Chương 19 Nhà của bà Lori
Mùa hè bắt đầu tàn, mặt trời chầm chậm lặn xuống và điểm tô những buổi chiều tối trong căn hộ của mẹ con tôi với những sắc hồng, cam và tím thay cho cái nóng khiến ga giường chúng tôi ướt đẫm mồ hôi. Mia lại bắt đầu đi ngủ từ chín giờ, để tôi một mình bên chiếc bàn bếp nho nhỏ. Trong những đêm như thế, tôi nghe tiếng xe chạy trên đường cao tốc và những cậu con trai hàng xóm nói chuyện ở khúc quanh dưới nhà, khói thuốc lá luồn vào các ô cửa sổ. Tôi ngồi đó, mệt mỏi đến không buồn đọc sách, với thời gian biểu đặt trước mắt, cố gắng ghi nhớ toàn bộ 20 khách hàng yêu cầu tôi dọn dẹp từng tuần, cách tuần và cách tháng. Hầu hết đều cần ba tiếng dọn dẹp, và tôi thường vệ sinh hai và đôi khi là ba nhà mỗi ngày.
Là một người mẹ đơn thân ba mươi hai tuổi có vài hình xăm trên người, tôi chưa từng có cảm giác Mia và tôi dễ dàng quen thân với hàng xóm. Mia đòi mặc bộ đồ con khỉ hoặc váy xòe liên tiếp vài ngày, đầu tóc rối bù như tổ quạ. Đi trong các cửa hàng tạp hóa, mẹ con tôi trông đối lập rõ ràng với những bà mẹ nội trợ chỉn chu. Đi qua họ trong khu bán ngũ cốc, tôi thường trộm nhìn chiếc nhẫn cưới đính viên đá lớn lấp lánh của họ, nhìn lũ trẻ ngoan ngoãn đi cùng, quần áo chỉnh tể, mái tóc được buộc gọn túm đuôi gà hoặc kẹp từ buổi sáng.
Nhưng có một người phụ nữ đã nhìn tôi và gương mặt bừng lên một nụ cười ấm áp. Tôi nhận ra đó là một người bạn cũ của mẹ, nhưng không tài nào nhớ nổi tên. Bác ấy hỏi chúng tôi hiện giờ thế nào và đang sống ở đâu. Nghe tôi kể, bác ấy hỏi có phải Mia đi học nhà trẻ ở đằng sau Madison - một ngôi trường tiểu học nơi tôi đã theo học vài tháng hồi lớp Hai trước khi cùng gia đình chuyển đến Alaska không. Tôi lắc đầu.
“Con bé không có nhiều lựa chọn về nhà trẻ”, tôi nói, chờ đợi vẻ bối rối hiện lên trên gương mặt bác ấy rồi mới thủng thẳng giải thích. “Nhà trẻ đó phải chấp nhận trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ của chính phủ, mà trường tư thường không chấp nhận.” Tôi đã gọi điện tới các trường Montessori và những trường tư thục khác, để nghị trả học phí bằng việc dọn dẹp nhưng không trường nào chấp nhận. Được học tại một môi trường toàn diện hơn như trường mẫu giáo, chứ không phải nhà trẻ, Mia sẽ phát triển tốt hơn. Tôi cố đền đáp bằng cách đọc truyện cho con ít nhất ba mươi phút mỗi tối.
“Nhà trẻ của bà Judy được điều hành bởi tổ chức YMCA, và bác chắc chắn là họ chấp nhận trợ cấp của chính phủ”, người phụ nữ nói.
“Bà Judy?” Tôi hỏi, bế Mia lên sau lần thứ ba con bé cố trốn trong váy tôi. Người phụ nữ nhẹ nhàng vuốt má Mia, nhưng Mia quay đi và gục mặt vào vai tôi.
“Bà ấy điều hành nhà trẻ. Bà ấy thực sự giống như một người bà của lũ trẻ”, người phụ nữ bảo. “Các con bác thi thoảng vẫn ghé thăm bà ấy. Trung tâm nằm trong một căn nhà phụ đằng sau trường tiểu học, nhưng bà Judy tuyệt vời đến nỗi lũ trẻ có cảm giác như được đến nhà bà ruột của mình ấy.”
Một tuần sau, bà Judy quả là giang rộng vòng tay yêu thương chào đón chúng tôi. Trong buổi gặp mặt đầu tiên, bà kéo tôi vào văn phòng riêng để chúng tôi có thể ngồi làm quen với nhau. Có thể hôm ấy là một ngày khó chịu đối với tôi, hoặc vào lúc đó tôi cảm thấy tuyệt vọng và u uất, nên khi ngồi trong văn phòng của bà tâm sự về cuộc sống thường nhật, tôi bắt đầu khóc. Judy đưa cho tôi một tờ khăn giấy và nói, “Cháu là một bà mẹ tuyệt vời. Bà biết. Và chỉ cần gặp thôi là bà biết ai người mẹ tốt.” Tôi nhìn bà, khịt mũi và bỗng nhận ra trước nay chưa từng ai nói với tôi như vậy. Chỉ cần những lời đó đã khiến tôi cảm thấy bà Judy như một người thân của mình.
Vì Mia đã ở trong một môi trường tốt, tôi thấy dễ chịu hơn khi phải chia xa con để đi làm. Tôi dọn dẹp nhiều nhà nhất trong khả năng của mình, còn lúc nào không làm cho công ty thì tôi sẽ dọn dẹp nhà của các khách hàng riêng, với tiền công cao gấp đôi mức Classic Clean trả. Trong một tháng hè đó, tôi thanh toán được tất cả các hóa đơn. Mia và tôi là cặp song ca không gì có thể chia cắt luôn nghêu ngao hát bài Perpetual Self của Sufjan Stevens hoặc là bài Ố ồ như Mia gọi. Mọi thứ đều đã mất! Ố ồ Chúng tôi coi đó là bài hát vui vẻ chào buổi sáng và luôn luôn lắng nghe trước khi đến nơi cần đến: Nó giúp tâm trạng chúng tôi tốt lên trông thấy. Chúng tôi có lịch trình của mình. Mùa thu đến, tôi lên dây cót tinh thần đón nhận một loạt các khóa học trên mạng, biết trước là sẽ thường xuyên mất ngủ. Tôi uống những cốc cà phê đầy vào buổi tối để có thể hoàn tất bài tập về nhà. Vào các ngày cuối tuần, tôi lại ôn tập. Khi năm học bắt đầu, tôi biết mình sẽ kiệt sức, nhưng đối với tôi, học hành là quan trọng nhất. Công việc đó sẽ giúp chúng tôi có được nhiều thứ.
Pam và Lonnie ước tính thời gian dọn dẹp một căn nhà theo tốc độ của họ. Nhưng họ là những người phụ nữ trung niên và không còn thon gọn lắm nên so với họ, tôi giống như ninja. Sau vài tháng làm việc toàn thời gian, tôi phải dùng đến thắt lưng quần. Tôi không tăng cân dù có cố gắng thế nào đi nữa. Nếu tôi dọn xong một căn nhà nhanh hơn quỹ thời gian cho phép, họ sẽ yêu cầu tôi làm chậm lại. Nếu khách hàng đột nhiên cần trả công ít hơn ban đầu vì tôi dọn dẹp nhanh, họ sẽ mong muốn tiền cứ ít như thế mãi. Tôi phải giữ nguyên thời gian dọn dẹp cho công bằng với bất cứ ai sau này có thể thay thế tôi.
Với một vài căn nhà, điều đó cho phép tôi có thời gian nghỉ giải lao và lật giở dăm ba cuốn sách trên kệ đầu giường hoặc bàn bếp. Tôi bắt đầu tìm kiếm nơi người ta giấu rượu, chocolate, những túi hàng hóa suốt mấy tháng rày chưa được mở ra. Tôi bắt đầu muốn tìm hiểu xem người ta đối mặt với sự đời như thê nào. Tôi rình mò vì chán, và đó dần trở thành một cơ chế đối phó với đời của riêng tôi.
Tôi bắt đầu thích những căn nhà không tiếng vọng vì trống trải. Tôi trân trọng những sáng thứ Sáu cùng Henry. Tôi chưa từng tọc mạch trong những ngôi nhà mà tôi không bị coi như kẻ vô hình, nơi tên tôi là Stephanie chứ không phải dịch vụ dọn vệ sinh hay thậm chí “NGƯỜI GIÚP VIỆC” trong lịch. Và tôi không bao giờ lục lọi đồ đạc của những khách hàng riêng, không do Classic Clean phân công. Chúng tôi tôn trọng lẫn nhau và dần dà một số đã trở thành bạn bè của tôi. Việc rình mò cũng giống như khám phá các manh mối, tìm ra bằng chứng về cuộc đời bí mật của những con người tưởng như đã có trong tay tất cả. Dù giàu có, sở hữu căn nhà hai tầng như trong giấc mơ Mỹ, những phòng tắm có bồn đá cẩm thạch, phòng làm việc với những ô cửa sổ nhô ra ngoài thu lấy toàn cảnh đại dương - cuộc sống của họ vẫn khiếm khuyết. Tôi trở nên hứng thú với những thứ ẩn trong góc tối và các cuốn sách kĩ năng để họ nuôi hi vọng. Có lẽ họ chỉ sở hữu những hành lang dài hơn và phòng để đồ rộng hơn hòng che giấu những thứ khiến họ khiếp sợ.
Nhà của bà Lori được xây dựng chỉ để dành cho bà và những người biết cách chăm sóc cho chứng bệnh múa giật Huntington của bà. Bà dành phần lớn thời gian trong ngày trên chiếc ghế nệm đối diện với tivi. Bà không nói được nhiều, nhưng những người chăm sóc dường như vẫn hiểu được. Tứ chi của bà có “trí óc” riêng của chúng, chân bà thi thoảng lại đá thẳng lên cao. Những người chăm sóc cho bà ăn, tắm giặt và giúp bà vào phòng tắm. Khi tôi phủi bụi tivi và các giá sách để đầy những ảnh, Lori quan sát tôi bằng đôi mắt đen ngập tràn hoảng hốt.
Cứ mỗi thứ Ba cách tuần, tôi lại dành sáu tiếng ở nhà bà. Đó là một căn nhà lớn do một tay chồng bà thiết kế: Ông có một căn phòng áp mái trên tầng để ông nghỉ ngơi vào hầu hết các ngày cuối tuần. Lori được một đội ngũ hộ lí thay phiên chăm sóc, nhưng Beth luôn có mặt vào những ngày tôi đến dọn dẹp. Cô mời tôi cà phê và dù tôi hiếm khi nhận nhưng chúng tôi hay nói chuyện phiếm.
Vào một buổi sáng trước lần dọn nhà Lori lần thứ hai hay thứ ba gì đó, đầu DVD Travis mua cho Mia làm quà sinh nhật bị hỏng. Mia bắt đầu khóc và đá bay nó trên xe. Chúng tôi dựa vào nó trong những chuyến xe kéo dài vài tiếng đồng hồ. Tôi nghe Elmo hát về tai và mũi* dễ phải đến một trăm lần. Khi tôi tới nhà Lori vào sáng hôm đó, tôi mất kiểm soát và vội vàng đưa toàn bộ đồ nghề vào nhà vệ sinh lớn, còn rộng hơn cả căn hộ của tôi.
Tôi ở trong đó để trốn Beth trong lúc đợi tâm trạng dịu lại. Đây là không gian duy nhất ở tầng một có cửa. Bồn tắm có các ô cửa sổ xung quanh, và tôi phải vào trong bồn tắm để lau các bậu cửa. Mày còn không thể mua nổi một cái đầu đĩa mới bắt đầu văng vẳng trong đầu tôi, mạnh mẽ và dữ dội. Cơ thể tôi co lại và tôi ngồi đó, thở dốc, tay ôm đầu gối và đu đưa người. Đầu DVD có giá chưa đến 100 đô, nhưng tôi không đủ tiền mua một cái mới. Suy nghĩ đó mở đầu cho một vòng xoáy tất cả những thứ khác tôi không thể cho con gái tôi: một ngôi nhà tử tế, một gia đình, phòng riêng, tủ chạn đầy đồ ăn. Tôi ôm đầu gối chặt hơn, không buồn lau nước mắt và bắt đầu thì thầm mật ngữ để ngăn dòng chảy sợ hãi tiêu cực đang bủa vây. Để an ủi, để ngừng dòng xoáy kéo tôi xuống sự tột cùng sợ hãi.
Tôi yêu bạn. Tôi ở đây vì bạn. Tôi yêu bạn. Tôi ở đây vì bạn.
Hồi tôi còn là người vô gia cư, một chuyên viên tâm lí đã gợi ý cho tôi về mật ngữ; hồi đó nó chỉ là những cụm từ như “không ai chết vì hoảng hốt cả”, hoặc hình dung ra con gái ngồi xích đu và điều hòa nhịp thở theo nhịp quả lắc. Không cái nào có tác dụng. Trí óc tôi cần được biết là có người ở đó để khiến mọi chuyện tốt đẹp hơn. Mùa hè đó, tôi quyết tâm rằng người đó nhất định phải là tôi, chứ không phải một người đàn ông hay một người thân nào hết - chỉ là tôi mà thôi. Tôi phải ngừng hi vọng có một người sẽ xuất hiện và yêu thương tôi. Tôi phải tự yêu lấy mình, đương đầu với mọi giông gió của cuộc đời.
Sau buổi sáng với sự kiện đầu DVD bị hỏng ấy, cứ mỗi khi vệ sinh bồn tắm của Lori là tôi lại nhớ đến tôi của ngày hôm ấy, lắc lư và thì thầm, đợi nhịp thở ổn định lại. Đôi lúc tôi đứng nhìn cái bóng ma ấy - phiên bản ngày xưa của mình - với một sự đồng cảm, như của một bản ngã chín chắn hơn, thông thái hơn, đưa ra một cử chỉ dỗ dành quan tâm. Tôi cũng học được cách nhìn thấy một bản thân thông thái hơn trong những phút giây hoảng hốt. Con người mười năm sau đã vượt qua địa ngục này. Tôi chỉ cần tin rằng cô ấy có tồn tại.
Một ngày thứ Ba, tôi gọi cho Pam đề nghị chia việc dọn dẹp nhà Lori ra thành hai ngày, hoặc tuần này chỉ dọn ba tiếng thôi. Mia bị ốm đã vài ngày vì bị viêm xoang và biến chứng thành đau mắt dỏ. Tôi không thể đưa con đến nhà trẻ, lại chẳng thể nghỉ thêm một ngày làm nào nữa. Sáng hôm đó tôi gọi cho Jamie nhờ anh ta chăm sóc con vài ngày. Tôi định đưa con bé tới trung tâm chăm sóc khẩn cấp trước, sau đó lái xe tới nơi hẹn với Jamie tại bến phà, sau đó sẽ quay lại nhà Lori để dọn dẹp tới tối muộn.
Mia và tôi chia nhau cái giường đôi, một điều không lí tưởng lắm kể cả khi con khỏe mạnh. Con bé ngủ rất hỗn, hay đá chân, quăng tay, có khi đấm vào mắt tôi. Trong vài ngày qua, cái mũi nghẹt, cơn sốt và sự khó chịu đã khiến con thi thoảng khóc lóc tỉnh giấc giữa đêm và đòi được vỗ về. Tôi đã vài ngày không được ngon giấc.
Từ hồi trở thành mẹ đơn thân, tôi hay gọi những giai đoạn như thế trong cuộc sống là “một cấp độ kiệt sức mới”. Hầu hết mọi ngày của tôi đều trôi đi như con thuyền chết máy qua màn sương dày. Có những khi sương sẽ tan ra một chút: Tôi có thể nhìn, có thể suy nghĩ, có thể cười đùa và cảm thấy được là chính mình trong một buổi chiều. Không có nhiều khoảnh khắc như thế từ hồi mẹ con tôi nương tựa vào nhau. Từ hồi chúng tôi trở nên tứ cố vô thân. Từ hồi tôi phải hằng ngày chiến đấu để không phải trở lại chốn ở tạm đó. Nhưng tôi âm thầm chuẩn bị tinh thần cho một cấp độ mới - thêm việc học hành vào núi thời gian biểu tôi mà tôi đã chiến đấu để lấp đầy bằng công việc. Tôi hiếm khi để ý tới cảm xúc. Tôi chỉ biết cái gì cần thì làm, thế thôi.
Tôi gọi cho bà chủ và Jamie để cập nhật tình hình từ bãi đậu xe ngoài hiệu thuốc. Tôi nói với bà chủ rằng tôi sẽ đến nhà Lori sau vài giờ nữa - tôi chỉ cần hơn một tiếng để đi gặp Jamie và đưa con cho bố nó. Giọng anh ta tỏ rõ sự bực bội qua điện thoại, nhưng tôi mặc kệ. Anh ta không thích cho con uống thuốc, không tin vào bác sĩ và trách móc nhà trẻ vì để cho con bé ốm suốt. Sáng hôm ấy tôi không thèm chấp nhặt với anh ta nên càng khiến anh ta bực bội. Tôi ngắt lời, bảo rằng sẽ đưa Mia đến cùng với thuốc thang và tất cả chỉ dẫn, anh ta chỉ cần làm theo là được.
“Những thứ kháng sinh này chỉ tổ làm con bé bệnh thêm”, anh ta xách mé. Jamie luôn nói thế mỗi khi con phải uống thuốc vì bị viêm xoang hoặc viêm tai. Tôi cũng chẳng muốn cho con dùng kháng sinh, vì biết chúng chỉ che giấu vấn đề thực sự: Đó là lối sống và không gian sống của chúng tôi đang khiến sức khỏe của con sa sút. Chỉ là tôi không còn lựa chọn nào khác.
“Cứ làm theo đi, Jamie”, tôi nói. Tôi cụp máy và thở dài. Sau đó tôi quay sang nhìn Mia ở ghế sau. Con bé mặc áo phông màu đỏ có hình một chú ngựa hoạt họa đội mũ cao bồi và chiếc quần bó màu đen rách đầu gối. Mia đang ôm trong lòng một món đồ chơi nhà tắm do tôi mới mua với giá 5 đô ở Walmart - búp bê Nàng tiên cá có đuôi màu xanh lam sẽ biến thành tím khi gặp nước ấm. Con bé nhìn tôi, vẻ mặt đờ đẫn vì hai xoang nghẹt chất nhầy, mắt đỏ sọc và đóng ghèn. Tôi vỗ đầu gối và xoa chân con một chút rồi nhìn thẳng, hít một hơi sâu và khởi động xe.
Chúng tôi đi theo hướng Tây trên quốc lộ 20 về bờ biển. Tôi đã đi trên con lộ giữa Mount Vernon và Anacortes này từ hồi mới chào đời. Có một cung đường khiến tôi nhớ đến một đêm hồi tôi có lẽ bằng tuổi Mia, ngắm nhìn những vì sao trên đường về nhà sau khi đến thăm hai cụ cố. Đó là lễ Noel và tôi đã căng mắt tìm ánh sáng đỏ phát ra từ mũi chú tuần lộc Rudolph. Mia là thế hệ thứ bảy của dòng họ tôi được sinh ra ở vùng này. Tôi hi vọng những gốc rễ sâu xa đó sẽ níu chân chúng tôi, nhưng sự thật lại hoàn toàn khác. Chúng tôi không còn nhớ rõ lai lịch dòng tộc của mình. Tôi đã chán đi hỏi những người bà con họ hàng xem họ có muốn gặp Mia không, và tôi nhớ da diết ông bà, các chú dì có đôi chút tương đồng với một vài khách hàng của tôi - nhà treo đầy ảnh, số điện thoại của con cái đặt đầu tiên trong danh sách gọi tự động, một rổ đầy đồ chơi để ở góc dành cho các cháu. Thế mà tôi chỉ nhớ chút ít về một quốc lộ: Đó là thứ kí ức đã ăn sâu đến mức có thể là một món đồ gia bảo.
Vào những lúc đã đào bới ở đáy sâu tuyệt vọng quá lâu, tôi sẽ nghĩ về những điều đó. Dù tôi cảm ơn Jamie đã chăm sóc Mia trong tuần này nhưng tôi biết tôi sẽ phải trả một cái giá gì đó. Anh ta sẽ dùng nó để chống lại tôi, coi đó là lí do mà Mia nên sống với bố.
“Mẹ ơi”, Mia nói từ ghế sau. “Mẹ ơi.”
“Ừ, Mia?” Tôi nói, chống khuỷu tay trên cửa kính và bàn tay dỡ trán trong lúc lái xe.
“Con hạ kính xuống nhé?” Mia hỏi, giọng ốm nghẹt hơi run run. “Con muốn tóc Ariel tung bay như trong phim.” Tôi hạ kính, không quan tâm xem chuyện đó lố bịch thế nào. Tôi chỉ cần được đi làm. Tôi phải hoàn thành công việc. Tôi cần ngủ.
Chúng tôi vượt qua một eo biển chia cắt đất liền với đảo Whidbey. Tôi nhìn sang phải khi một chiếc Ford Bronco đời cũ phóng qua. Tôi nhìn xoáy vào người lái chiếc xe kia và anh ấy mỉm cười, chỉ xuống phía cửa sổ của Mia đúng lúc tôi thoáng thấy mái tóc đỏ ở cửa kính hậu.
“Ariel của con!” Con bé thét lên, đá vào cái ghế trước. Mia đã đưa Ariel thò hẳn ra ngoài, và tuột tay.
Tôi đanh mặt lại và nhìn thẳng. Mia khóc tấm tức như thể tôi vừa cán qua một con cún sơ sinh. Ở góc ngoặt tới là một đèn đỏ cho tôi vòng lại. Mình có thời gian, tôi nghĩ. Tôi có thể quay xe, đỗ ở rìa đông quốc lộ, sau đó đi xuống nhặt con búp bê, rẽ ở đường thoát tới, rồi đi dưới cầu vòng ngược và chúng tôi lại đi đúng đường. Khi đang lái xe với tốc độ gần 100 cây số một giờ trong lúc buôn ngủ rũ mắt giữa tiếng khóc của một đứa trẻ thơ ghế sau thì tôi thấy quyết định đó vô cùng hợp lí.
“Mẹ sẽ quay lại lấy”, tôi hét lên để bắt con ngừng ngay những âm thanh kinh khủng kia đi. Đầu tôi ong ong vì thiếu ngủ và vì cả hai cốc cà phê đầy lúc sáng để tạm át cảm giác ấy. Tôi đã chăm sóc con ốm vài ngày và đang rất cần nghỉ ngơi. Tôi chỉ muốn tiếng khóc ăn vạ kia ngừng lại.
Sau khi quay xe, tôi ở làn đường bên trái, cứ tăng tốc rồi lại giảm tốc trong lúc cố đánh xe về phía vệ đường bên trái. Đó là một ngày ấm áp bất thường của tháng Chín. Khi tôi đặt chân xuống nền đường nhựa, gió từ những chiếc xe phóng qua phả ra nóng rực, len lỏi qua chiếc áo phông màu xanh lam yêu thích đã bị mỏng đi qua nhiều năm sử dụng. Tôi sục sạo đám cỏ chia cắt hai làn đường về phía đông và phía tây, tóc buộc đuôi gà quất vào mặt đến mức tôi phải dùng một tay giữ. Chắc trông tôi phải kì cục lắm khi tìm kiếm một con búp bê giữa đám giấy gói kẹo và lon nước ngọt chứa đầy nước tiểu bị vứt chỏng chơ ra giữa đường.
Cuối cùng tôi đã thấy một mái tóc đỏ. Tôi lại gần hơn; chính là Ariel nhưng chỉ còn mỗi cái đầu. “Chết tiệt”, tôi lẩm bẩm rồi nhăn nhó ngoái nhìn chiếc xe, đột nhiên thấy bụng dạ hẫng xuống. Đây là một ý tưởng tồi tệ. Mia sẽ khóc hết cả chặng đường đến Port Townsend vì một con búp bê bị hỏng chứ không phải bị mất. Có lẽ bố nó sẽ sửa được; anh ta sẽ gắn nó lại. Sau đó tôi tìm thấy cái đuôi nhưng không thấy nửa trên mặc bikini vỏ sò đâu cả. “Chết tiệt”, tôi lại văng tục. Tôi cúi xuống nhặt lên, rồi bỗng nghe thấy âm thanh ấy.
Tiếng kim loại bị nghiến và kính vỡ vang lên cùng một lúc. Đó là âm thanh tôi đã quen thuộc từ những vụ tai nạn xe hồi tôi còn thiếu niên, nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy nó theo cách này.
Một chiếc ô tô. Đâm vào một chiếc khác. Xe của tôi. Xe của tôi có Mia đang ngồi ở ghế sau.
Âm thanh đó là tiếng cửa kính bên cạnh đầu con gái tôi bị vỡ tan như thể một quả bóng bằng kính.
Tôi quăng cái đầu Ariel vừa la hét và chạy. Đây không phải sự thật, tôi vừa nghĩ vừa chạy. Đây không phải sự thật. Đến lúc tôi tới chỗ cái xe thì tiếng hét của tôi đã biến thành một loạt những âm thanh lặp đi lặp lại: Không. Không. Không-không-không.
Khi tôi mở cửa xe đằng sau ghế lái, cái ghế ngồi ô tô của Mia đối diện với tôi: Nó đã bị bật khỏi chỗ, cửa kính hậu cũng đã biến mất. Đôi mắt dại ra vì hoảng sợ của con gái nhìn xoáy vào tôi, miệng con mở ra trong một tiếng hét câm lặng. Tôi thở hắt ra và con bé chìa tay cho tôi. Tôi di chuyển cái ghế để xe. Bên dưới Mia, nền xe bị nén lại, lồi lõm, gần đến chân con. Con bé đã co người lại, bàn chân chỉ được bảo vệ bởi một đôi xăng đan nhẹ.
Tôi tháo chốt ghế và ngay lập tức cảm nhận tay con quàng qua cổ, chân đẩy mạnh ghế khiến cả hai mẹ con tôi lùi khỏi xe. Chân con quắp quanh người tôi và tôi ôm con thật chặt mà thổn thức, tránh để con nhìn thấy cái xe hỏng nát.
Những chiếc xe ở cả hai hướng đi chậm lại, mọi người thò cổ ra ngoài khung cửa kính. Tôi đứng ở hàng cỏ giữa hai làn đường, cách cái xe khoảng dăm mét, ôm ghì lấy đứa con ba tuổi. Tôi có cảm giác mọi thứ xung quanh lại xoáy tròn như trong bão lốc.
Lái chiếc xe kia là một cậu thiếu niên gầy nhẳng để tóc kiểu chôm chôm. Cậu ta tiến về phía chúng tôi từ phía chiếc xe đậu cách đó 30 mét. Cậu ta bị thương trên mắt trái. Cái áo sơ mi trắng ngắn tay phất phơ trong gió, khoác bên ngoài một chiếc áo ba lỗ sọc gân.
“Chị có sao không?” Cậu ta hỏi, sau đó chăm chú nhìn Mia. “Lạy Chúa, cô bé ở trong xe sao?”
“Tất nhiên nó ở trong xe rồi, thằng ngu!” Tôi hét lên bằng cái giọng mà đến chính tôi cũng chưa từng nghe thấy bao giờ. Đó không hề giống giọng của tôi. “Sao cậu có thể đâm vào cái xe chết tiệt của tôi?” Cậu ta không đáp. “Sao cậu có thể đâm vào cái xe chết tiệt của tôi, hả?” Tôi nhắc lại. Tôi nói hết lần này tới lần khác nhưng không hẳn với một ai, vùi những lời ấy vào bờ vai nhỏ bé của Mia. Sao một chuyện thế này có thể xảy đến với chúng tôi? Sao chúng tôi lại đứng giữa đường cao tốc, cô độc, với một chiếc xe tan nát? Đó là chiếc xe tôi dùng để đi làm, là kế sinh nhai của mẹ con tôi. Đó là chiếc xe của chúng tôi, quan trọng chẳng khác nào tay chân giúp chúng tôi di chuyển vậy. Tôi còn chưa trả hết tiền mua nó nữa.
Cậu ta lùi lại, tôi áp trán vào trán Mia và lại hỏi con thấy thế nào.
“Con ổn mà mẹ”, Mia nói, giọng không cảm xúc, đều đều, bình tĩnh. “Cả hai ta đều ổn.”
“Hai ta ổn?” Tôi nói và hít vào. “Chúng ta ổn sao?”
“Chúng ta ổn”, con bé nhắc lại. “Chúng ta ổn mà.” Tôi ôm con thật chặt, cảm thấy tâm trạng bắt đầu chuyển từ hoảng loạn sang buồn bã.
Một bàn tay mát lạnh chạm vào vai tôi và tôi quay lại, sẵn sàng cho cậu con trai kia một cú đấm, nhưng bàn tay đó lại thuộc về một người phụ nữ nhỏ nhắn tóc vàng. Giọng nói lí nhí của cô khiến tôi không nghe rõ và hiểu cô nói gì, nhưng gương mặt cô tỏ ý quan tâm.
“Cô ổn chứ?” cô hỏi. Tôi không đáp. Tôi nhìn người phụ nữ ấy một giây, cảm giác cô ấy trong suốt như thiên thần. Câu hỏi kiểu gì vậy? Tôi có ổn không à? Tôi không biết. Tôi vừa suýt mất con. Đứa con đang trong vòng tay tôi. Đứa bé đã áp lòng bàn tay vào má tôi sáng nay mà thì thầm, “Con yêu mẹ.” Đứa bé ngủ cùng giường với tôi và thích món bánh kếp của tôi. Đứa trẻ ấy vừa suýt mất mạng.
“Con gái tôi”, tôi nói lớn. Đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ để nói, sau đó tôi lại vùi mặt vào tóc Mia.
Một chiếc xe nữa cũng dừng lại, sau chiếc Suburban màu đen của cô ấy. Tài xế đang gọi điện thoại. Tôi không thể làm gì ngoài ghì chặt Mia. Tôi không thể ngừng khóc. Xe của tôi. Xe của tôi đã chết bên vệ đường. Chiếc xe không thể thay thế của tôi. Chiếc xe tôi không có tiền để mất. Chiếc xe tôi cần phải chạy được để tôi có thể giữ việc làm, để sống sót.
Cảnh sát xuất hiện trước tiên để điều hướng giao thông và tiếp cận hiện trường. Họ hỏi tôi có chuyện gì, kiên nhẫn lắng nghe giữa những tiếng nấc của tôi. Vài viên cảnh sát bắt đầu kiểm tra vết lốp xe tôi trượt trên đường ít nhất 30 phân về bên trái khi nó bị đâm vào. Lốp phải sau lệch ra ngoài, thanh kim loại đằng sau bị xoắn nát. Mọi thứ bên trong xe đều lệch khỏi vị trí ban đầu. Băng cát-xét trong ổ đĩa thò ra ngoài, sẵn sàng rơi bất cứ lúc nào. Nhưng tôi không thể ngừng nhìn ghế sau - chỗ Mia ngồi lúc nãy, rất gần cửa kính vỡ, sàn xe bị đẩy xô lên gần chạm ngón chân con gái tôi. Trong vụ tai nạn, chiếc ghế của con tôi bị lệch sang một bên ra xa cửa sổ, và nhờ thế con bé không bị thương tích gì.
Một cảnh sát rút ra một cuộn thước dây nhỏ.
“Anh làm gì thế?” Tôi hỏi, thêm một đợt sóng hoảng hốt nữa dội lên trong ngực.
“Chúng tôi cần xem xét mức độ sai phạm”, anh nói. “Mời chị tránh sang một bên.”
Sai phạm. Sai phạm của tôi. Đương nhiên là của tôi. Chính tôi đã đỗ xe trên con đường cao tốc quỷ tha ma bắt này, là người đã ra ngoài tìm con búp bê khốn kiếp và để con lại trong xe, trong vòng nguy hiểm.
Khi tôi cho Mia ngồi xuống ghế băng trong xe cứu thương, con bé buông lỏng tay khỏi cổ tôi lần đầu tiên từ lúc tôi tháo đai an toàn. Bác sĩ hỏi con vài câu, đề nghị xem vùng ngực con bé. Bác sĩ đưa cho Mia một con gấu bông mặc áo choàng và đội mũ ngủ, mắt nhắm và chắp tay như đang cầu nguyện.
“Chị nhớ theo dõi xem tối nay cô bé thế nào”, bác sĩ nói. Đôi mắt, mái tóc nâu và làn da nâu của anh ta không hiểu sao gợi cho tôi nhớ đến em trai. “Nếu chị thấy có vết bầm tím, hoặc nếu cô bé thấy đau vì bất kể lí do gì, đưa bé vào viện ngay lập tức.” Anh ta nhìn Mia thêm lần nữa. “Hoặc bây giờ chị có thể đưa con đến ngay phòng cấp cứu để chụp X-quang.” Tôi nhìn Mia, cố hiểu anh ta vừa nói gì. Giờ nhìn lại, tôi bỗng thấy tình hình đã có thể tệ hơn rất nhiều nếu con bé bị bầm tím, bị gãy xương, chảy máu và vội vàng đến viện trong chiếc xe cứu thương này. Tôi lắc đầu. Logic quá khó hiểu. Tôi không biết Medicaid có chi trả tiền xe cứu thương, và tôi mường tượng ra cả mức viện phí lên tới vài ngàn đô nằm ngoài tầm chi trả. Tôi cũng không thể để xe lại đó - nó gần như một thành viên gia đình; nó chứa đồ nghề dọn dẹp, đem lại toàn bộ nguồn thu nhập cho mẹ con tôi. Tôi sẽ phải trả tiền thay mới chúng nếu có chuyện gì, mà tôi không có tiền. Tôi không thể đi mà không biết điều gì sẽ tới.
Mia ôm con gấu bông, nhìn những y cụ trong xe cứu thương. Đầu óc tôi lại thoáng hiện lên nhìn ảnh con bé hoảng hốt nhìn tôi khi hít thở bằng mặt nạ ôxy, mái tóc đóng máu khô, cổ bị băng bó. Con bé giơ tay đòi tôi ôm. Tôi bế con về xe, rút điện thoại khỏi túi và chụp vài bức trong lúc đợi cảnh sát định đoạt số phận.
Một cảnh sát tới: Người này thấp nhất, hói đầu, bụng bia. Anh ta hỏi tôi chính cũng những câu tôi đã trả lời: Vì sao tôi dừng xe, tôi dừng xe thế nào, tôi đậu xe xa đến đâu, và tôi có xi nhan ngay không.
“Thưa chị, chúng tôi sẽ tiếp tục điều tra và thông báo với công ty bảo hiểm của chị”, anh ta nói. “Tôi không biết người đâm vào xe chị có bảo hiểm không.”
Đầu gối tôi như nhũn ra. Tôi có bảo hiểm xe một chiều rưỡi không nhỉ? Tôi phải có. Tôi vẫn còn nợ tiền mua xe. Tôi nghĩ điều đó có nghĩa là tôi sẽ được bảo hiểm toàn diện chứ không phải chỉ bảo hiểm trách nhiệm. Đúng không nhỉ? Tôi đã yêu cầu có bảo hiểm một chiều rưỡi, đúng không? Tôi không nhớ nữa.
Viên cảnh sát rút một tệp giấy khác ra và xé một tấm vé, đưa cho tôi cùng bằng lái, giấy đăng kí xe và thẻ bảo hiểm.
Tôi thấy số tiền 70 đô trên vé phạt nhưng không chấp nhận được, cố hiểu sao tôi lại bị phạt. Tôi nhìn vào đôi mắt xanh ti hí của anh ta. “Về mặt tài chính thì điều này có nghĩa là thế nào?”
Anh ta nhìn tôi rồi nhìn Mia cũng vừa quay sang. “Tôi không biết”, anh ta cấm cảu nói rồi lại chìa tấm vé cho tôi và nói thêm, “Chị có thể chống lại trước tòa.” Nhưng tôi biết thế nghĩa là tôi sẽ phải chống lại anh ta. Một sĩ quan cảnh sát. Một người vô tâm, đặt tấm vé vào tay một người phụ nữ đang sụt sùi khóc vì suýt mất con, một người không thể mua một chiếc xe mới thay thế, chứ đừng nói là trả tiền phạt.
Tôi nhìn tấm vé phạt vì đỗ xe trái phép và ngước nhìn chiếc xe cứu hộ đang tới.
“Chị có ai đón không?” Viên sĩ quan hỏi. Nghe giọng thì chắc hẳn anh ta phải hỏi câu này nhiều hơn một lần rồi.
“Tôi không biết”, tôi nói. Những người tôi nghĩ đến đều đang đi làm hoặc ở xa. Cảnh sát đề nghị tôi đi nhờ xe cứu hộ nhưng tôi lại hỏi có tốn tiền không và anh ta lại đáp là không biết. “Sao không ai biết mấy chuyện này tốn kém bao nhiêu nhỉ?” Tôi nói và lại khóc. Anh ta nhún vai bỏ đi. Lính cứu hỏa bỏ đồ nghề của tôi ra khỏi xe, cùng với chiếc ghế và cái cặp Hello Kitty của Mia cho mấy hôm cuối tuần ở cùng bố.
Chúng tôi đứng bên vệ đường, nhìn chiếc xe bị kéo đi, bánh sau lệch lạc và quét lệt xệt trên đường như cái chân gãy. Dưới chân tôi, trên đám cỏ là các khay đồ vệ sinh, một túi giẻ lau và hai cái cán chổi lau nhà đã hỏng. Mia vẫn ôm cổ tôi. Hiện trường bắt đầu được dọn dẹp. Chúng tôi sắp bị bỏ lại đó, một mình.