Chương 21 Nhà Hề
Tôi gọi nó là Nhà Hề. Người vợ có một niềm yêu thích những bức tranh phong cảnh của Thomas Kinkade, được treo trên hầu khắp các bức tường ở tầng một. Nhưng bên cây cầu thang dài dẫn lên tầng trên lại toàn tranh vẽ những chú hề. Những anh hề buồn bã. Những gương mặt hề mang đôi mắt như dõi theo tôi tới mọi ngóc ngách. Cô ấy còn có cả tượng hề, nhưng những bức tranh là kinh khủng hơn cả. Chúng làm tôi cảm thấy tuyệt vọng. Tôi nhìn chằm chằm mà vừa sợ vừa ghê vừa tò mò - sao lại có người muốn treo chúng trên tường nhà mình nhỉ? Nếu mất điện và ánh đèn pin bắt phải một trong những gương mặt ấy thì sao? Chẳng nhẽ họ không kinh hồn bạt vía ư?
Mỗi tháng một lần, tôi đến dọn tầng trệt, nơi hai phòng ngủ và một phòng tắm được dành cho hai con trai lớn của họ. Có vẻ hai anh chàng chưa từng sống trong những căn phòng đó, nhưng những kỉ vật từ thời ấu thơ của họ được sắp xếp gọn gàng. Tôi phủi bụi những băng catsette của nhóm nhạc Bell Biv Devor, những cuốn kỉ yếu, đồng hồ hình chuột Mickey, vỗ lại gối và sau đó đặt những con gấu bông ngồi thẳng lại. Nhưng hôm đó, vào ngày đầu tiên đi làm lại sau vụ tai nạn, tôi một lần nữa bước thẳng vào nhà vệ sinh trước.
Nhốt mình trong căn phòng nhỏ có toilet dường như là phản xạ tự nhiên của tôi để đối phó với cái trống rỗng đang lôi kéo tôi từ mọi hướng. Phòng tắm là một chỗ ẩn náu tuyệt vời. Tôi muốn nằm úp bụng xuống sàn, với những ngón tay lồng vào nhau ôm lấy đầu như thể để bảo vệ bản thân khi bão lốc đến, như thể mọi thứ sắp sụp đổ xuống. Nhà Hề, một căn nhà ba tầng bề thế nhìn ra cái thành phố mà tôi từng sống cùng Travis, sau vụ tai nạn dường như đang cho tôi thấm thía cuộc đời mình đang chênh vênh đến mức nào. Tôi không chắc chắn về tương lai của mẹ con tôi. Và mẹ con tôi rất có nguy cơ không thể trụ vững nổi về mặt tài chính.
Tôi khuỵu xuống trước toilet và hít một hơi, đếm đến năm rồi thở ra trước khi dừng gấp giấy vệ sinh thành một tam giác - một góc nhét xuống dưới, rồi đến góc kia, cho tới khi một góc rõ ràng được hình thành. Tôi đưa tay xuống tháo đôi găng tay vàng. Những mảnh kính vụn từ vụ tai nạn xe rơi ra đầy sàn.
Nước mắt làm mờ mắt tôi. Cái khoảng không gian của nhà vệ sinh, lúc trước còn đang dỗ dành tôi như một cái ôm thì giờ đã biến thành một cái thùng rác. Tôi giật nắm đấm cửa và xông vội ra, thở hổn hển. Từ cổ họng tôi vang ra tiếng nấc nghẹn trước khi tôi bật khóc. Hôm qua tại bến phà, Jamie đã lườm nguýt tôi trước khi chạy vội đến đón Mia như thể anh ta là người hùng đang cứu con gái khỏi một mụ phù thủy độc ác. Mia bắt đầu khóc đòi tôi. “Không được”, anh ta nói, “con phải đi với bố.” Lại thêm một cái lườm nữa.
Tôi ngồi trước vòi hoa sen, trán áp vào đầu gối, vuốt ve cái thảm trải sàn màu đỏ sậm. Tiếng cửa kính vỡ khiến tai tôi ù đi, và một cảm giác nghẹn thắt dâng lên trong lồng ngực. Mình đang đi làm, _tôi tự nhủ. _Mình lại suy sụp tinh thần giữa lúc đang làm việc.
Có những mảnh kính vỡ trong ngón găng tay. Tôi giũ chúng ra và đeo găng vào, nhưng nước mắt làm mắt tôi nhòa đi, thế là tôi lại rút ra, áp tay lên mặt cố che giấu phút yếu lòng.
Tôi lấy điện thoại và gọi số nhà riêng của Pam. “Em không ngừng khóc được”, tôi nói. “Pam, em không biết phải làm gì nữa. Em không ngừng khóc được.” Tôi nấc lên.
“Stephanie? Em ổn không đấy? Em đang ở đâu?” Giọng chị rất quan tâm, rất hiền hậu, làm tôi càng thêm nức nở.
“Em đang ở…” Tôi nói, đưa tay che miệng trước khi thêm những âm thanh đáng xấu hổ khác kịp thoát ra. Tôi không nhớ nổi ra tên chủ nhà. “Căn nhà lớn toàn những bức tranh hề.”
“Nhà Garrison à?” Chị hỏi.
“Đúng”, tôi nói. Có vẻ thế. “Hôm nay em đang dọn dưới nhà.” Tiếng của tôi nghe như thể tôi đang chạy. “Có mảnh kính vỡ trong đồ nghề của em. Hôm qua kính đã đổ lên khắp người Mia. Con bé có thể đã chết.”
“Ôi”, cô nói, rồi dừng lại, như thể đang tìm cách nói sao cho thích hợp. “Làm sao em biết được chứ? Người ta nói là khi lái xe ta dễ bị phân tâm bởi những suy nghĩ trong đầu… nhưng em không đỗ xe ở đó vì cho rằng một chuyện như thế sẽ xảy ra, phải không nào?”
Tôi nghĩ đến người tài xế - mà tôi đoán đang nhắn tin hoặc đốt thuốc hoặc mải nghĩ gì đó - khi ấy đã sao nhãng quay sang nhìn tôi đứng ở giữa đường. Lỗi là do tôi ư?
Pam biết tình hình tài chính của tôi. Chị biết tôi cần những giờ lao động này, rằng tôi không thể nào không làm việc mà vẫn sống khỏe re được. Sáng hôm ấy Pam đã kiên nhẫn lắng nghe tôi tâm sự chuyện phải lái xe - tay tôi đã run thế nào, tôi phải vượt qua nơi xảy ra tai nạn ra sao, cách tôi cố không nhìn những vệt bánh xe màu đen và kính vỡ trên đường, nhưng đằng nào tôi cũng vẫn nhìn chúng. Hôm nay tôi chỉ phải dọn vệ sinh có một căn nhà. Ấy vậy nhưng tôi không làm được.
“Sao hôm nay em không nghỉ đi?” Chị nhẹ nhàng khuyên sau khi đã nghe tất cả. “Và cả ngày mai nữa.”
“Mai em sẽ đi làm”, tôi phản đối. Chỉ là Nông Trại thôi mà. Đó sẽ là một thách thức. “Em sẽ ổn”, tôi đang cố gắng trấn an mình thì đúng hơn. “Có lẽ em sẽ nghỉ hôm nay để liên hệ với công ty bảo hiểm và lên kế hoạch, sau đó em sẽ bình tâm lại”, tôi nói và niềm tin trong tôi bắt đầu dâng lên.
“Được”, Pam nói, có lẽ còn mỉm cười. “Vậy thì chị cần em đi làm lại. Em cứ khóc như thế này không tốt đâu.” Chị dừng lại. Tôi nghe có tiếng tivi đằng sau. “Hãy tin vào sức mạnh của em”, chị nói thêm. Nhưng tôi khó mà tin là thứ đó còn tồn tại.
Khi kết thúc cuộc gọi, tôi thở dài vì lúc trước không nhận ra mình cần được đồng cảm đến mức nào. Hôm qua bố đã mắng tôi qua điện thoại vì tôi đăng vụ tai nạn lên Facebook. Ông nói bất cứ ai cũng có thể trông thấy bức hình chiếc xe tàn tạ của tôi và dùng nó để chống lại tôi.
“Phải là bạn bè của con thì mới thấy được”, tôi nói, bực mình vì sự lo xa của bố và cảm thấy tổn thương vì dường như đó là điều duy nhất khiến bố tôi quan tâm. “Con cần phải nói với mọi người, bố ạ.”
“Bố không nghĩ con nên chia sẻ chuyện đó”, bố tôi gắt. “Con có nhận ra công ty bảo hiểm sẽ nghĩ đó là lỗi của con không? Con đã bao giờ nghĩ thế chưa?” Nhưng bố không hiểu và chẳng thể hiểu tôi cần được ủng hộ đến mức nào vào lúc đó, dù là từ những lời bình luận người ta để lại dưới tấm hình, mặc cho họ ở cách xa ngàn dặm.
“Vâng”, tôi dịu giọng. “Vâng, con đã nghĩ rồi.” Tôi dừng lại, nghe ông rít một hơi thuốc và thở ra. Tôi ước giá mà bố mời tôi sang chơi và đề nghị gọi pizza. Gì cũng được, miễn không phải một bài rao giảng đạo lí. “Con… bận rồi, bố ạ.” Tôi để ý là bố không hề nói yêu tôi trước khi tạm biệt. Nhưng tôi cũng đâu có nói.
Thay vì về nhà, tôi đến bãi phế liệu để dọn xe của mình. Những chuỗi vòng cổ và bông cúc bằng thủy tinh màu vẫn được treo trên kính chiếu hậu. Tôi lấy cốc uống cà phê do một người bạn làm, đựng vừa xinh hai cốc espresso. Tôi tháo hình dán “Con gái Alaska là phải chất” ra khỏi cửa sổ phía sau. Tôi chụp hơn 10 tấm hình phần đuôi xe Ruby bị móp méo đến không còn nhận ra nổi. Góc sau bị ép lại đến gần nắp bình xăng giờ lồi ra về phía sau, nhăn nhúm như một miếng thiếc bị vứt bỏ.
Tôi đặt tay lên góc rìa của cửa kính hậu, ở chỗ cần gạt nước không chạm tới được. Tôi nhắm mắt, cúi đầu. Tôi thề là mình cảm nhận được sự đau đớn của nó.
Khoang xe này đã bảo vệ con tôi an toàn, thế mà giờ đây sắp bị bán từng phần và cán dẹt. “Cảm ơn mi”, tôi nói với Ruby.
Đến giữa chiều, tôi ngồi trên sofa, nhìn ra bầu trời xám xịt như sắp mưa tầm tã. Hôm thứ Ba trời nắng nóng, nhưng thời tiết đã tiếp tục lạnh lẽo ẩm ướt như thường lệ vào mùa thu tại Washington. Tôi cố gắng suy nghĩ tích cực rằng may mà hôm đó trời không mưa, chứ không thì hai mẹ con đã ướt như chuột lột. Tôi không thể tin rằng vụ tai nạn mới cách nay có hai ngày.
Tôi đi đi lại lại trong khoảng vuông thoáng đãng trong căn hộ, điện thoại áp vào tai, lắng nghe tiếng nhạc giao hưởng rè rè. “Chị vui lòng gửi cho tôi số series của chiếc ghế an toàn và chúng tôi sẽ gửi séc thanh toán”, đại lí một công ty bảo hiểm khác nói qua điện thoại sau đó vài phút. “Chúng tôi cũng có thể thanh toán cho chị tiền nghỉ làm. Ngoài ra, chúng tôi sẽ trả tiền thuê và chuyển xe của chị đến một chỗ đỗ khác. Chúng tôi theo dự kiến sẽ bồi hoàn tiền sửa chữa hoặc giá xe vào…”
“Đợi đã”, tôi nói. “Vậy là không phải lỗi của tôi? Phía bên bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm?”
“Đúng vậy”, cô ấy nói. “Chúng tôi chịu toàn bộ trách nhiệm cho tai nạn này. Chị đã đánh xe vào vệ đường, chị gặp tai nạn khi đã đỗ xe. Chị không có lỗi trong vụ việc này.”
Giọng cô ấy vô cùng chân thành. Đây không phải lỗi của mình. Đây không phải lỗi của mình. Tôi thậm chí bắt đầu tin vào điều đó.
Gần như suốt cả phần đời làm mẹ, tôi luôn sợ hãi đi nhón chân trên sàn nhà, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, đến nỗi không dám tin vào nền nhà nữa. Mỗi lần tôi xây lại móng, tường, sàn và thậm chí là một cái mái nhà che nắng che mưa, tôi lại chắc chắn nó sẽ sập xuống một lần nữa. Việc của tôi là sống sót qua những tai ương, phủi bụi cho tấm thân mình, sau đó bắt đầu lại từ đầu. Thế là tôi quyết định tin bản năng của mình và khi trở lại làm việc, tôi bảo Pam rằng tôi chỉ có thể dọn một nhà một ngày. Đến lúc tôi chở Mia đến nhà trẻ, lái xe đến một nhà và dọn dẹp xong xuôi thì viễn cảnh lái xe đến một nhà khác và bắt đầu lại từ đầu thật quá sức chịu đựng. Tôi quá chán ngán rồi.
Trở lại Nhà Hề sau hai tuần, tôi kéo đồ nghề lên cầu thang, đi qua những cặp mắt theo dõi mình tới tận nhà vệ sinh chính. Trong đó có bồn rửa đôi, một buồng tắm đứng cỡ bằng bàn ăn tiêu chuẩn, một bồn tắm xịt ở một bệ đặt trong góc. Bồn tắm một lần nữa khiến tôi sững sờ. Có gì đó ở nó cho tôi cảm giác được ôm ấp, hoặc kiềm giữ. Tôi ngồi bên trong, một bên đầu gối co lên trong lúc gọi điện cho luật sư. Tôi vẫn cần phải biết cách sống tiếp sau thiệt hại tài chính mà vụ tai nạn gây ra.
Tôi kể cho luật sư nghe toàn bộ về vụ tai nạn và công ty bảo hiểm cam kết sẽ chi trả cho những gì, nhưng số tiến đó không đủ cho tôi trả nợ. Tôi cần xe ngay lập tức. Ông ấy đưa ra một vài vấn đề chủ chốt cần nêu ra vào lần tiếp theo nói chuyện với người nhân viên bảo hiểm phụ trách vụ của tôi. Khi tôi gọi cho cô vài giờ sau, giọng tôi run run khi nhắc lại những lời đã tập trước.
“Con gái và tôi bị ảnh hưởng vô cùng nặng nề từ vụ tai nạn”, tôi nói, cố không như đang đọc thuộc. “Con bé ngủ không yên và dễ giật mình vì những tiếng động lớn.” Tôi kể về chuyện hễ nghe thấy tiếng đề nổ của xe nhà hàng xóm là Mia lại giật mình, có lúc còn khóc lóc chạy đến bên tôi. Tôi nhắc đến mức độ căng thẳng của chính mình, tôi không thể hoàn thành các công việc trước kia có thể dễ dàng làm trọn vẹn. “Căng thẳng thần kinh mà chúng tôi đang phải hứng chịu, liên tục cảm thấy chấn động vì tai nạn đó, cùng với khả năng tài chính bấp bênh không thể mua một phương tiện thay thế đang khiến chúng tôi gặp vô vàn khó khăn.” Tôi hít một hơi sầu. “Chúng tôi cần được điều trị. Tôi cần gặp chuyên gia tâm lí và có lẽ là điều trị thuốc thang nữa. Mia cũng cần được giúp đỡ. Tôi không thể mua một chiếc xe mới.” Tôi dừng lại hít một hơi sâu tiếp theo. “Nếu công ty của cô không đồng ý chi trả toàn bộ tiền chữa trị chấn động tinh thần của chúng tôi, tôi sẽ tìm một luật gia để được bù đắp hợp lí.” Tôi vừa nói vừa nhìn từng dòng chữ trên giấy, nhưng đến dòng cuối thì ngón tay tôi không thể nhúc nhích nổi. Tôi ngồi đó, run rẩy và chờ đợi.
“Tôi sẽ xem xem có thể làm gì và gọi lại cho chị sau”, cô ấy nói. Một giờ sau, cô ấy gọi lại đề nghị trả toàn bộ tiền nợ mua xe và thêm hơn 1.000 đô để mua xe mới, cộng với đền bù tiền lương. Tôi cố bình tĩnh cảm ơn, nhưng thầm ước giá mà cô ấy có thể thấy nụ cười của tôi khi cúp máy. Tôi đã không cười như thế từ lâu rồi.
Nhiều ngày liền, tôi tìm trên mạng những quảng cáo rao vặt, nhưng một chiếc xe tốt với giá 1.200 đô la thật sự rất khó kiếm. Sau đó, tôi đã thấy nó. Một chiếc Honda Civic nhỏ đời 1983 màu xanh dương. Travis và Mia cùng đi xem. Một cặp vợ chồng lớn tuổi sở hữu một cửa hàng nhỏ đã bỏ ra 2.000 đô để sửa sang chiếc xe này cho cháu. Họ tân trang động cơ, thay phanh và thay lốp. Người cháu thấy không cần xe nên đã bán đi. Nó kêu rừ rừ. Nó là xe số sàn. Hiện giờ nó thuộc về một cặp vợ chồng trẻ đã không làm giấy tờ sang tên để tiết kiệm chi phí. Tôi trả 1.100 đô. Họ đồng ý. Mia và tôi đặt tên nó là Ngọc Trai, một thứ sáng nhất xuất hiện trong không gian u ám.
Ngọc Trai giúp chúng tôi đi lại hằng ngày ngon nghẻ, và nhờ nó mà mức độ căng thẳng của tôi tụt xuống nhiều, ơn trời là lịch làm việc của tôi vẫn kín mít, âu đó cũng là một cách giúp tôi tạm gác lại những lo toan. Nếu có một buổi chiều rảnh rang, tôi sẽ dọn dẹp nhà cửa cho một khách hàng riêng. Tôi đăng tin nhận dọn nhà trong nhóm Facebook các bà mẹ sống tại vùng này chứ không đăng lên Craiglist nữa sau khi bắt đầu nhận được quá nhiều yêu cầu tôi khỏa thân dọn nhà hay mặc đồ hầu gái gợi tình. Lần đầu tiên chuyện đó xảy ra, gã đưa ra đề nghị coi đấy là một cách giúp đỡ tôi. Như thể công việc dọn dẹp chưa đủ thấp kém.
Sau khi trả tiền xăng xe đi lại, lương tôi nhận từ Classic Clean chỉ hơn một nửa tiền công tôi nhận được một giờ chút đỉnh. Rồi đến khi Nhà Cuối Tuần hủy lịch dọn dẹp, tôi cố gắng chỉ nhận những căn nhà trong phạm vi 45 phút đi xe, từ chối những căn ở xa hơn. Nhưng Lonnie một mực muốn tôi nhận khách hàng mới. “Sẽ đáng mà”, cô nói. “Họ rất tử tế.” Khách hàng mới này sở hữu một căn nhà lớn, tự thiết kế với những đồ gỗ tỉ mỉ và lát đá cuội. Tôi chỉ dọn dẹp vài lần và gọi nó là Nhà Đẹp. Để tới đó, tôi phải lái xe qua một con đường một làn uốn lượn qua những cây thường xanh đại thụ. Trên đỉnh đồi, nơi ngôi nhà tọa lạc, tôi có thể thấy những vùng đất canh tác nằm gọn trong thung lũng bên dưới. Cặp vợ chồng ở nhà khi tôi tới dọn dẹp. Những tấm hình chụp cô con gái đã trưởng thành và những người cháu của họ phủ kín mặt tủ lạnh và các kệ để đồ. Phòng ngủ để không bên cạnh nhà bếp hình như luôn sẵn sàng để chào đón con cháu sang chơi.
Người chồng đón tôi ở cửa, sốt sắng giúp tôi mang đồ nghề vào. Một con chó vàng lông xù vẫy đuôi và ngửi chân tôi. Tôi cởi giày và mỉm cười chào người vợ, bà cười đáp lại từ chiếc ghế mà tôi hiếm khi thấy bà rời khỏi. Lonnie, khi kể cho tôi nghe chuyện Nhà Đẹp, đã nói rằng người chồng chăm sóc vợ trong suốt thời gian bà lâm bệnh. Tôi nghĩ bà bị ung thư hoặc bệnh gì đó nghiêm trọng, có lẽ đã vào giai đoạn cuối. Tivi luôn bật, oang oang _Dr. Oz_ hoặc một chương trình cải tạo nhà cửa nào đó. Nhưng khi người vợ cất tiếng, người chồng liền vội vàng hạ âm lượng xuống. Tôi thường không hiểu bà nói gì vì tiếng bà rất khẽ và ríu vào nhau. Người chồng sẽ đút cho vợ ăn trưa và sau đó bế bà tới nhà vệ sinh trong hành lang.
Hồi xưa họ hay đi du lịch cùng nhau, và sinh con khá muộn. Các kệ giá trong phòng khách được bài trí những trống, đồ điêu khắc gõ, tượng voi bằng đá và những cuốn sách về leo núi. Mỗi khi người chồng nói về cuộc đời của họ, ông lại nhẹ nhàng hỏi vợ có nhớ cái này cái nọ không. Nếu vợ nhớ thì ông sẽ cười hiền lành và trìu mến khiến tôi hơi nhói lòng thương cho cuộc sống của họ.
Lần đầu tiên dọn căn nhà này, tôi dùng đủ lượng thời gian. Bếp và nhà vệ sinh đã lâu rồi không sạch bong, và tôi cần thêm thời gian để kì cọ các bề mặt. Xong việc, tôi mặc áo khoác rồi dừng lại vẫy chào tạm biệt người phụ nữ đang ngồi trên ghế. Bà ra hiệu cho tôi lại gần và vươn tay nắm tay tôi. Bằng tay kia, bà đưa cho tôi 10 đô.
“Đây còn nhiều hơn số tiền cháu nhận được cho một giờ làm”, tôi nói, ngạc nhiên tới độ buột miệng ra thông tin đó. “Gần gấp đôi đấy ạ.”
Bà mỉm cười và thều thào nói cảm ơn khi tôi quay gót định tiếp tục đi ra cửa. Ngạc nhiên, tôi quay lại và nói, “Trời đất, tối nay cháu sẽ tặng cho Mia một Bữa ăn Vui vẻ!” Cả hai chúng tôi cùng mỉm cười.
Khi tôi thu dọn đồ đạc, người chồng vội đến đề nghị giúp tôi mang ra ngoài garage vì mưa bắt đầu nặng hạt hơn.
Chúng tôi bỏ khay đồ nghề, giẻ lau và những túi giẻ bẩn để giặt vào cuối tuần đó trong cốp xe, sau đó ông đề nghị tôi theo ông vào garage. “Dạo này cô chú không mấy khi có khách”, ông nói và đưa tôi đồ ăn để tôi làm quen với chú chó cảnh. Cố không đỏ mặt vì được gọi là khách, tôi liền buông lời nhận xét chiếc xe máy dựng ở một góc garage. Ông mỉm cười và bảo rằng con gái ông đã ở lại một tuần mùa hè rồi nên ông có thể tham gia một chuyến đi xe máy hằng năm dọc bờ biển với vài người bạn.
Cả hai chúng tôi đều im lặng, nghe những lời không được nói ra. Tôi muốn hỏi về vợ ông, muốn biết cuộc sống của họ thế nào, sao ông có thể hạnh phúc và điềm nhiên qua tất cả. Nhưng cuối cùng, tôi chỉ thừa nhận mình cũng muốn có một chuyến vi vu. “Một hoặc hai ngày nghỉ cũng hay ạ”, tôi vui vẻ thú thực. Tôi chưa từng nói với các khách hàng về sự nhọc nhằn mà công việc lương thấp này yêu cầu.
“Thế à?” Ông hỏi một cách quan tâm chân thành. “Cháu định đi đâu?”
“Missoula, Montana ạ”, tôi nói và cúi xuống vuốt ve con chó, nghĩ rằng Mia sẽ thích có một con thú cưng như thế này. “Cháu đến từ Alaska. Có vẻ đó là địa điểm tuyệt vời thứ hai.”
“Đúng thế”, ông cười nói. “Một nơi xinh đẹp. Khoáng đạt đến không ngờ. Họ bảo bầu trời ở đó rộng hơn là đúng đấy.”
Tôi cười, để viễn cảnh đó, giấc mơ đó tràn qua tôi. “Hi vọng là mẹ con cháu sẽ có cơ hội đi”, tôi nói.
Ông gật đầu, sau đó bảo tôi đi cho kịp đón con. Khi lùi xe đi khỏi, tôi vẫy chào ông. Ở trong ngôi nhà đó cho tôi cảm giác như thể mình được chứng kiến tình yêu ở hình thái chân thực nhất. Tình yêu của họ đong đầy đến nỗi tràn cả ra ngoài.
Trong lúc lái xe về nhà, hễ nghĩ đến ngôi nhà lạ lùng đó tôi lại buông một tiếng thở dài. Hầu hết các ngày trong tuần của tôi đều ngập tràn cô độc đến nỗi khiến đầu óc tôi như tê dại. Tôi thường lủi thủi một mình - lái xe, làm việc, thức khuya để hoàn thành bài tập về nhà, trừ hai tiếng đồng hồ mỗi tối cùng Mia ăn uống, tắm rửa và kể chuyện trước khi đi ngủ. Thầy cố vấn của tôi tại trường cao đẳng cộng đồng Thung lũng Skagit đã trợn tròn mắt nhìn khi tôi bảo tôi là mẹ đơn thân làm việc toàn thời gian. “Điều em đang cố làm ở đây thật sự là không thể”, thầy nói về toàn bộ lịch học tôi đăng kí mặc cho đang mang trên mình nhiều trách nhiệm khác. Sau buổi gặp với thầy, tôi ra bãi đỗ xe, ngồi lên xe mà suốt một hồi lâu không hề nổ máy.
Bài tập về nhà không khó, chỉ có điều dễ gây bực dọc. Tôi phải hoàn thành các môn cơ bản như toán và khoa học, được những học viện giáo dục cấp cao hơn cho rằng ta cần hoàn thành, cần bỏ tiền ra học, cần có được một chứng chỉ. Tôi được chuyển một số học phần đã hoàn thành từ hồi hai mươi tuổi sang, nhưng tôi vẫn cần phải lên lớp và giao tiếp, đương nhiên là bằng phương pháp học trực tuyến, một mình ngồi trước máy vi tính theo một cách vô cùng nực cười.
Nếu trong tuần mà chưa làm hết các bài tập, tôi sẽ hoàn thành nốt vào những hôm cuối tuần Mia ở chỗ Jamie. Tôi có thể làm trước các bài tập. Lớp này hòa vào lớp khác. Tôi học một khóa nhân chủng học, một khóa về thời tiết, tất cả kiến thức bay biến khỏi đầu óc tôi ngay sau bài kiểm tra được phép tra cứu. Tôi không hiểu sao mình phải dành quá nhiều thời gian, tiền bạc và năng lượng vào trường học. Mới đầu tôi thấy con đường học vấn sẽ còn dài dằng dặc mới đến được điểm dừng. Và tôi cũng không biết điểm dừng ấy sẽ thế nào. Tôi chỉ biết rằng muốn thế, tôi phải hoàn thành bài tập về tên của các loại mây khác nhau. Và, nói dối về thời khóa biểu của tôi.
Vào những ngày cuối tuần dài đằng đẵng không có Mia và không bị bài tập về nhà bủa vây, tôi thường đờ đẫn ngồi bên cái bàn bếp tròn mà nhìn ra ngoài cửa sổ. Mỗi ô kính cửa đều bị phủ một lớp sương mỏng khiến tôi hễ ở nhà là đều lau vài lần mỗi ngày. Tôi có cảm giác sự khác biệt duy nhất giữa “bên ngoài” và “bên trong” chỉ là sự chênh lệch nhiệt độ chút đỉnh và một ô kính cũ.
Cùng với tiết trời mù sương, tôi lao vào trận chiến không khoan nhượng với mốc đen khiến Mia và tôi đổ bệnh. Mia dường như thường xuyên bị thò lò mũi xanh. Tôi ho hắng như thể làm việc ở mỏ than, có lúc tới phát nôn ra. Một lần nọ, trong cơn hoảng hốt sau khi thử lên mạng tra cứu tự chẩn đoán bệnh tình cho mình, tôi đã đến trung tâm chăm sóc khẩn cấp. Tôi không thể xoay đầu, và tôi tưởng mình bị viêm màng não. Hai tuần sau, tôi nhận được hóa đơn 200 đô cho vài phút nói chuyện với bác sĩ. Tôi gọi cho bên kế toán của phòng khám trong lúc tức giận, sẵn sàng không thèm thanh toán hóa đơn, không quan tâm nó sẽ gây ảnh hưởng gì cho uy tín của mình. Sau khi điền vài tờ đơn, tôi cuối cùng cũng thuyết phục được họ giảm tiền khám cho tôi thông qua một chương trình dành cho bệnh nhân có thu nhập thấp. Tất cả những gì tôi phải làm là gọi điện hỏi. Tôi luôn ngạc nhiên vì những chương trình như thế thường không bao giờ được công khai. Kế toán chỉ gọi điện tới để thông báo về phương thức thanh toán, chứ không phải cách để giảm viện phí tới 80%.
Thời tiết giam chân tôi ở nhà đồng thời cũng khiến tôi phải ngắm nghía thật kĩ cái nơi mà mình gọi là nhà. Tôi nghĩ đến những khách hàng neo đơn. Tôi tưởng tượng họ đi qua các căn phòng trống trải với những vệt hút bụi vẫn hiển hiện trên tấm thảm trải sàn. Tôi không muốn giống như họ. Cuộc sống của các khách hàng, những ngôi nhà mà họ phải làm việc vất vả để kiếm tiền mua cho kì được, không còn là giấc mộng của tôi nữa. Dù tôi đã mất nhiều thời gian để buông bỏ giấc mơ đó, nhưng vào những giây phút thành thật với lòng mình nhất, trong lúc quét dọn những gian phòng ê hề sắc hồng, hoa hoét, búp bê, tôi vẫn đành phải thừa nhận rằng tôi rất mong con được hưởng cuộc sống này. Tôi không thể không phân vân liệu rằng những gia đình sống trong các căn nhà có vô tình lạc mất nhau trong những căn phòng đầy trò chơi điện tử, máy tính và tivi chăng.
Căn hộ studio này, mặc dù đầy khiếm khuyết thì vẫn là mái nhà của mẹ con tôi. Tôi không cần một phòng tắm rộng thênh thang và một garage. Đằng nào tôi cũng khó mà giữ chúng sạch sẽ. Mặc cho tất cả, sáng sáng tôi vẫn tỉnh dậy, và được yêu. Tôi ở đây. Trong căn phòng nhỏ này. Tôi ở đó, chứng kiến những bài nhảy múa cùng vẻ mặt ngô nghê, ngộ nghĩnh của Mia mỗi giây mỗi phút. Tôi coi nơi đây là mái ấm vì ở nơi này, chúng tôi yêu thương nhau.