← Quay lại trang sách

Chương 20 “Mình không biết làm cách nào cậu vượt qua được”

“Vì sao cô lại làm thế?” Jamie hét vào điện thoại, giọng lên cao hơn, gắt gỏng hơn. “Sao cô lại dừng xe giữa đường cao tốc hả? Sao cô ngu thế!” Tôi đã lặp đi lặp lại đúng những từ đó trong đầu rồi. Thậm chí còn bằng giọng của chính anh ta.

“Ừ, tôi sẽ gọi lại sau”, tôi nói trước khi ngắt máy.

Mia bắt đầu khóc. Con bé muốn nói chuyện với bố. Nó muốn bố đến đón. Tôi cảm thấy cảm giác hụt hẫng quen thuộc, sợ rằng anh có thể dùng điều này để giành lại quyền nuôi con, rằng điều này có thể giúp anh giành được cái chiến thắng mà anh ta luôn lấy ra để đe dọa mỗi khi tôi làm gì không đúng ý. Anh ta muốn tôi phải trả tiền trợ cấp nuôi con. Anh muốn tôi phải khổ sở.

Chiếc xe Oldsmobile màu xanh nhạt của ông ngoại chầm chậm lách qua dòng xe vẫn còn tắc nghẽn vì vụ tai nạn. Một vài viên cảnh sát vẫy ông vào. Dù ông thấp hơn viên cảnh sát thấp nhất đã chìa vé phạt với tôi, ông vẫn đường bệ bước ra khỏi xe, gật đầu với một nhóm người còn nán lại. Nhưng khi ông tiến tới với mẹ con tôi bên vệ đường, mặt ông đỏ tưng bừng. Tôi những nghĩ rằng ông giận tôi. “Mang theo cả những thứ này à?” Ông hỏi và chỉ vào chồng đồ đạc dựng vội bên vệ đường cao tốc. Tôi gật đầu.

Sau khi tôi đã chốt dây an toàn ghế của Mia, chúng tôi lên chiếc xe lớn và ông bảo ông cần đổ xăng. Chúng tôi ghé vào và đỗ bên cạnh một cây xăng. Ông nhìn tôi một lát rồi ngoái nhìn Mia. Mắt ông rưng rưng.

“Ông không có đủ tiền”, ông nói và mặt lại đỏ.

“Để cháu trả”, tôi nói, đưa tay cầm lấy tay lẫy mở cửa xe.

“Vậy thì ông sẽ đi mua cà phê”, ông nói. “Cháu muốn uống cà phê không? Dạo này ông thích trà xanh. Hay là cháu uống trà xanh nhé?”

Tôi muốn đùa là mình cần vài li rượu mạnh, nhưng chợt nhận ra mình cần nghiêm túc yêu cầu. “Vâng”, tôi nói và cố cười. “Cháu muốn uống cà phê.”

Ông đã chăm sóc bà gần như suốt cuộc hôn nhân khi căn bệnh tâm thần của bà càng ngày càng nghiêm trọng, và từ khi bà qua đời cách đây một năm rưỡi, ông có rất nhiều thời gian rảnh rỗi để gặm nhấm nỗi cô đơn tuyệt vọng. Ông bà tôi biết nhau từ hồi mẫu giáo. Là vợ chồng, bà cao hơn ông, ít nhất là do mái tóc rối bù như tổ quạ, vì ông tôi chỉ nhỉnh hơn một mét rưỡi có một tí. Khi tôi bằng tuổi Mia và ở cùng họ, ông chưa từng bỏ qua cơ hội đưa tôi đi khoe với bạn bè, kể với người ta về bản thu âm tôi hát bài Thủy thủ Popeye và đề nghị bật cho tất cả cùng nghe.

Sau khi bà mất, ông không còn sống trong căn nhà kia nữa. Đó là ngôi nhà duy nhất của ông bà mà tôi biết, ngoại trừ căn nhà lưu động hồi xưa, và tôi thấy thật lạ khi biết nó đã không còn. Một thời gian sau, ông thuê phòng ở trong thành phố. Tôi có đến thăm và đã thấy những món đồ nho nhỏ tôi từng một thời mê mẩn khi còn bé, trong lòng chộn rộn một cảm giác lạ lùng vì ông chẳng có đủ tiền thuê lấy một căn hộ một phòng ngủ. Ông vẫn làm môi giới nhà đất, nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế đã khiến thị trường địa ốc đóng băng chưa phục hồi nổi. Ông bắt đầu ngủ trong nhà kho của văn phòng. Tôi không giúp được gì và thấy có lỗi ghê gớm, nhất là khi ông đã cho mẹ con tôi ở nhờ sau một lần tôi cãi vã với Travis. Tôi chỉ ước mình giúp được gì cho ông.

Mỗi lần tôi gặp ông, ông đều muốn tặng cho tôi một món đồ gia truyền hoặc một cuốn sách tập tô có để tên mẹ tôi ở ngoài bìa. Có lúc tôi nhận vài thứ cho ông vui rồi sau đó đành bỏ trong xe để đem đi làm từ thiện, vì nhà tôi chẳng có chỗ cho chúng. Ông một mực bắt tôi nhận và kể cho tôi nghe những giai thoại liên quan đến chúng. “Bà cố nội của cháu đã bán chiếc nhẫn cưới để mua cái máy khâu này”, ông nói. Tôi không thể giữ hay cho những của gia bảo đó một chỗ trưng bày xứng đáng. Cuộc đời này không cho tôi một chỗ để mà nâng niu chúng.

Travis gọi lại khi tôi đang đổ xăng. Anh không muốn nghe chi tiết, chỉ cần biết cần đến đâu để đón mẹ con tôi. Tôi suýt quên là mình đã gửi tin nhắn cho anh. Tôi chỉ có cảm giác là anh muốn biết về vụ tai nạn, hoặc có lẽ tôi muốn anh biết. Giọng anh có vẻ hổn hển và tôi nghe thấy tiếng động cơ diesel văng vẳng đằng sau.

“Anh đang làm gì đấy?” Tôi hỏi. Mia nhìn tôi qua cửa kính. Tôi chun mũi cố cười với con và áp ngón tay vào kính cửa. Con bé đưa ngón tay chạm vào kính ở mặt bên kia.

“Tôi đang nối cái xe tải của bố mẹ vào cái nhà lưu động”, anh vừa nói vừa thở nặng nhọc. Tôi tự hỏi liệu anh có nghĩ đến chuyện sẽ tới kéo chiếc xe bẹp dúm của mẹ con tôi đi hộ không.

“Không sao đâu, Travis”, tôi nói. “Mẹ con tôi vẫn ổn. Mọi thứ đều được lo liệu rồi.” Tôi cúp máy trước khi anh kịp nhận ra tôi nói dối. Tôi hiện đang quá yếu đuối nên không thể gặp anh được. Tôi biết, thậm chí với cơ thể còn đang run rẩy bàng hoàng, rằng nếu Travis đến cứu mẹ con tôi, giúp đưa tất cả về trật tự vốn có, tôi sẽ lại muốn liều tất cả để ở bên anh. Tôi đã dành suốt quãng thời gian qua để luyện cho mình sự tự chủ. Dù đã gọi cho anh nhưng tôi không muốn một lần nữa lao vào vòng tay anh.

Trên đường về, trời lại đổ mưa. Tôi nhờ ông dừng lại tại Walmart và cùng Mia đợi trong xe để tôi vào siêu thị. Tôi cúi đầu rảo bước vào trong, tránh không nhìn vào mắt bất kì ai. Tôi tưởng tượng bất cứ ai nhìn về hướng tôi sẽ đều nhận ra tôi là cô nàng đã suýt giết chết con mình trên vệ đường cao tốc 20. Hơn bao giờ hết, tôi chỉ muốn được hét to giữa Walmart; cảm giác ấy lớn đến nỗi khó bề kiểm soát và khiến tôi thấy sợ. Trong đầu tôi vẫn văng vẳng nghe thấy tiếng kính vỡ. Âm thanh ấy cứ lặp đi lặp lại, vang dội đến nỗi tôi vội vàng nhắm nghiền mắt và nghiến răng để giữ cho mình im lặng.

“Mấy con búp bê người cá chết giẫm đó ở đâu rồi?” Tôi nhận ra mình nói to đến nỗi khiến mẹ con một bé gái phải quay sang nhìn. Loại búp bê đó đã hết hàng; ở nơi từng treo chúng nay đã trống trơn, nhưng ở dưới có một phiên bản nâng cấp: một con búp bê có nút ấn biết nói, cỡ lớn hơn và nhiều tóc hơn, với mức giá 19 đô 99. Tôi cầm lên. Tôi sẽ lo các hóa đơn sau. Tôi phải mua con búp bê này cho con tôi bằng được.

Xe dừng lại trước chung cư, mưa vẫn tiếp tục rơi trong lúc ông cháu tôi đưa đồ nghề dọn dẹp và túi tiếc lên nhà. Một mảnh kính rơi từ một cái túi xuống sàn nhà và chọc vào gót chân Mia, nhưng may là không làm con đau lắm nên lúc đầu con bé chẳng để ý. Đó là thương tích duy nhất. Ít nhất là về mặt thể chất. Cái đó thì tôi lo được.

Ông đứng trong căn hộ, trong không gian mở chật chội bên cạnh cửa, và nhìn quanh. Ông chưa từng tới đây thăm mẹ con tôi. Chưa một ai trong gia đình tôi từng đến đây cả. Tôi tự hỏi liệu ông có nhận ra tôi đã vứt hết mọi thứ ông tặng hay không.

“Cháu không có lò vi sóng”, ông nói trong lúc nhìn vào cái góc được trưng dụng làm bếp.

Tôi nhìn bệ bếp trống trơn, chỉ trừ có cái thớt và giá úp bát, lại quá nhỏ cho những thứ khác. “Cháu không có chỗ để”, tôi nói.

“Cháu có thể đặt trên nóc tủ lạnh”, ông nói và chỉ vào nơi tôi đặt một chậu cây. “Ông có một cái trong văn phòng nhưng không dùng đến. Để ông mang sang cho.”

“Thôi mà ông”, tôi nói, cúi xuống bế Mia. “Cháu không có chỗ để.”

Ông lại ứa nước mắt. Điện thoại của tôi để trong túi bắt đầu rung lên từng chặp. Tôi nhận ra dãy số điện thoại quốc tế của mẹ.

“Ông gọi cho mẹ cháu à?” Tôi hỏi, không thể che giấu sự bực bội.

“Đương nhiên rồi”, ông nói. “Nó phải biết con và cháu gái nó bị tai nạn.”

Tôi nghiến răng trèo trẹo. Tôi biết vì giờ đây khi bà đã mất, mẹ không bao giờ quên gọi cho ông vào các chiều Chủ nhật. Tôi biết mẹ sẽ hỏi ông có gặp mẹ con tôi không, hoặc chúng tôi thế nào, hoặc chúng tôi định làm gì. Trong giây phút đó, tôi càng cảm thấy mẹ không có quyền được biết gì về vụ tai nạn đã qua. Tôi đã cần mẹ vào mùa hè đó, khi Mia ốm dặt dẹo và cần gắn ống thông tai. Tôi cần mẹ rất nhiều lần kể từ ngày bà chuyển sang châu Âu. Sau đó thì chúng tôi hiếm khi trò chuyện, các cuộc nói chuyện của chúng tôi trở nên nhát gừng vì William ngồi gần bên và lắng nghe tất cả. Tôi gần như nghe thấy cả tiếng thở của anh ta. Anh ta cười khẽ mỗi khi mẹ nói đùa. Tôi không chịu nổi. Tôi không thể. Thế là tôi dừng hẳn việc nói chuyện với mẹ, một lần nữa quyết định thà rằng không có mẹ trong cuộc đời mình còn ít đau đớn hơn là có. Tôi sẽ thoải mái tư tưởng hơn nếu như không còn mong muốn hay kì vọng gì từ mẹ. Tôi giận mẹ đã bỏ lại quá khứ của mình ở đây. Đã ở xa. Tôi sẽ không bao giờ hiểu được vì sao mẹ tôi có thể đưa ra một quyết định như vậy. Tôi cũng chẳng muốn tìm hiểu.

Ông về, còn tôi bế Mia vào bồn tắm đầy bong bóng xà phòng cùng con búp bê mới. Mẹ lại gọi. Tôi ngồi trên toilet bên cạnh bồn tắm và thấy điện thoại sáng lên. Tôi mặc kệ và quan sát Mia chơi cùng nàng tiên cá mới. Mia ở trong bồn tắm, da trơn trượt vì xà phòng, tóc dính vào má. Tôi muốn nhoài đến, ôm ghì lấy con và áp tai vào ngực con nghe từng nhịp tim đập.

Tôi tự hỏi mẹ có bao giờ có cảm giác như thế với tôi hay chưa. Tôi tự hỏi vì sao mẹ không bao giờ chịu ở gần bên sau khi đã ôm tôi tạm biệt mỗi đêm, để trấn an tôi bằng sự hiện diện của mình, để nói rằng mẹ yêu tôi rất, rất nhiều. Tôi muốn biết, nhưng không nhiều đến mức có nhu cầu phải hỏi. Có lúc tôi đã tưởng tượng mình hỏi mẹ, đòi hỏi qua điện thoại, nhưng tôi biết chẳng ích gì. Mẹ ở đó, với mẹ tôi thì chỉ như thế đã là đủ. Có lẽ đó là tất cả những gì mẹ cảm thấy mẹ cần phải làm.

Tối hôm ấy Mia thức muộn, không chỉ vì nghẹt mũi và ngứa mắt, mà còn vì tôi không muốn dỗ con ngủ. Tiếng líu lo vui vẻ của con giúp tôi không bưng mặt khóc. Chừng nào Mia còn nhìn tôi, tôi biết tôi cần phải mạnh mẽ. Chúng tôi nằm trên chiếc giường đôi, đầu gối cùng gối, mặt đối mặt. Rồi mắt con nhắm, cơ thể co lại vì buồn ngủ, và con bé thở dài, sau đó là những tiếng thở đều đặn. Tôi quan sát con, và lắng nghe.

Mia chỉ ngủ được một giờ rồi tràng ho rũ rượi khiến con lại tỉnh giấc. Tôi đã cho con bé uống tất cả những loại thuốc tôi có thể mua được. Những tiếng ho của con chuyển thành gì đó nghe như tiếng gào, vừa cáu bẳn vì thức giấc giữa chừng, vừa mệt mỏi. Tôi cố dỗ dành bằng bài hát Wagon Wheel mà dạo này con thích, nhưng cũng chẳng ăn thua. Cuối cùng, từ một miền nguyên thủy trong kí ức, tôi bắt đầu đọc bài thơ Chúc ông trăng yên giấc:

Chúc phòng bé ngủ ngon, chúc ông trăng yên giấc,

Ngủ đi thôi, chú bê con hiếu động

Ngon giấc nào - bàn ghế, búp bê xinh!

Ánh nắng vàng đã tắt từ lâu…

Mia ngay lập tức im lặng lắng nghe, sau đó ngủ mất. Tôi đưa ngón tay vuốt ve khoảng giữa hai lông mày con mà khóc thầm, vẫn chưa tin nổi là con bé còn sống.

Sáng hôm sau, tôi ngồi nhìn Mia ăn ngũ cốc. Trong lòng tôi dâng lên một nỗi kích động vì vẫn chưa tin nổi vào phép màu rằng con tôi không bị xước xát gì, đến nỗi tôi không dám tin là con đang ngồi trước mắt. Hôm qua tôi đã gọi cho Lonnie để thông báo sự tình và xin nghỉ một ngày để thu xếp, lúc đó tôi chẳng biết mình sẽ làm thế nào. Cơ thể và trí óc tôi như ở chế độ tự lái. Sau bữa sáng, một người mà tôi đã hẹn hò vài lần, tên là Todd, tới đón chúng tôi. Todd và tôi đáng lí ra cuối tuần này có hẹn và không hiểu sao tối qua tôi lại nhớ ra phải hủy lịch, chẳng nghĩ ra được lí do nào khác nên đành thú thật. Tôi không muốn thừa nhận mình đang gặp rắc rối, rằng ngay cả người nhà cũng chẳng thể giúp tôi. Todd đề nghị cho tôi mượn chiếc xe anh không dùng nữa, và tôi bỗng thấy sợ. Tôi không rõ mình có cảm giác gì với Todd, hoặc tôi có thực lòng thích anh không. Tôi nhận thấy có một số đấng nam nhi ít nhiều mắc phức cảm anh hùng khi hẹn hò với tôi. Họ muốn xông tới cứu quý cô mắc nạn này. Tôi không thích vào vai đó, nhưng trong tình huống này thì tôi đã không còn lựa chọn. Mẹ con tôi rất cần một chiếc xe.

Tôi chỉ giới thiệu với Mia rằng Todd là “bạn của mẹ”, rằng chú ấy mang một chiếc xe thừa đến cho hai mẹ con tôi dùng tạm.

“Như vậy thì mẹ có thể đưa con tới chỗ bố”, tôi vừa giải thích vừa rửa những chiếc đĩa đựng đồ ăn sáng. Tôi hít một hơi dài và nín thở khi trái tim bắt đầu đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi sẽ phải đi đúng cung đường của ngày hôm qua và quay lại trong một chiếc xe cùng với Mia. Dù tôi muốn ở trên giường, dính vào Mia đến thế nào thì tôi vẫn phải đi làm. Tôi có một căn nhà phải dọn dẹp vào ngày mai - một trong những căn nhà lớn sẽ ngốn gần hết quỹ thời gian của tôi vào những ngày thứ Năm. Hơn nữa, các khóa học sẽ bắt đầu vào tuần sau và tôi cần mua sách vở và xin cấp mật khẩu để tiếp cận các học liệu. Sinh nhật của tôi lại sắp đến.

Khi Todd lái xe theo đường I-5 đưa chúng tôi đi mượn xe, Mia ngồi im ở ghế sau. Cái ghế an toàn của con bé có vẻ ổn, nhưng tôi biết vì nó là chiếc ghế trong vụ tai nạn nên tôi sẽ bỏ nó ngay khi mua được cái mới. Mỗi lần nhìn thấy nó, tôi lại nhớ ra tôi đã suýt mất con gái.

Đột nhiên Mia buột miệng, “Ruby chết rồi mẹ ạ.” Ruby là cái tên Mia đặt cho chiếc Subaru vì màu đỏ nâu của chiếc xe, và cũng vì tôi đã gọi nó là Suba-Ruby vào lần đầu tiên tôi tự hào chất toàn bộ đồ nghề dọn dẹp vào cốp xe.

Tôi quay lại nhìn Mia và đặt tay lên chân con. Con bé thật mong manh và nhỏ bé. Nước mắt tôi lại dâng lên. Ruby là một chiếc xe cũ, nhưng vẫn ở điều kiện không chê vào đâu được với công tơ mét mới đo được 160.000 cây số. Mia và tôi đã từng có lúc dành nửa ngày trên chiếc xe ấy. Ruby đã hai mươi mốt tuổi, nhưng là một trong những phương tiện tuyệt nhất mà tôi từng sở hữu trong vài năm vừa qua. Sự mất mát của chúng tôi quá lớn, đến không thể tưởng tượng nổi. Tôi không dám nghĩ về nó.

“Ruby chết vì con, mẹ ạ”, Mia nhìn ra ngoài cửa sổ và nói khẽ. “Vì Ariel đã bay ra ngoài cửa sổ.”

“Ôi, con yêu”, tôi nói, cố xoay cả người để nhìn con từ ghế trước. “Không phải đâu. Đó là tai nạn thôi. Đó không phải lỗi của con. Nếu là lỗi của ai thì đó là của mẹ.”

“Mẹ khóc kìa”, Mia nói, gương mặt đỏ bừng, môi dưới trề ra, nước mắt bắt đầu ầng ậng. “Mẹ chỉ muốn cứu Ariel của con thôi.”

Tôi không dám nhìn con nữa, nhưng vẫn áp tay vào chân con. Tôi rất muốn đưa tay che mặt, cho phép mắt và miệng méo xệch và được khóc không thành tiếng. Thay vào đó, Todd và tôi nhìn nhau, và tôi khẽ cười với anh. Tôi phải ổn. Tôi không có lựa chọn nào khác.

Todd rẽ ra khỏi đường cao tốc, đi qua vài con phố và đỗ xe đằng sau một chiếc Honda Accord hai cửa. Tôi nhớ đến những chiếc xe mà cánh nam sinh trung học thường dùng, một phiên bản kích cỡ thật của những chiếc xe đua đồ chơi của em trai tôi. Anh ấy kiểm tra xăng, đèn báo rẽ, phanh và đèn pha một cách nhanh nhẹn đáng tán dương và khiến tôi thấy cuốn hút. Todd có nhiều phẩm chất mà tôi ngưỡng mộ - anh làm việc ở công trường và đang xây một căn nhà nhỏ cho mình trong một khu rừng nhỏ gần Port Townsend - tôi không chắc vì sao tôi lại không thấy yêu anh.

“Anh vốn định bán nó, nên em cứ dùng bao lâu tùy thích”, anh nói rồi giao chìa khóa cho tôi.

“Cảm ơn anh”, tôi ra ngoài rồi ôm anh. Tôi hi vọng anh biết anh đã cứu tôi khỏi cảnh tuyệt vọng hoàn toàn và có lẽ là không nhà không cửa. Nhưng làm sao mà anh biết được? Tôi không cho anh biết tình hình của tôi bi đát đến đâu. Tôi muốn làm ra vẻ mình ngang hàng với anh, chứ không phải là tôi thực sự là ai. Đối với tôi, hẹn hò với ai cũng buồn cười như thế.

Khi tôi đánh xe ra khỏi ô đậu xe, tay tôi run run. Cơ thể tôi bồn chồn như thể tôi đã uống mươi cốc cà phê. Mình không nên lái xe, _tôi nghĩ. _Mình chưa sẵn sàng. Tôi nghĩ chắc chắn mình sẽ lại khiến hai mẹ con gặp tai nạn, nhưng tôi là người duy nhất có thể đưa chúng tôi đến nơi cần đến.

Lúc dừng đèn đỏ, biết sắp tới lối vào đường cao tốc, tôi chỉ ước giá mà tôi có thể gọi cho ai đó nhờ giúp đỡ, hoặc thậm chí là để nói chuyện thôi cũng được. Nhưng tôi không nghĩ ra ai có thể hiểu chuyện tôi đang trải qua, trừ khi họ biết làm mẹ đơn thân phải lo chạy ăn từng bữa như tôi là như thế nào.

Khi tôi tâm sự với bạn bè về cuộc đời mình, cho họ biết chỉ một chút xíu những việc hậu cần, căng thẳng, thường xuyên chạy vạy, tôi sẽ được nghe câu này hết lần này tới lần khác: “Mình không biết làm cách nào cậu vượt qua được.” Khi chồng họ rời thành phố hoặc suốt ngày đi làm tới tối mịt, họ sẽ vừa nói, “Tớ không biết làm sao cậu vượt qua được”, vừa lắc đầu và tôi luôn cố gắng không phản ứng lại. Tôi muốn nói với họ rằng những giờ không có chồng bên cạnh của họ còn chưa bằng một phần của làm mẹ đơn thân, nhưng tôi để họ tin vào điều họ muốn tin. Tranh cãi với họ sẽ tiết lộ quá nhiều về bản thân tôi, và tôi chưa từng muốn bị thương hại. Hơn nữa, họ không thể hiểu trừ khi chính họ tự trải nghiệm gánh nặng của cái nghèo. Cảm giác tuyệt vọng dấn bước vì biết đó là lựa chọn duy nhất. Họ không thể hiểu cảm giác của tôi vào buổi sáng sau vụ tai nạn, khi lái xe trên chính con đường vẫn còn vương mảnh kính vỡ của xe tôi, tiếp tục sống như thể tất cả đều bình thường, chỉ vì đó là lựa chọn duy nhất.

Dù tôi chắc chắn các khách hàng sẽ hiểu, nhưng công ty điện thì không. Tôi không muốn gì hơn là ngồi trên sofa với đứa con đang ốm và cho con uống nước quả trong lúc hai mẹ con xem DVD Khỉ George Tò mò ba lần liên tiếp. Nhưng tôi phải tiếp tục đi làm. Và tôi phải lái xe. Tôi không chắc cái gì có vẻ khó khăn hơn.

“Sao” tôi có thể vượt qua chưa bao giờ là vấn đề. Tôi chắc chắn người làm cha mẹ nào cũng sẽ hành động như tôi. Làm mẹ đơn thân không đơn giản là một mình chăm con. Nó cũng không phải là không được nghỉ xả hơi, đi chơi với bạn bè và ngủ đủ giấc; tôi phải đối phó với một loạt những chuyện khó khăn lẻ tẻ. Tôi gánh vác vô vàn trách nhiệm. Tôi là người đi đổ rác. Tôi là người lựa chọn mua đồ tạp hóa. Tôi nấu ăn. Tôi dọn nhà. Tôi phải để ý khi nào cần một cuộn giấy vệ sinh mới. Tôi dọn giường. Tôi quét nhà. Tôi kiểm tra dầu máy xe. Tôi đưa Mia đi khám, đưa đến nhà bố nó. Tôi đưa con đi học múa ba lê nếu tìm được lớp phù hợp, sau đó lại đón con về. Tôi chứng kiến mọi khúc ngoặt, mọi cú nhảy và mọi nốt trầm của cuộc sống. Chính tôi đẩy xích đu cho con, đưa con lên giường đi ngủ hằng đêm, hôn con khi con bị ngã. Cứ ngồi xuống nghỉ ngơi thì tôi lại lo lắng; với cảm giác căng thẳng gặm nhấm cõi lòng mà lo lắng. Tôi lo thu nhập không đủ để trang trải cho chi phí sinh hoạt tháng này. Tôi lo về Noel còn cách bốn tháng nữa. Tôi lo cơn ho của Mia sẽ biến chứng thành viêm xoang khiến con không đi nhà trẻ được. Tôi lo Jamie sẽ càng ngày càng quá đáng, rằng chúng tôi sẽ cãi vã, rằng anh ta sẽ rút lại đề nghị đi đón con ở nhà trẻ vào tuần đó hòng gây khó dễ cho tôi. Tôi lo rằng tôi sẽ phải đổi lịch làm việc, hoặc thậm chí là nghỉ hẳn.

Mỗi một người bố, người mẹ đơn thân chênh vênh trên cái nghèo đều hành động như tôi. Chúng tôi làm việc, chúng tôi yêu, chúng tôi sống. Và tất cả những căng thẳng, kiệt quệ đến từ tất cả khiến chúng tôi trống rỗng. Trơ lì. Trở thành bóng ma của mình ngày xưa. Đó là cảm giác của tôi vào những ngày sau vụ tai nạn, như thể tôi chưa hoàn toàn đặt chân xuống mặt đất. Tôi biết rằng bất cứ lúc nào một cơn gió đều có thể nổi lên và bốc tôi đi.