽ sớm có người mua trên Craiglist thôi. Chúng là ghế hàng đầu mà.”
Tôi nhăn mặt. “Thật sao?” Ghế hàng đầu cho một trận đấu của Mariners. Đó là cơ hội hoàn thành ước mộng tôi có từ hồi còn bằng tuổi Mia. Tôi lại nhìn anh ta. Tôi tự hỏi liệu anh ta có phải kiểu ông bố chịu khó thức dậy giữa đêm để thay bỉm cho con; sẽ vừa bồng con trong bếp vừa đun nước, sau đó ngủ quên trên sofa với một đứa bé sơ sinh nhỏ xíu ngủ trên ngực không. Tôi quyết định anh ta chính là kiểu ông bố đó.
“Được”, tôi nói và nhìn đôi vé. Anh ta chìa chúng cho tôi. Khi tôi nhận lấy, anh ta đặt tay lên vai tôi bóp nhẹ, như thể muốn ôm tôi.
Anh ta nói đúng: Vé rất dễ bán. Buổi chiều hôm sau, tôi đăng rao bán trên mạng. Người mua gặp tôi tại tiệm giặt là Launromat và hồ hởi đưa cho tôi 60 đô.
“Chúng là quà sinh nhật cho con trai tôi”, anh ta nói. “Thằng bé sắp bốn tuổi rồi. Đây là trận đấu bóng chày đầu tiên!”
Tôi mỉm cười và chúc anh ta vui vẻ.