Chương 18 Nhà Buồn
Vào các thứ Bảy và Chủ nhật, Mia và tôi thức dậy đúng giờ như thường lệ, dù chúng tôi chẳng cần đi đâu. Tôi làm bánh kếp, trang trí việt quất tôi hái và ướp lạnh từ mùa hè năm trước lên trên. Tôi ngồi đối diện với con bên bàn ăn, bưng cốc cà phê lên gần mặt, nhìn con bé nghiến ngấu ăn từng miếng. Con bé cười toe toét, việt quất nhuộm xanh môi con. Tôi cười đáp lại, cố giấu nước mắt và thầm ghi nhớ khoảnh khắc ấy để sau này dùng nó để thiền định khi cần. Cuộc sống của chúng tôi trôi qua quá chóng vánh giữa những đảo điên của công việc, bữa ăn và giờ ngủ. Tôi biết con sẽ sớm chán mái tóc ngắn kiểu Ramona Quimby. Chẳng mấy chốc con sẽ không còn thích những món đồ chơi ăn theo bộ phim hoạt hình Pony bé nhỏ mà bây giờ Mia đang xếp thành hình bán nguyệt, đối diện với tô của mình. Mỗi khi thấy nhớ con, dù là lúc đi làm hay khi con bé ở nhà bố nó, tôi sẽ hồi tưởng những khoảnh khắc này. Những khoảnh khắc tôi đã ghi lại.
Tôi bắt đầu viết mỗi khi Mia đi tắm hoặc đang bận gì đó: mười phút đánh máy liên tục bất cứ điều gì nảy ra trong đầu. Có lúc tôi viết vào những sáng cuối tuần, những đoạn văn toàn là những lời hoa mĩ mô tả thời tiết đẹp, những kế hoạch để tận hưởng tiết trời ấy, hoặc những địa điểm bí mật tôi muốn chia sẻ cùng con gái. Những lúc khác tôi lại viết sau khi Mia ngủ, sau một ngày mệt nhoài con bé chống cự với tôi qua từng sự kiện và ngã rẽ. Tôi sẽ cố lôi ra từ kí ức một cuộc nói chuyện ngọt ngào, nhớ lại một mối liên hệ nguyên thủy chỉ có mẹ và con mới có, rồi viết lại. Nó giống một cuốn sổ ghi lại tuổi thơ của Mia hơn là một cuốn nhật kí của tôi. Vài năm sau khi nhìn lại tôi sẽ thấy tôi là một con người phải cáng đáng quá nhiều so với sức lực của một con người. Tôi cũng cần vui vẻ nhớ lại những khoảng thời gian đó, vì con bé lớn rất nhanh. Dù cho chúng tôi có sống ở nơi này, tôi phải làm một công việc tồi tệ, và hai mẹ con chẳng mua sắm được gì nhiều, nhưng những giây phút này đều là một đi không trở lại. Viết lại sẽ giúp tôi trân trọng nó và tạo nên một bức tranh đẹp về cuộc sống, về cuộc phiêu du của hai mẹ con. Tôi nghĩ là nếu được, có lẽ tôi có thể in tất cả thành một cuốn sách cho Mia đọc vào một ngày nào đó.
Chúng tôi yêu thích bãi biển ở Công viên Washington, nằm về phía tây thành phố Anacortes. Mẹ con tôi sẽ ngồi trên bãi đá, đợi thủy triều xuống rồi đi tìm những sinh vật biển trong các vũng nước nhỏ còn sót lại.
“Con cua kìa mẹ!” Mia reo lên. Tôi ngồi xổm, lấy cái xẻng màu vàng ra khỏi xô nhựa đỏ, sau đó cố xúc lấy sinh vật kia để nhìn cho kĩ hơn. “Đừng để nó quắp đấy. Nó sẽ quắp mẹ đấy!” Xa xa, một chiếc phà chạy qua, và chúng tôi thường trông thấy một con rùa cạn, sư tử biển hoặc đại bàng. Tôi bỏ chiếc xe đạp nhỏ của Mia ở trong thùng xe, sau đó dỡ xuống cho con đạp xe trên con đường lát đá mà chẳng nhớ ra nó dài đến hai dặm, và cuối cùng tôi phải tay bồng tay bế cả con lẫn chiếc xe ít nhất nửa dặm còn lại. Trên đường về, chúng tôi sẽ dừng lại bên một quán kem đã ở đó từ hồi tôi còn bé tí. Tôi gọi đó là “Quán Kem Tối”. Mia luôn đòi kem chocolate, và cả mặt con bé sẽ dính nham nháp.
Những ngày cuối tuần khác, tôi sẽ lên mạng tìm một thác nước ít người lui tới, một dòng suối có các hồ bơi. Tôi nhét vào chiếc giỏ có quai da một tấm chăn, một bộ quần áo, một cái khăn tắm, đồ ăn vặt cho Mia và vài phút sau, mẹ con tôi ra khỏi cửa. Chúng tôi chỉ mất duy nhất có tiền xăng xe đi lại.
Đó là những phút giây hạnh phúc nhất, có lẽ vì sự giản dị của nó. Tôi rảo bước đi sau Mia đạp xe ra trung tâm thành phố mua có một quả táo. Nếu chẳng may trời mưa, chúng tôi sẽ ở trong nhà, chơi trò giải đố hoặc xây lâu đài. Có những lúc mẹ con tôi sẽ kéo sofa ra thành giường và tôi để Mia xem bao nhiêu đĩa DVD tùy thích: Đó giống như một buổi ngủ lại nhà bạn nhưng kéo dài suốt hai ngày nghỉ cuối tuần.
Hồi đó tôi không biết, nhưng những cuối tuần đó, quãng thời gian bình yên cùng Mia, lại khiến tôi hoài niệm nhất. Dù vài chuyến đi thất bại thảm hại, kết thúc bằng cơn tam bành và mẹ con tôi như gào thét vào mặt nhau khiến cả hai mệt rũ rượi, nhưng những giờ đó cùng cô bé ba tuổi của tôi thật sự vô cùng quý báu. Con bé đánh thức tôi bằng cách bò vào giường cùng tôi, choàng cánh tay nhỏ bé quanh cổ tôi, hỏi xem hôm đó chúng tôi có thể làm gấu lười không. Bỗng dưng cảm giác đau đớn đến nghiến răng nghiến lợi đã kéo dài cả tuần của tôi bỗng dịu hẳn. Mẹ con tôi như trôi trong một quả bong bóng, chỉ hai người với nhau.
Đó là những lúc duy nhất tôi có thể khiến tâm trí dịu lại, khi tôi không phải lo rằng mình có nên đi làm hay không, hoặc tôi làm việc đã đủ chăm chỉ chưa. Tôi không phải băn khoăn liệu người ta có coi chúng tôi là “những kẻ ăn bám xã hội”, lợi dụng trợ cấp để rồi thong dong ngồi trên một tấm thảm trải trong công viên mà chia nhau những lát phô mai. Tôi chưa từng quan tâm đến chúng khi ở cùng con. Trong buổi chiều đó, chúng tôi là mặt trăng, mặt trời của nhau trong thế giới bé nhỏ của riêng mẹ con tôi.
Đến giữa hè, tôi đã làm việc cho Classic Clean được sáu tháng, và tôi có một lịch làm việc hai mươi lăm giờ một tuần ổn định. Thêm vào đó, tôi tự tìm cho mình một số khách hàng riêng, dọn nhà hoặc sân vườn cho họ chừng đâu một hoặc hai lần mỗi tháng. Bên cạnh những món quà đôi bận đến từ Cô Nghiện Thuốc lá, các khách hàng khác cũng bắt đầu để lại cho tôi những món quà nho nhỏ trên bệ bếp. Henry hay tặng quà cho tôi. Ông biết sau khi rời nhà ông, tôi sẽ đón Mia và chở con đến chỗ bố. Có lần ông cho tôi một hộp bánh vòng, lần khác là một bình nước táo ép của một thương hiệu đắt đỏ.
Sức khỏe của Henry có phần sa sút. Những vỉ thuốc bên cạnh bồn rửa mặt đã tăng gấp đôi và đánh giá từ tình trạng toilet thì chúng rõ ràng khiến dạ dày ông khó chịu. Vợ ông dạo này thi thoảng cũng ở nhà, nhưng chủ yếu là dành thời gian nghe điện thoại, tranh cãi với các công ty bảo hiểm hoặc mẹ mình - như tôi thấy, hình như mẹ bà đã phải chuyển sang một trung tâm dưỡng lão khác. Tôi thích nhìn hai vợ chồng họ bên nhau, vẻ nghiêm nghị của Henry sẽ chuyển thành hiền lành mà tôi mong ước có ở người bạn đời của mình. Ông pha trà cho vợ. Họ bàn xem tối nay ăn gì. Henry nói ông sẽ “làm món này” bà thích, và bà sẽ ôm ông thật chặt trước khi ra ngoài. Bà luôn tạm biệt tôi, luôn thân thiết gọi tên tôi khiến tôi đôi khi mong mỏi mình cũng sẽ nhận được một cái ôm.
Tôi cố gắng mang theo những kí ức đó vào những ngày dọn dẹp Nhà Sách Cấm. Ngôi nhà ấy bốc lên thứ mùi hăng hắc của sự bực dọc, hoặc bất mãn. Tôi không thích nơi đó. Một tờ giấy nhớ để trên bệ bếp chỉ vỏn vẹn, “Làm ơn thay ga giường”. Ít nhất thì cô vợ cũng nói làm ơn.
Gần Ngày của Cha, tôi đã cãi vã ầm ĩ với Jamie, đúng lúc tôi đang dọn Nhà Sách Cấm. Kể từ ấy, hễ ở trong ngôi nhà này là tôi lại nhớ đến anh ta dù cho có cố gắng cắt bỏ sự liên hệ tới mức nào đi chăng nữa.
Chúng tôi đã tranh cãi về họ của Mia. Tôi muốn con đổi sang họ tôi. Con bé đã đi học và mỗi lần tôi đưa con đi khám, bác sĩ lại hỏi tôi có phải mẹ của Mia không. Để con theo họ bố thật chẳng ra làm sao khi con bé sống với tôi gần như toàn bộ thời gian.
Jamie cực lực phản đối. Anh ta bảo tôi chẳng chịu bỏ ra chút thời gian nào cho con, rằng hầu hết những ngày của con bé trôi qua trong “cái nhà trẻ đáng ghê tởm đó”. Tôi hối hận vì đã để mẹ anh ta đón Mia vào ngày tôi phải làm việc đến muộn và kể từ đó, Jamie luôn sử dụng ý kiến đánh giá của bà để chặn họng tôi. Nhưng trong mắt anh ta, tôi cũng chưa từng làm được trò trống gì. Nếu tôi ở nhà hoặc làm việc ít đi, anh ta sẽ đổ cho tôi tội lười biếng, nói rằng tiến trợ cấp nuôi con của anh ta được dùng để tôi nằm ươn xác ra đó. Nếu tôi đi học thì nghĩa là tôi đang lãng phí thời gian. Giờ thì hẳn rồi, đi làm cũng là xấu.
Hôm đó qua điện thoại, anh ta đã bảo rằng, “Và cô chưa từng chúc tôi một Ngày của Bố vui vẻ.” Tôi sắp sửa dọn xong nhà bếp và đã đánh sạch những vết nhờn trên bệ bếp lát gạch đỏ.
“Cái gì?” Tôi hỏi dù không hẳn là hỏi. Jamie chưa từng chúc tôi một Ngày của Mẹ vui vẻ bao giờ. Anh ta chưa từng khen ngợi tôi là người mẹ tốt. Jamie chỉ “khen” tôi giỏi chọc tức và thao túng anh ta làm theo ý mình. Ngay cả vào mùa hè mà chúng tôi đang hẹn hò, hình như Jamie cũng chưa từng khen tôi xinh đẹp. Hồi tôi mang bầu, anh ta đã đôi lần chê tôi xấu, và đặc biệt càng hay dè bỉu sau khi Mia chào đời.
“Cô chưa từng khen tôi là một ông bố tốt”, anh ta nói.
“Jamie, đó là vì anh không tốt”, tôi nói. “Anh trách cứ mọi người xung quanh vì tất cả mọi chuyện. Anh chưa từng chịu cáng đáng trách nhiệm. Mọi chuyện luôn là lỗi của người khác. Điều đó sẽ dạy được cho Mia gì nào? Anh sẽ dạy gì cho con bé?” Tôi với lên quét ngọn đèn chùm bên trên bàn ăn.
“Tôi sẽ dạy Emilia rất nhiều!” Anh ta nói và lại khiến tôi tự hỏi có phải mọi người ở Port Townsend vẫn gọi Mia là Emilia không. Anh ta không chịu gọi con là Mia vì đó là biệt danh do tôi đặt. Tôi cố gắng giải thích rằng chính con tự gọi mình như thế, và con từng dỗi vì tôi gọi tên cúng cơm của con ra. Có một thời gian anh ta cố dụ con bé dùng biệt danh gì đó nghe giống Mila nhưng chẳng ăn thua. Mỗi lần anh ta gọi con là Emilia, tôi đều thầm băn khoăn liệu có thể nào con tự động thay đổi nhân dạng khi ở Port Townsend hay chăng.
“Jamie, anh còn chẳng biết bơi”, tôi nói. Thật lạ khi tôi dám ăn nói kiểu đó với anh ta. Làm việc toàn thời gian và tự lo liệu tất cả đã tiếp thêm cho tôi sức mạnh. Tôi không còn chấp nhận để anh khiến tôi thấy tồi tệ về bản thân. “Nếu con bé mang bài tập toán về nhà thì sao? Hay phải viết một bài luận? Anh sẽ giúp con thế nào?”
Tôi không định chọc ngoáy gì. Đó là những quan ngại thật sự. Jamie luôn nói về chuyện đi học để lấy chứng chỉ GED, hoặc hứa hẹn là mùa hè đó sẽ học bơi nhưng cuối cùng thì anh ta chẳng làm gì cả. Thay vào đó, anh luôn viện cớ hoặc bịa ra một câu chuyện bát nháo rằng vì tất cả là do mẹ mà anh ta phải giúp nuôi em trai ăn học. Giờ thì tất cả là lỗi của tôi khi bắt anh ta phải làm cha, bước vào chương đời mà anh ta không hề mong muốn.
“Tôi biết tôi là ông bố tốt”, anh ta nói. Tôi có thể tưởng tượng ra Jamie đứng đó vỗ ngực, có lẽ còn nhìn vào gương. “Tôi biết vì con bé cần tôi.” Tôi nghe thấy anh hít một hơi. À, anh ta đang ở ngoài trời, vừa hút thuốc lá vừa đi đi lại lại.
Tôi đang đi lại giữa phòng khách và phòng ngủ với cây chổi lông gà trong tay, Tôi đã từng thấy anh ta xị mặt, giả bộ khóc tới khi Mia quay sang ôm anh ta lần cuối mỗi khi tôi đến đón con. “Anh thao túng con để con phải cần anh.”
Jamie nổi quạu. Tôi biết thừa những lời huênh hoang rỗng tuếch và chửi bới của anh ta. “Mọi người trong thành phố đều nói cô là đồ thất bại chết giẫm”, anh ta nói. “Cô chỉ biết ỉ ôi trên mạng, trên Facebook và trên cái trang web ngu ngốc đăng nhật kí của cô. Cô không có bạn bè thật sự. Chẳng ai thèm yêu cô và bộ ngực chảy xệ của cô hết.”
Nghe đến đó, tôi cúp máy. Chuyện luôn tệ đi khi anh ta bắt đầu mất kiểm soát. Anh ta luôn chê bôi tôi quá béo, quá xấu xí, hoặc quá gầy gò, hoặc quá cao. “Bộ ngực chảy xệ” thì là từ mới, “Chẳng ai thèm yêu cô” là câu cửa miệng của anh ta. Tôi biết Jamie sẽ cong môi như đang cười khi nói thế và tôi có thể tưởng tượng ra điệu bộ ấy kể cả khi nói chuyện điện thoại. Hồi tôi còn sống cùng anh ta, anh ta hay gọi đay nghiến tôi là “đồ điên khùng dốt nát” hoặc “con dở”, nhưng giờ anh chỉ dùng những từ đó khi thực sự muốn làm tổn thương tôi.
Tôi dọn xong buồng tắm của Nhà Sách Cấm rất nhanh, nhờ kì cọ trong lúc giận dữ. Sau khi bò toài ra lau sàn nhà và đợi khô, trước khi tiếp tục xử lí mấy tấm thảm chùi chân trước toilet và bồn rửa, tôi đứng ngoài hành lang lấy hơi. Trên bức tường bên phải cánh cửa có treo những tấm chân dung hai vợ chồng chụp trong studio, cả hai đều nhìn về cùng một hướng, đôi mắt sáng lấp lánh giống hệt nhau.
Tôi bước qua ngưỡng cửa phòng ngủ. Nếu nhìn nhận theo một vài cách nào đó thì đây khá gần với cuộc sống mà tôi hằng mong muốn - một ngôi nhà nhỏ có khoảng sân rộng. Nó không cần phải là một tòa biệt thự trên cao nhìn ra đại dương, nhưng nếu nó nằm giữa một mảnh vườn và vài cây đại thụ thì thật tuyệt. Tôi chú mục nhìn lọ dầu bôi trơn trên tủ đầu giường cạnh đồng hồ báo thức và không thể không tự hỏi chuyện quan hệ vợ chồng giữa họ có diễn ra thường xuyên không.
Nhưng có lẽ đó chỉ là cuộc sống tôi cho rằng mình mong muốn, chứ cuộc sống tôi thực sự mơ ước lại là ở Nhà Buồn kế bên. Ngày hôm ấy sau khi tranh cãi với Jamie, tôi dọn vệ sinh Nhà Buồn lần đầu tiên sau vài tháng. Ông bị ốm. Hoặc đang nằm viện. Hoặc cả hai. Theo như tôi thấy, người đàn ông đó đã kết hôn với tình yêu của đời mình. Nhà Sách Cấm và Nhà Buồn có lẽ đã nêu lên hai bài học trái ngược về cuộc sống, để minh họa rằng dù cho hoàn cảnh thế nào thì tất cả chúng ta rồi sẽ đều cô độc theo cách này hay cách khác. Người chồng trong Nhà Sách Cấm thì “tự sướng” khi vợ làm ca đêm hoặc đọc tiểu thuyết diễm tình ở phòng khác. Còn người đàn ông này thì góa vợ.
Tôi bỗng thấy cô đơn cũng không còn quá đáng sợ. Mia và tôi đã trở thành một đội. Tôi thích cảm giác không phải lo lắng sắc mặt của cái người lớn còn lại đang sống cùng mẹ con tôi, không cần biết người đó đang vui hay buồn. Tôi không phải hỏi xem người ấy muốn ăn gì. Mẹ con tôi có thể ăn kem vào bữa tối mà không phải lo người ở nhà sẽ thấy bị ra rìa hay đánh giá tôi là bà mẹ tồi.
Căn hộ studio có nhược điểm, nhưng đó là không gian của chúng tôi. Tôi có thể sắp xếp đồ đạc theo bất cứ kiểu nào mình muốn, vào bất cứ lúc nào. Tôi có thể kệ thây cho nó bừa bộn hoặc sạch bong kin kít. Mia thoải mái múa may quay cuồng và nhảy từ sofa xuống sàn mà không sợ bị ai nạt phải yên lặng. Khi bắt đầu làm công việc dọn dẹp nhà cửa, tôi những tưởng mình thèm thuồng hoặc ghen tị với cuộc sống của các chủ nhà. Nhưng không: Cuối ngày, tôi trở về nơi tôi không chỉ gọi là nhà, mà nó còn bắt đầu cho tôi cảm giác của một mái ấm. Đó là cái tổ nho nhỏ mà từ ấy, một ngày nào đó chúng tôi sẽ cất cánh bay xa.
Khi đã dọn xong Nhà Sách Cấm, tôi cố chuyển toàn bộ đồ nghề sang Nhà Buồn trong một chuyến. Ngoài trời ẩm ướt và có mưa bay. Thời tiết này rất thuận lợi cho rêu mốc phát triển. Thời tiết khiến da tôi nổi gai ốc vì mốc sương hoặc rêu đen.
Tôi kéo cánh cửa trượt bằng ngón út vì tay đang bưng khay đồ nghề. Cửa dẫn vào nhà bếp và vừa vào tôi đã ngửi thấy mùi mùn cưa và kem bôi sau khi cạo râu quen thuộc của Nhà Buồn. Tôi vừa định đặt khay xuống thì quay lại và hét lên.
Gương mặt ông đầy những vết thương hở. Tôi ngay lập tức hối hận vì đã hét. Tôi muốn khóc. Ông chưa từng ở nhà khi tôi dọn dẹp, và tôi chưa hề gặp ông một lần nào. Và giờ tôi lại hét vào mặt ông, đẩy những bằng chứng hiển nhiên cho thấy ông đã phải xoay xỏa vất vả đến thế nào.
“Cháu rất, rất xin lỗi”, tôi nói mà suýt đánh rơi cái khay, túi vải đựng khăn lau và một túi rác đầy những miếng giẻ đã dùng rồi.
“Không, bác xin lỗi đã làm cháu giật mình”, ông nói. “Sáng nay bác dậy muộn. Bác sẽ không làm vướng tay vướng chân cháu đâu. Bác đang định ra ngoài.”
Tôi tránh khỏi cái cửa trượt để ông đi qua. Cả hai chúng tôi đều không tự giới thiệu hay bắt tay nhau. Tôi nhìn ông đi vào cửa ngách của garage. Từ cửa sổ, tôi nhìn theo chiếc ô tô hiệu Oldsmobile màu be rời khỏi lối đánh xe và dần dần khuất dạng. Tôi tự hỏi ông đi đâu, ông thấy mình cần phải đến đâu trong vài giờ kế tiếp.
Bếp vẫn vậy, chỉ có thêm vài chiếc đĩa trong bồn rửa và bệ. Quầy bar ở cuối có những bìa thuốc, hướng dẫn dùng thuốc và giấy xuất viện. Khi gọi điện báo tôi đến dọn dẹp Nhà Buồn vào tuần này, Lonnie đã nói rằng người phụ nữ ở Nhà Sách Cấm đang chăm sóc ông - có lẽ vì cô là y tá, hoặc vì ông không còn ai khác.
Chăn được kéo ra như thể ông đã để nguyên như thế khi thức dậy sáng hôm ấy. Bên kia giường vẫn gọn gàng, gần giống hệt như tôi đã sắp xếp vào lần trước, gối trang trí vẫn ở nguyên chỗ cũ. Ga trải giường lấm tấm máu khô. Tôi kéo hẳn chăn xuống và cẩn thận tháo ga giường dồn vào giữa, sau đó tháo vỏ gối, nhét tất cả vào một vỏ. Trên đường đi bỏ chúng vào máy giặt, tôi qua phòng tắm. Có vài giọt máu trên sàn, một tay vịn mới được lắp cạnh toilet và trong buồng tắm hoa sen, cộng thêm một cái ghế ngồi trong bồn tắm.
Trước khi qua đời, người vợ có thú vui sưu tầm đá, lồng chim và tổ chim, đặt chúng trên các cửa sổ trong phòng khách. Hai vợ chồng hay đi du lịch Trung hoặc Nam Mỹ. Người vợ lúc sinh thời là giáo viên. Tôi hình dung bà mang những con búp bê nho nhỏ hoặc đồ mĩ nghệ từ những lần đi du lịch về để trang trí lớp học hoặc khoe với đám học trò. Tôi băn khoăn tự hỏi có phải bà dạy tiếng Tây Ban Nha không.
Nhà Buồn có vẻ từng là một ngôi nhà nghỉ dưỡng, hoặc một tổ ấm vào thời chưa trống trơn với những căn phòng buồn bã, tang tóc thiếu bóng dáng con trẻ như bây giờ. Họ có hai người con trai. Một đã qua đời, còn người kia cũng sống trong vùng này nhưng có vẻ chẳng bao giờ đến thăm bố. Tôi thường tự hỏi có phải ông mất cả hai người thân cùng lúc, hoặc giả vợ và con ông chết trong một vụ tai nạn, và nỗi đau buồn đã khiến ông xa cách người con trai còn lại. Tôi hình dung ra câu chuyện dựa trên những đồ vật tìm thấy quanh nhà - những bức hình, những dòng chữ viết vội trên giấy, một tấm thẻ được đóng khung họa hình một người nam và một người nữ trần truồng nắm tay nhau kèm theo dòng chữ: “Quy định: Tiết kiệm nước. Tắm chung.’‘ Nhà Buồn dường như đóng băng trong dòng thời gian - những dự án dang dở, những đồ mĩ nghệ vẫn nằm chờ trong buồng đợi được treo lên tường. Danh sách những dự án của người vợ vẫn được ghim trên tấm ván gỗ trong nhà bếp, nhưng chất giấy đã ngả vàng. Lắp vòi nước mới. Sửa then cài cổng. Tôi tưởng tượng bà nhổ cỏ khỏi những chậu hoa ngoài nhà, sau đó đi vào lấy đồ uống trong bếp, tu cạn trước khi tiếp tục làm việc. Bên dưới đó là một tờ biên lai bà kí nhận thuê người làm vườn. Nhưng không đề ngày.
Khoảng hết phần nửa thời gian làm việc sáu tiếng, tôi thở dài thườn thượt và móc một bình xịt vào túi quần. Tôi xịt một ít nước giấm vào một cái giẻ và nhét vào túi quần còn lại để lau bụi. Sau đó tôi lấy một tấm giẻ khác để lau bất cứ thứ gì cần được xịt vệ sinh. Chỉ có điều Nhà Buồn chưa bao giờ bẩn thỉu.
Thuốc đủ loại trong phòng tắm dường như tăng lên theo mỗi lần tôi đến dọn dẹp. Tôi bỏ chúng sang chỗ khác để lau cái bệ bên dưới trước khi quay sang lau bồn tắm. Có một cái giá đan bằng cành liễu gai. Lần đầu tiên thì tôi mở những hộp đựng tro cốt chủ yếu vì là tò mò. Từ đó trở đi tôi không thể nào ngăn mình thi thoảng lại xem xem chúng còn đó hay không. Tôi tự hỏi ông có đi rắc một phần tro cốt, hay giữ lại tất cả. Tôi băn khoăn liệu ông có thấy an lòng khi giữ chúng ở đó, ngay phía sau lưng, trong lúc chải đầu không.
Trên quầy bar bên cạnh bếp, những chồng ảnh bị những giấy tờ bệnh viện làm khuất lấp phần nào. Tôi tìm bằng chứng trong những bức ảnh, nghĩ rằng mình sẽ thấy một cái gì đó khác. Nhưng họ vẫn vậy - vẫn những con người đứng bên bếp nướng thịt bò và cá, người đàn ông của Nhà Buồn đứng kiêu hãnh bên những đứa con mặc đồ màu đỏ, trắng và xanh lam đang giơ cao cây pháo bông. Tất cả đều cười rất tươi, nhưng người đàn ông trông rạng rỡ hơn cả, hệt như đứa trẻ giơ con cá đầu tiên mình câu được. Tất cả những đồ trang trí và ảnh chụp đều cho thấy một con người đã hoàn thành Giấc mơ Mỹ. Nhưng đến phút cuối đời, ông lại cô đơn.
Ông chưa từng để lại thư nhắn hay thiệp trên bàn cho tôi. Tôi cũng không mong chờ, hoặc thảng nghĩ ông cần phải cho tôi tiền boa hay tiền thưởng. Suy nghĩ đó thật lạ lẫm đối với tôi, nhưng người đàn ông này lại cho tôi một món quà khác. Nhà Buồn khiến tôi có cách nhìn khác đối với không gian nhỏ bé của tôi và Mia, về căn phòng chúng tôi ở: Tôi đã coi đó là tổ ấm tràn ngập yêu thương vì có chúng tôi lấp đầy nó. Dù chúng tôi không có xe đẹp, nhà sang trên một ngọn đồi trên bãi biển, nhưng chúng tôi có nhau. Tôi thích có con bầu bạn, chứ không phải sống một mình trong một nơi đong đầy kí ức về con. Sự chống chọi của tôi với nỗi cô đơn, thèm có người đồng hành vẫn làm tôi day dứt, nhưng tôi không đơn độc. Mia đã cứu tôi.