Chương 22 Bình yên bên Mia
Khi nhiệt độ giảm, đêm đêm tôi thường nằm trên giường, mắt dõi lên trần nhà và cắn môi lo lắng mỗi khi nghe thấy tiếng rèn rẹt vọng lên từ máy sưởi chân tường. Mia và tôi ngủ chung trên chiếc giường đôi chật hẹp cho ấm. Tôi treo chăn và ga giường lên cửa sổ để ngăn cái lạnh len lỏi vào. Khi băng giá kiên trì phủ lên mặt đất và cửa sổ của chúng tôi, tôi liền khép chặt mọi cánh cửa sổ lớn nhỏ ở buồng ngủ lại và hai mẹ con sống trong cái phòng nhỏ là buồng khách và buồng bếp, rộng gần bằng phòng ngủ dành cho khách hoặc các phòng làm việc mà tôi thường quét dọn. Mỗi tối, tôi lại kéo sofa ra để hai mẹ con nằm ngủ. Mia thích thú nhún nhảy trên đó. Cái ghế cũng khá rộng rãi, nhưng con bé vẫn co người ngủ dán vào lưng tôi, tay choàng ôm cổ tôi, hơi thở ấm nóng phả vào vùng da giữa hai xương vai tôi. Mỗi sáng khi chuông báo thức bắt đầu kêu và rung lên trong bóng tối, tôi liền nằm ngửa ra để thư giãn xương cốt. Mia sẽ ôm cổ tôi, sau đó áp tay lên má tôi.
Một tối sau Noel, cơn mưa mùa đông đã hóa thành những bông tuyết nhỏ dày cả tấc phủ trên mặt đất. Mia và tôi đã thức quá giờ đi ngủ thường lệ của con để ngắm tuyết, biết rằng ngày mai chúng tôi sẽ chẳng thể lái xe đi đâu. Mia mặc bộ đồ đi tuyết vào và dưới ánh đèn đường, con bé nằm lên nền tuyết mà huơ tay huơ chân tạo thành hình thiên thần, trong khi đó tôi đo độ dày lớp tuyết phủ trên capo của Ngọc Trai - những 35 xentimét. Tôi chưa từng thấy một trận bão tuyết nào như thế kể từ hồi sống ở Alaska.
Sáng hôm sau Pam gọi điện bảo tôi ở nhà. Chị không muốn tôi kẹt giữa đường đến nhà các khách hàng. Chỉ cần tuyết dày chừng một tấc là hầu hết mọi hoạt động của miền tây bắc đều đình trệ. Ngay cả đường cao tốc dưới căn hộ của chúng tôi cũng im ắng, chỉ lác đác vài chiếc xe đỗ lại nhưng chủ nhân của chúng không biết đã đi chốn nào.
Mia mặc đồ ngay lập tức, không hề kêu ca về cái quần đi tuyết vẫn còn ướt vì đêm trước, háo hức hỏi khi nào hai mẹ con có thể ra ngoài. Một thầy giáo cũ của tôi sống gần đây đã gửi tin nhắn qua Facebook, hỏi tôi có cần xe trượt tuyết không. Thầy bảo thầy có một chiếc còn rất được, có trang bị dây thừng và đầy đủ mọi thứ; tôi cứ đến nhà thầy mà lấy - thầy đã để sẵn ở ngoài hiên rồi. Khi tôi kể với Mia, con bé liền bắt đấu nhảy tưng tưng và hỏi, “Bây giờ luôn nhé? chúng ta đi luôn được không mẹ?” Tôi do dự. Mọi thớ cơ trong người tôi đều thèm muốn được lười nhác lún mình trong chiếc ghế sofa, đi tất len và nằm lười nhác. Nếu tôi thực sự để mình dám mơ mộng, tôi sẽ còn ước có cả một lò sưởi bập bùng, những cuốn sách cùng một chú chó cuộn tròn dưới chân nữa.
“Đi bộ xa đấy nhé”, tôi bảo Mia, dù biết rằng chuyện đó sẽ chẳng là gì với con. Dù tôi có nói rằng chúng tôi sẽ phải đi bộ cả ngày thì sự phấn khích của con cũng sẽ không suy suyển. Với một đứa bé ba tuổi thì một chặng đường dốc kéo dài một dặm bì bõm lội trong lớp tuyết ngập tới tận đùi sẽ là rất dài. Tôi sẽ phải cõng con gần như cả quãng đường. Được nửa đường tới cái hiên nhà nơi chúng tôi sẽ tìm thấy chiếc xe kéo mới như một chiến lợi phẩm, tôi phải dừng lại. Tôi ngoái đầu về phía sau nhìn toàn cảnh thành phố đang chìm trong màn tuyết dày và sự im lặng.
Mia và tôi dành gần hết buổi sáng ở ngoài trời, tôi kéo con ngồi trên chiếc xe trượt tuyết qua khu dân cư, mặc con bé thỏa thích nằm úp bụng, ăn từng nắm tuyết. Tôi liên tục thấy những cái máy xúc tuyết trên những con phố chính và bắt đầu tự hỏi liệu chúng có tới chỗ chúng tôi không. Ngôi nhà nơi chúng tôi đang sống tọa lạc trong góc thấp nhất của một con hẻm. Cứ ra ngoài là chúng tôi đi ngược dốc. Ngọc Trai là môt chiếc xe nhỏ nên bánh xe chỉ cỡ bằng của chiếc xe kéo Red Rider mà tôi thi thoảng vẫn kéo Mia đi đây đó. Tôi không có lốp chuyên dụng hoặc xích để đi tuyết, và cũng chẳng có tiền mua.
Sau khi mặt trời đã sưởi ấm lớp tuyết gần như cả ngày, nhiệt độ ban đêm lại hạ thấp xuống dưới mức đóng băng, và ngày hôm sau cũng chẳng hề ấm áp hơn. Con đường bị phủ một lớp băng dày. Tôi quan sát những người hàng xóm ở tầng trên cố đánh xe lên hẻm nhưng đều thất bại. Một ngày làm việc nữa lại đi tong. Có lẽ tôi có thể tạm thời chưa thanh toán thẻ tín dụng tháng đó, hoặc rút tiền từ một thẻ chưa đáo hạn và chuyển vào tài khoản ngân hàng rồi chi tiêu. Đã qua nửa tháng nên tôi đã trả xong phần lớn các hóa đơn, nhưng hai tuần nữa tôi mới được nhận lương và đến lúc ấy thì một loạt khoản khác sẽ lại cần được chi trả. Với thời tiết kiểu này, tiền lương của tôi sẽ giảm khoảng 100 đô.
Vào hầu hết những ngày có tuyết rơi, mẹ con tôi thường quanh quẩn trong phòng khách và bếp. Trong phòng ngủ, nhiệt độ thấp đến nỗi chúng tôi có thể thấy sương giá kết tinh trên các cửa sổ lớn, và Mia phải mặc áo khoác trước khi chơi đồ chơi. Vì tivi chỉ bắt được các đài địa phương nên Mia đành xem các đĩa DVD yêu thích hết lần này tới lần khác. Bộ phim hoạt hình vũ công ba lê Hello Kitty, với giọng các nhân vật cứ lanh lảnh, khiến tôi nhức đầu. Cuối cùng tôi tắt tivi và hai mẹ con cùng nhau tô màu nước.
Mia tô màu trong khi tôi gật đầu tán thưởng hoặc đọc truyện cho con. Tôi không mấy khi có thời gian chơi cùng Mia - thường chỉ vào các ngày cuối tuần mà Mia không ở chỗ bố. Vì không dư dả gì nên tôi phải sáng tạo để giúp cơ thể giàu sức sống và bộ óc giàu năng lượng của con bé được thỏa mãn. Nếu trời mưa, tôi không có tiền để đưa con đi chơi ở Bảo tàng Trẻ em hoặc thậm chí là trong Khu vui chơi McDonald. Chúng tôi cũng chẳng hưởng thụ những ngày nắng vàng trong sở thú hay công viên nước.
Đôi lúc chỉ việc đi sau một gia đình có đầy đủ cả bố lẫn mẹ trên vỉa hè cũng có thể thổi bùng lên cảm giác xấu hổ vì cô độc trong tôi. Tôi nhìn họ, những con người mặc những loại trang phục mà tôi chẳng đủ tiền mua, với túi bỉm được đặt gọn trong chiếc xe nôi đắt tiền. Những người mẹ đó sẽ nói những điều mà tôi không bao giờ được nói: “Anh cầm giùm em nhé?” hay “Anh bế con một lát giúp em với!” Đứa bé sẽ được chuyền từ tay mẹ sang bố bế. Có không biết bao nhiêu lần tôi bảo Mia phải tự đi vì tôi đã mỏi tay lắm rồi không bế nổi nữa.
Những ngày trời đổ tuyết, tôi luôn cố gắng dẹp yên giọng nói mặc cảm tội lỗi và xấu hổ rằng biết đâu Mia sẽ sung sướng hơn nếu sống với một người khác, rằng biết đâu quyết định đưa con bé tới với thế giới này của tôi là sai lầm. Tôi tì cằm trên tay và chăm chú quan sát con vẽ thêm một cái mặt cười nữa. Cả hai mẹ con đều mặc áo len và đi tất. Không khí có mùi băng giá.
Tim tôi nhói đau hơn thường lệ vào những tháng tôi phải chứng kiến con chật vật qua những lần từ nhà tôi sang nhà bố. Những Chủ nhật tôi lái xe đi đón Mia trở thành những buổi chiều căng thẳng và cáu gắt cho cả hai mẹ con. Hầu hết năm ngoái, khi tôi đón Mia vào những buổi chiều như thế thì con ngủ suốt gần hết đường về nhà vì mệt mỏi rã rời sau những ngày cuối tuần Jamie dẫn con bé đi diễu khắp nhà bạn bè để chứng tỏ mình là một ông bố tốt. Nếu không ngủ, con bé sẽ khóc đòi Jamie, khiến tôi vừa đau lòng vừa bực bội. Tôi chưa bao giờ hối hận vì lựa chọn sống ở Washington nhiều như trong những buổi chiều ấy. Cái nghèo khó giống như một vũng bùn kéo chân chúng tôi mãi không buông.
Vào Chủ nhật gần nhất trước trận bão tuyết này, Mia đã gào thét với tôi suốt chặng đường, trọn vẹn chín mươi phút lái xe từ bến phà về căn hộ. Tôi không biết đã xảy ra chuyện gì, anh ta đã nói những gì để khiến con bé uất ức đến thế. Chiều hôm đó, Mia đã hét lên với tôi bằng cái giọng thú tính, nguyên thủy mà con từng dùng sau ca thủ thuật.
“Con ghét mẹ!” Con bé đay đi đay lại và đá chân. “Con muốn giết mẹ! Con muốn mẹ chết đi!” Bố nó đã lợi dụng mọi cơ hội để thao túng con bé nghĩ rằng chính tôi là thủ phạm chia cắt hai bố con, đã tỉ tê rằng anh ta vô cùng buôn rầu khi không có con sống cùng. Nếu Jamie thực lòng muốn hai bố con có nhiều thời gian với nhau hơn nữa, anh ta sẽ cố gắng. Ít nhất anh ta sẽ giữ cho con một căn phòng riêng. Nhưng con bé nào có nhận thức được những thứ sâu xa như thế. Anh ta chỉ thích con bé khóc đòi bố mà thôi. Khi Mia mới một tuổi, con bé đã trở về với tôi mà khóc mãi không dứt, và tôi đã ôm con suốt nhiều giờ, mặc cho cơ thể con căng cứng vì giận dữ và đau đớn, những tiếng la hét và nước mắt nóng hổi cứ thế lã chã tuôn rơi tới khi giọng con khàn đi và kiệt sức. Tất cả những gì tôi có thể làm là ôm con trong tay, ước mong bé con của tôi được bình yên.
Chiều hôm xảy ra bão tuyết, tôi thư thả uống trà và cà phê, nhìn con gái vừa ngâm nga mấy bài hát vừa nhúng cọ vào màu mới. Mia còn quá nhỏ, con bé chưa biết cách nói ra sự mất mát, bối rối, buồn bã, mong mỏi, hoặc giận dữ của mình. Tôi thừa hiểu, nhưng điều đó không làm vơi bớt những buổi chiều khủng hoảng như thế. Tôi luôn theo bản năng ôm lấy con, nhưng Mia cứ đấm đá và hét thậm chí còn lớn hơn. Có lúc tôi hét trả. Tôi chắc chắn âm thanh thừa sức lọt qua bức tường mỏng của căn hộ này, và hàng xóm của tôi sẽ ngày một quan ngại. Những lúc như thế, tôi thật sự không biết phải làm gì. Tôi không có ai giúp đỡ, chẳng thể gọi điện tâm sự với bố mẹ, cũng chẳng ai dạy tôi phải làm mẹ như thế nào. Tôi chỉ đành yêu cầu con im lặng và đối diện với một cuộc đời bị ném từ người chăm sóc này sang người khác: Con bé gào thét từ bên dưới gánh nặng đó. Làm sao một bà mẹ nội trợ, có những đứa con ăn vạ vì những chuyện vặt vãnh, có thể thấu hiểu sự uất ức của con tôi cho được?
Không phải là tôi không cố mở lòng với người khác. Mùa thu năm ấy, nhà trẻ của Mia mở một buổi họp phụ huynh vào buổi tối hoặc một dạng tiệc tùng gì đó và tôi có nán lại trò chuyện với mọi người. Hầu hết những bạn học của Mia đều có cả cha lẫn mẹ. Chúng vây quanh bà Judy, tắm đẫm trong sự vui vẻ của bà. Mia cứ chạy tới lui cùng một nhóm trẻ, để lại tôi đứng trơ trọi một mình, và tôi nghe hai người phụ nữ bên cạnh ca thán về đức ông chồng. Tôi không thể nào không quay đầu sang nhìn họ, và họ cũng nhận ra tôi đã nghe thấy.
“Một mình nuôi con thật khổ cho chị quá!” Một người nói với tôi, sau khi đã nghe bạn mình phàn nàn. Tôi gật đầu, ép hai khóe môi nhướn lên cho giống như đang mỉm cười.
“Stephanie”, một người phụ nữ khác nói, “chị là mẹ đơn thân nhỉ? Bạn tôi vừa trải qua một cuộc li hôn kinh khủng, và cô ấy đang rơi vào tình cảnh khó khăn. Cô có biết có cơ quan nào giúp được cô ấy không?”
“À, có”, tôi nói và lo lắng nhìn quanh. Có ba người phụ nữ đứng quanh cái bàn bên cạnh, cầm những đĩa nhỏ xíu đựng các que cà rốt và những miếng bông cải xanh. Tất cả đều đang nhìn tôi. Một bà mẹ đơn thân “hàng thật giá thật”. Tôi nói ra vài chương trình trợ cấp thực phẩm và chăm sóc trẻ nhỏ.
Một bà mẹ, có dáng người thấp lùn, tóc nâu cắt ngắn và gương mặt tròn trịa, liền khịt mũi và ngẩng cao đầu. “Mùa đông năm ngoái khi anh Jack nhà tôi tạm thời thất nghiệp”, cô nói, “cả ba người nhà tôi đã phải chuyển vào ở cùng bố mẹ tôi. Nhớ chứ?” Cô ta huých người phụ nữ bên cạnh. “Chúng tôi phải chui rúc trong căn phòng chật chội với cái giường nhỏ của Jilly kê sát tường. Chúng tôi giống như người vô gia cư. Chúng tôi không nhà không cửa!” Người bạn bị huých liền gật đầu, vẻ mặt buồn rười rượi. “Nhưng ơn Chúa là tình cảnh của chúng tôi chưa đến nỗi quá bi đát.”
Một người mẹ khác gật đầu. Tất cả đều quay sang tôi chờ đợi một cyầu nói. Tôi nhìn đĩa khoai tây chiên và xúc xích đẫm nước xốt đã bị Mia bỏ quên. Vì tôi không đem gì đến nên quyết định không ăn chút nào. Tôi hoàn toàn không biết phải nói gì. Họ sẽ bình luận ra sao về căn phòng của mẹ con tôi? Tôi không thể cho con tôi một mái nhà, đồ ăn ngon, và phải chấp nhận tiền bố thí để thuê được cái chốn ở toen hoẻn đó. Một khi đã phụ thuộc vào trợ cấp xã hội thì ngặt một nỗi là khi tôi càng cố cải thiện cuộc sống thì càng gặp nhiều chông gai. Có đôi lần thu nhập của tôi vượt qua mức giới hạn vài đồng, thế là tôi mất hàng trăm đô tiền trợ cấp. Vì có công ăn việc làm nên tôi phải báo cáo thu nhập hằng tháng. Kiếm được thêm 50 đô có thể khiến khoản đồng thanh toán cho nhà trẻ tăng lên tương đương. Có lúc tôi còn mất hoàn toàn tiền trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ. Ở đây không có một sự khích lệ hay cơ hội tiết kiệm tiền nào cả. Hệ thống khóa chặt lấy tôi và không cho tôi đường thoát.
Một bà mẹ trong nhóm hỏi ai vừa li hôn và họ vui vẻ tám chuyện tiếp, còn tôi thì nhân cơ hội đó liền lẳng lặng bỏ đi mất.
Có lẽ họ có đôi chút đồng cảm với tôi. Có lẽ sợi dây ràng buộc hôn nhân khiến họ cô độc hơn tôi tưởng. Có lẽ tất cả chúng tôi đều khát khao một cái gì đó, nhưng chúng tôi đều đã tuyệt vọng cho rằng mình chẳng bao giờ có được nó.
Tôi nghĩ đến những lần ăn vạ của Mia, về chuyện suýt mất con trong vụ tai nạn, tới chuyện chúng tôi phải mặc áo khoác trong nhà chỉ vì không dám bật máy sưởi. Tôi nghĩ đến những ngày cuối tuần vắng bóng Mia được tôi dùng cho việc cọ toilet và sàn nhà.
Mùa đông năm ấy, tôi đưa ra thêm một quyết định nữa và viết những bài nhật kí trên mạng theo một hướng mới. Cho đến thời điểm đó, blog của tôi chỉ toàn những khó khăn trong cuộc sống, không biết phải giãi bày ở đâu. Thi thoảng, tôi viết về kỉ niệm vui vẻ, trong sáng của hai mẹ con. Từ bây giờ tôi quyết định thay đổi màu sắc cuộc đời của chúng tôi và chỉ tập trung vào những hồi ức tươi đẹp. Tôi gọi nó là Bình yên bên Mia. Tôi muốn lưu giữ chúng, những kỉ niệm như tôi đang có: Ngồi bên bàn, trầm ngâm suy tư trong khi quan sát Mia vẽ tranh, để giữ nó mãi mãi tươi mới trong tâm trí tôi.
Nhật kí trên mạng trở thành một cuộc đời tôi khao khát, một lối thoát được dựng nên hình ảnh và câu từ, một phương tiện đưa tôi vượt lên trên mọi căng thẳng và sợ hãi của cuộc sống để tập trung vào tình yêu lớn nhất - con gái và đam mê viết lách. Tôi đã chụp một bức hình Mia đang suy tư. Những giây phút đó giúp tôi có cảm giác tôi ở bên con nhiều hơn bình thường.
Đây không phải cuộc sống tôi muốn đem đến cho hai mẹ con, nhưng nó lại là cuộc sống chúng tôi hiện có. Cuộc đời chúng tôi không mãi mãi thế này. Tôi phải tự nhủ lòng như thế, nếu không cái mặc cảm tội lỗi vì đã coi căn phòng này là một mái ấm, vì đã nói với con gái rằng mẹ chỉ có thể cho con một nơi ở và đồ ăn chừng này, sẽ nuốt chửng tôi mất. Tôi rất muốn con được sống trong một ngôi nhà với sân sau có hàng rào bao quanh và một khoảnh sân trước lát xi măng hoặc vỉa hè để con vui vẻ nhảy chân sáo đùa nghịch. Mỗi lần hai mẹ con tôi chơi trò “tưởng tượng ngôi nhà trong mơ”, Mia đều thỏ thẻ là muốn một bãi cát và xích đu như ở trường. Hình dung chúng tôi sẽ đi đến đâu, sống ở đâu, làm gì, dường như là một vấn đề quan trọng đối với cả tôi và con bé.
Đây là khởi đầu cho cuộc hành trình của hai mẹ con. Sự bắt đầu. Ngồi bên cái bàn đó, tôi cảm giác như thời gian tạm ngừng trôi trong một nhịp quệt màu của con. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi thấy ấm áp. Chúng tôi có nhau, chúng tôi có một mái nhà, và chúng tôi biết đến một thứ tình yêu sâu sắc nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng tôi đã dành quá nhiều thời gian leo qua hết chướng ngại vật này tới trở ngại khác, đến đích, sau đó lại bắt đầu lại từ đầu, đến nỗi tôi đã không quên hít thở thật sâu trong những khoảnh khắc đẹp đẽ và dung dị ngắn ngủi.
Chiều hôm ấy Pam gọi điện, và tôi nói chuyện với chị bên cái bàn bếp, nhìn ra ngoài trời trắng tuyết. “Em có thể ra ngoài không?” Chị hỏi, hình như kèm theo một cái nhăn mặt hoặc một chút phấp phỏng hi vọng.
“Sớm nay em đã thử lái xe”, tôi nói và đứng lên đi tới cái phòng ngủ chật hẹp để nhìn ra ngoài cửa sổ. “Xe chỉ ra khỏi chỗ đậu vào đường và sau đó bánh xe xoáy tại chỗ.” Tôi lắc đầu trước một bầu không gian rất Alaska hiện hữu ở khắp thế gian. “Hàng xóm đã phải giúp em đưa xe về chỗ cũ, nhưng không thể.” Tôi cạo tuyết đóng trên cửa sổ. Tôi đã để Ngọc Trai ở nguyên chỗ đó, cái hãm xung còn chìa ra đường. Thời tiết băng giá này sẽ không biến mất trong một, hai ngày tới. Dù phần lớn các con phố chính đều ổn, nhưng một số khách hàng của tôi sống trong rừng hoặc trên đồi. Nếu bị kẹt xe, tôi sẽ không thể đến đón Mia đúng giờ, cũng chẳng biết phải gọi cho ai nhờ giúp đỡ.
Tôi hơi băn khoăn rằng không biết Pam có sa thải tôi vì tôi không đi làm được chăng. Tôi chưa bao giờ nhớ công việc đến thế. Nhưng có một vài giây, tôi cảm thấy không quan tâm. Tôi ghét phải cần đến công việc này. Tôi ghét cảm giác cảm kích vì có được nó. “Em sẽ làm bù sau vậy”, tôi nói với Pam.
“Chị biết mà, Steph”, chị nói và chúng tôi cúp máy.
Tôi cạo băng giá trên cửa sổ thêm vài lần nữa, Mia tiếp tục xem tivi. Hơi thở của tôi hóa thành hơi sương. Khi tôi vươn tay định cầm vài con thú nhồi bông lên khỏi bậu cửa, một ít lông giả của chúng bám dính lại, đóng băng tại ô kính.
Hoàng hôn đã buông. Tôi quyết định làm bánh kếp cho Mia ăn tối với một thìa nhỏ kem bạc hà vụn chocolate phủ bên trên. Tôi thì làm một gói mì ăn liền và hai quả trứng luộc, cùng ít xúp lơ để đông còn lại. Mia đi tắm, còn tôi viết nhật kí trên mạng dưới cái tên mới và đăng những tấm hình chụp hai mẹ con đi trong tuyết để lấy xe trượt. Đôi má Mia đỏ hây hây, tóc loăn xoăn thò ra khỏi cái mũ vừa đủ dài để ôm hai bên mặt trong khi con bé cẩn trọng liếm tuyết trên đầu đôi găng tay hồng. Thật quá tĩnh tại. Âm thanh duy nhất là tiếng chân của chúng tôi giẫm lên tuyết.
Mia xếp biệt đội Pony bé nhỏ, một món quà từ một người bạn, dọc gờ bồn tắm. “Con tắm xong rồi, mẹ ơi”, con bé gọi và tôi bế con, người vẫn dính đầy bong bóng xà phòng, da ửng hồng vì nước nóng, bọc trong chiếc khăn tắm tôi vừa để trên bệt toilet. Con tôi dạo này nặng lên nhiều. Một thời gian dài đã trôi qua kể từ ngày con bé còn là đứa nhỏ đỏ hỏn trong vòng tay tôi.
Tối hôm đó, chúng tôi ngủ trên cái sofa giường lần thứ hai trong hai tuần liên tiếp. Mia nhảy tưng tưng, phấn khích vì được “ngủ chơi” với tôi và một lần nữa được xem _Đi tìm Nemo._
Con bé xem được một nửa bộ phim thì lăn ra ngủ mất. Tôi dậy vặn nhỏ máy sưởi. Phải ba giờ sau tôi mới ngủ được, và tôi chỉ ước giá mà có một li rượu vang hay cà phê đã lọc cafein cũng được - chỉ là một thứ đồ uống gì đó giúp tôi thấy ấm người. Thay vào đó, tôi chui vào nằm cạnh cơ thể ấm áp của Mia, cảm nhận cơn hít thở và động cựa trong lúc ngủ. Cuối cùng, tôi cũng chìm dần vào giấc mộng.