PHẦN BA Chương 23 Cố gắng hơn nữa
“Emilia?” Y tá gọi. Tôi đánh thức Mia bằng cách khẽ nhúc nhích bờ vai đang dùng làm gối cho con.
“Có”, tôi nói, đứng lên và cúi xuống bế con. “Cháu thích được gọi là Mia hơn.”
Người phụ nữ kia có vẻ không nghe thấy và mặc kệ tôi bế đứa con ba tuổi. Cô chỉ bảo chúng tôi đi theo. Sau khi đã cho Mia cân xong, chúng tôi lại ngồi xuống một cái ghế khác để tiếp tục chờ đợi.
“Có vấn đề gì nào?” Y tá hỏi, chỉ chăm chăm nhìn tập hồ sơ trên tay chứ không hề ngước lên nhìn tôi.
“Con gái tôi cứ đến tối là lại ho sặc sụa suốt cả tuần trước”, tôi cất lời trong lúc cố nhớ xem con đã ốm bao lâu, và đã bao nhiêu lần tôi bắt con phải đi học trong khi đáng lí con nên ở nhà. “Tôi nghĩ có lẽ cháu bị viêm xoang hoặc dị ứng. Nhiều lúc mắt cháu đỏ sọc và cháu kêu đau tai lắm.”
Cô y tá lớn tuổi hơn, trông có vẻ quạu cọ tiếp tục lờ tảng tôi. Tuy nhiên cô có vẻ thương Mia đang ngồi trong lòng tôi. “Ôi bé yêu, tai cháu bị đau à?” Cô cưng nựng.
Mia gật đầu, mệt đến nỗi chẳng còn sức xấu hổ hay tranh cãi. Con bé kệ cho người phụ nữ kia đo nhiệt độ và kẹp miếng nhựa vào tay để đo nhịp tim và nồng độ ôxy. Sau đó chúng tôi ngồi chờ. Tôi nhắm mắt, ngửa đầu dựa vào tường, cố không nghĩ về công việc mình vừa bỏ. Lại là Nhà Cây, và chủ nhà bực bội vì chuyện tôi dời lịch đến nỗi Lonnie bảo là bà cứ đe sẽ không thuê người dọn dẹp nữa. Mia lại ho sù sụ. Con bé còn quá nhỏ để dùng siro ho, và đằng nào thì tôi cũng chẳng có tiền mua. Mia tỉnh giấc hai lần trong đêm, cứ vừa khóc vừa đưa hai tay lên ôm đầu, và liên tục ho trong lúc ngủ.
Bác sĩ mở cửa bước vào không phải người hay khám cho con tôi, vì sáng nay bị trùng lịch khám. Người phụ nữ này nhỏ nhắn, trông giống trẻ con, và mái tóc đen cắt ngắn như Mia. “Được rồi”, cô ấy nhìn bệnh án và nheo mắt. “Mia.” Tôi thầm nghĩ, vậy là y tá có nghe thấy tiếng tôi, còn Mia thì ngẩng đầu lên khi nghe thấy tên mình.
“Sao chị không cho con ngồi ở đây nhỉ?” Cô nói và vỏ cái ghế ngồi lót giấy bên cạnh bàn thăm khám. Cô quan sát gương mặt Mia trong lúc tôi nói, rồi nhìn vào mắt con tôi. “Điều kiện sống của bé thế nào?” Cô hỏi. Tôi nhíu mày trước câu hỏi này, cố dẹp bỏ cảm giác cực kì tổn thương và phật lòng. Cô có thể hỏi là “Ở nhà bé thế nào?” hoặc “Có nguyên nhân gì có thể khiến bé bị ốm không?” hoặc “Nhà chị có nuôi động vật gì không?” hoặc bất cứ câu hỏi nào khác thay vì hỏi điều kiện sống. Như thể chúng tôi đang sống trong một… rồi tôi nghĩ về chỗ ở của hai mẹ con và đôi vai liền thõng xuống.
“Chúng tôi sống trong một căn hộ studio”, tôi nói khẽ, thừa nhận một bí mật, và một phần trong tôi sợ cô sẽ gọi cho cơ quan bảo vệ quyền lợi trẻ em nếu tôi thú nhận điều kiện sống của mẹ con tôi thực ra thế nào. “Có nhiều mốc đen liên tục xuất hiện trên bậu cửa sổ. Tôi nghĩ nó đến từ tầng hầm. Có ống thông khí luồn lên phòng ngủ của chúng tôi, và tôi có thể nhìn xuống và thấy nền đất.” Bác sĩ ngừng khám cho Mia và đứng lên, hai tay chấp trước bụng. Cô đeo một chiếc đồng hồ nhỏ dây đen. “Căn hộ có rất nhiều cửa sổ.” Tôi nhìn xuống sàn. “Tôi mất nhiều thời gian để khiến căn nhà luôn ấm áp và khô ráo.”
“Luật pháp yêu cầu chủ nhà của chị phải làm tất cả những gì có thể để xóa sổ đám rêu mốc đó”, cô nói và khám tai cho Mia. “Bệnh này lây đấy”, cô lẩm bẩm, lắc đầu, gần như thể cho rằng đó là lỗi của tôi.
“Chủ nhà đã làm sạch các tấm thảm”, tôi đột nhiên nhớ ra. “Và sơn nhà trước khi chúng tôi chuyển vào. Tôi không cho rằng anh ta có làm gì khác.”
“Vậy thì chị nên chuyển đi.”
“Tôi không thể”, tôi nói và đặt tay lên chân Mia. “Tôi không có đủ tiền.”
“Vậy thì”, cô nói và gật đầu với Mia, “con gái chị cần chị phải cố gắng hơn nữa.”
Tôi không biết phải nói gì. Tôi đành gật đầu.
Tôi nhìn bàn tay Mia đang đặt trên đùi, những ngón tay đan vào nhau. Chúng vẫn mũm mĩm, mập mạp. Tôi luôn cảm thấy mình là một bà mẹ tồi mỗi khi mở cửa căn hộ, nhưng cảm giác ấy không thể sánh bằng nỗi tủi hổ trong thời khắc này.
Khi bế con ra xe, tôi cần sự an ủi từ cảm giác con gục đầu vào vai, tóc con chọc vào mũi tôi ngưa ngứa. Bác sĩ kê một đợt thuốc kháng sinh mới kèm theo một lá thư gửi đến vị bác sĩ đã lắp ống tai cho Mia gần một năm trước.
Vài ngày sau, khi chúng tôi gặp lại vị bác sĩ nọ, họ đưa chúng tôi vào một căn phòng có một chiếc giường nệm dài màu nâu. Chúng tôi vừa ngồi được vài phút thì vị bác sĩ chạy vào, chẳng chào hỏi gì và nói luôn, “Sao chị không cho bé lên giường nhỉ?” Tôi đứng lên, bế theo Mia vừa đang ngồi trong lòng mình và lại đặt con bé lên bàn. “Không, cho bé nằm xuống”, ông ấy nói và quay lưng với chúng tôi trong lúc lục những hộp y cụ. “Tôi cần ánh sáng chiếu vào đầu bé.”
Đôi mắt Mia mở tròn khi tôi bảo, “Không sao đâu, Mia, bác sĩ chỉ xem tai con thôi.” Tôi khó mà nói cho thật chân thành khi mà bác sĩ thì lục lọi đồ nghề và gọi một y tá vào giúp đỡ trước khi đột ngột quay sang tôi, thở dài thườn thượt. Ông ngồi trên một chiếc ghế xoay bên cạnh bàn, nhanh nhẹn đưa một dụng cụ vào tai Mia. Con gái tôi, dạo này không ngủ nổi nếu không có những liều ibuprofen và thường xuyên đưa tay bịt tai khi ra ngoài trời, mở miệng thét một tiếng câm lặng. Vị bác sĩ rất nhanh tay: Đầu tiên ông khám tai, sau đó cắt một miếng bông dày to vừa bằng ống tai của Mia, áp vào đó rồi nhỏ vài giọt dung dịch.
“Xong rồi đấy”, ông nói. “Chị cần tra thuốc kháng sinh giống như tôi vừa làm.”
“Cháu đang uống kháng sinh rồi”, tôi phản đối.
“Thế chị có muốn con khỏe hơn không nào?”
Tôi không biết phải đáp ra sao. “Lần trước tôi nhỏ thuốc cho con, cháu bị chóng mặt quay cuồng. Tôi phải đè nghiến cháu xuống mới nhỏ được.”
“Chị là mẹ”, ông nói. Ông đang đứng bên cạnh cửa, nhìn tôi ngồi với Mia trong lòng. “Chị phải làm những gì cần thiết.” Sau đó ông mở cửa, đi ra rồi đóng lại nhanh như gió. Ông cũng gây cho tôi một nỗi ê chề như cô bác sĩ nọ: Tôi đang không cho con gái mình những gì con bé cần.
Mùa xuân ở thung lũng Skagit được mệnh danh là mùa hoa tulip. Nó khởi đầu với những cánh đồng thủy tiên hoa vàng, diên vĩ tím và nghệ tây thấp thoáng đó đây. Tuần lại tuần trôi qua, tulip đủ mọi sắc màu bung nở, tạo thành tấm thảm phủ dày trên nền đất. Dân địa phương hay nói rằng hoa tulip ở thung lũng Skagit còn nhiều hơn ở Hà Lan. Hàng vạn khách du lịch đến đây, tràn ra khắp các con phố lớn bé, chen chúc trong các nhà hàng và công viên. Mặc cho những cánh đồng tulip với các dải màu đỏ, tím, trắng và cam rực rỡ, tôi chưa từng mấy khi để ý tới hoa hoét.
Mùa tulip báo hiệu mùa đông dài đã qua, nhưng đến cùng với nó là mưa phùn, độ ẩm cao và nấm mốc. Đến tháng Tư, máy hút ẩm trong Nhà Cây thường xuyên được bật ở mức cao, và có thêm một máy lọc không khí nữa xuất hiện trong phòng ngủ. Tôi lau sạch đám mốc đen trông như những con nhện bậu trên cửa sổ, biết rằng tôi phải cật lực xử lí cả căn hộ của mình nữa.
Mia ho hắng không ngừng vào ban đêm. Có những tối khi chúng tôi vào trong căn hộ, mắt con bé liền đỏ au và đầy ghèn. Đương nhiên là do căn nhà - căn nhà chính tôi lựa chọn, có một ống thông hút không khí từ tầng hầm mốc meo đã cả trăm năm tuổi, đang khiến chúng tôi ngã bệnh thường xuyên.
Ngoài việc ốm yếu triền miên thì tôi không mấy để tâm đến sức khóe của mình, chỉ cần có thể mua được thuốc chống dị ứng tại quầy. Cách đây một năm, tôi đã thử làm các xét nghiệm với các dị ứng nguyên, khi thu nhập của tôi còn quá thấp nên không được hưởng Medicaid. Kết quả cho thấy tôi dị ứng với chó mèo, một vài loại cây cọ, rệp bụi và nấm mốc. “Các chất gây dị ứng trong nhà”, bác sĩ đã bảo thế. Hồi đó tôi vừa bắt đầu làm việc cho Jenny và bị ho không dứt suốt nhiều tuần liền. Họ cho tôi ống hít và nước biển xịt mũi. Rời khỏi căn nhà lưu động của Travis - cũng có mốc đen trên tường và lũ mèo hoang sống dưới gầm - giúp sức khỏe tôi tốt lên trông thấy, nhưng tôi vẫn có những triệu chứng dị ứng vì nhiều giờ lau dọn rệp bụi, lông chó mèo và bào tử nấm mốc trong những ngôi nhà dọc ngang vùng thung lũng.
Nhà của Cô Cuồng Mèo khiến tôi giàn giụa nước mắt nước mũi và ho không dứt, trừ khi tôi thay quần áo và tắm gội. Sáng ra vừa đến nơi, tôi sẽ dọn nhà vệ sinh lớn trước. Phòng ngủ được trải thảm hồng và có hai hộp cát vệ sinh cùng ba cột gãi lưng cho mèo. Khi tôi di chuyển hộp cát vệ sinh và hút bụi, bốn con mèo chằm chằm nhìn tôi từ những hộc nhựa xếp hàng trên giường. Sự hiện diện của tôi khiến chúng khó chịu, và báo hại chúng bị nhốt trong lồng cả ngày. Chúng phun lên phì phì mỗi khi tôi đến quá gần.
Những ngày đến dọn nhà cho cô ấy, tôi phải dùng gấp đôi liều thuốc dị ứng. Nhưng khi hết thuốc, tôi có cảm giác như hít phải ớt bột. Vào những ngày như thế, tôi sẽ mở hé cửa sổ, hi vọng cơn dị ứng sẽ thuyên giảm. Có điều tôi chưa từng kể với Lonnie hay Pam.
Mùa xuân năm ấy khi kê khai thuế qua phần mềm TurboTax, tôi đã suýt ngã ngửa. Với Tín thuế Lợi tức do Lao động và Tín thuế cho Trẻ em, tôi được hoàn thuế gần 4.000 đô. “Còn hơn tiền lương của mình trong ba tháng”, tôi thốt lên thành tiếng, trong bóng tối của căn hộ. Tôi có cảm giác không đời nào mình nhận được số tiền lớn đến thế. Tôi phấp phỏng chờ đợi Sở Thuế vụ chấp nhận các tờ đơn của mình mà cảm thấy như bản thân vừa trộm đi cái gì đó. Trong một cuốn sổ, tôi liệt kê tất cả những gì tôi có thể làm với số tiền đó - độ động cơ xe, thay dầu và khớp nối đồng tốc cho chiếc Honda Civic; thanh toán một thẻ tín dụng ghi nợ; cuối cùng là mua miếng bọt biển và dầu rửa bát, kem đánh răng, dầu gội và dầu xả, sữa tắm bọt, các loại vitamin bổ sung, cùng với thuốc chống dị ứng. Mẹ con tôi cũng có thể làm một chuyến du lịch.
Giống như nhiều người, hầu hết những gì tôi biết về Missoula là đọc trong cuốn _Nơi dòng sông chảy qua_ của Norman Maclean. Người tới Missoula là để tìm những chỗ câu cá bằng ruồi giả có thể kiểm chứng sự lôi cuốn từ cuốn tiểu thuyết đặc biệt đó, hoặc bộ phim chuyển thể từ nó. Nhưng đối với tôi, chính cái cách John Steinbeck viết về Montana trong Đi cùng Charley đã thuyết phục tôi rời khỏi Alaska và bắt đầu hướng tới tiểu bang bầu trời lớn. Tôi chọn Missoula không phải vì Maclean, mà là bởi David James Duncan, tác giả của cuốn The River Why: Trong một buổi giới thiệu sách tại Seattle, ông đã thú nhận là đang sống và thi thoảng giảng dạy tại trường đại học của thành phố ấy. Điều khiến tôi mơ rằng sẽ có một ngày hè được tỉnh giấc và lái xe hơn chín tiếng theo hướng đông đơn giản chỉ là một linh cảm. Một linh cảm đã lớn lên trở thành một nỗi ám ảnh thường trực. Nỗi ám ảnh đã theo tôi gần nửa thập kỉ.
Thu nhập của người dân Missoula thì thấp nhưng giá nhà ở lại cao. Đó là những gì tôi biết khi trò chuyện với những người từng sống ở đó nhưng không chịu nổi giá cả và đành phải rời đi. Không dễ tìm việc làm, và họ không trả hậu hĩnh lắm tại một thành phố đại học chỉ vỏn vẹn 70.000 người. Cha mẹ của các sinh viên thuê chung cư cho con, khiến giá nhà ở tại những vùng khan hiếm lên cao: Thậm chí một căn hộ một phòng ngủ dưới tầng hầm cũng có giá thuê chí ít là 800 đô. Khi tôi suy tính xem có nên chuyển chỗ ở hay không, câu hỏi hóc búa đó cứ chòng chọc trong đầu tôi. Nhưng khi tôi nói chuyện với những người sống ở Missoula, họ thể hiện tình yêu thành phố vô bến bờ. Những người đã chuyển tới đó nói rằng họ sẵn sàng từ bỏ mức thu nhập hoặc tiền lương mà nhiều người mơ ước để được sống tại Missoula.
Tôi muốn biết vì sao Steinbeck viết quá đậm tình về nơi ấy. Vì sao Maclean nói rằng thế giới càng xa Missoula lại càng xấu xí. Người ta ví von nơi đó giống như một vị kem ngon lạ thường mà họ được thưởng thức trong một kì nghỉ và không bao giờ còn tìm lại nữa; họ cũng không chắc có phải họ tưởng tượng ra hay không.
Vào buổi tối mà khoản hoàn thuế được trả vào tài khoản, mẹ con tôi đi ăn ở quán Red Robin. Tôi cho Mia uống sữa lắc chocolate. Chúng tôi vào siêu thị và chất đầy xe đẩy với đủ loại đồ ăn thức uống mà bình thường chúng tôi không mua nổi: bơ, cà chua, quả mọng trữ đông để làm bánh kếp. Tôi còn mua một chai rượu. Tuần tiếp theo, tôi mua một cái chăn điện để khỏi phải sưởi ấm cả căn phòng vào buổi đêm. Tôi tìm thấy rèm cách nhiệt và gậy treo giá rẻ trong đợt khuyến mãi. Tôi mua cho Mia một tấm bạt lò xo của trẻ em để con khỏi phải nhảy nhót trên giường và sofa. Tôi mua cho bản thân một thứ mà tôi đã mơ ước mấy năm qua - một chiếc nhẫn bạch kim đính kim cương trị giá 200 đô la. Tôi đã chán phải chờ đợi một người đàn ông xuất hiện và mua nhẫn cho tôi rồi. Mấy năm vừa rồi tôi chưa từng mua một món đồ phù phiếm nào đắt tiền đến thế. Dù đó là một quyết định khó khăn, nhưng tôi thấy cần phải cam kết với chính mình. Tin vào sức mạnh của chính mình. Tôi có thể làm những việc này, tất cả, chỉ bằng sức mình. Chiếc nhẫn được đeo vào ngón giữa của bàn tay trái như một vật nhắc nhở tôi thường trực.
Nhờ món tiền trên giời rơi xuống ấy, cuộc sống trở nên dễ chịu hơn nhiều. Tôi đổ xăng mà không cần thầm trừ đi xem trong tài khoản còn bao nhiêu tiền. Đi siêu thị, tôi không phải làm toán -hạn sử dụng, hóa đơn thanh toán là bao nhiêu, hóa đơn nào đến hạn, tôi có bao nhiêu tiền, tôi phải trả bao nhiêu, hoặc thẻ tín dụng nào còn hạn mức - trước khi quyết định liệu có thể mua giấy vệ sinh không. Tôi đi ngủ mà không phải mặc thêm đồ giữ nhiệt, không có cảm giác nhức nhối trong lòng, không phải lo lắng quá nhiều. Nhưng Mia vẫn trăn trở giở mình qua lại, ho hắng và hắt hơi, tỉnh giấc kêu than đau họng và đau tai. Dù tôi tạm thời có thể cho phép mình nghỉ làm đưa con đi khám nhưng tôi chẳng thể khiến bệnh viêm xoang và viêm tai thôi làm phiền con.
Tối muộn, khi tôi cần tạm nghỉ khi đang làm bài tập về nhà, tôi lướt qua các tin rao vặt. Tôi thèm thuồng ngắm nhìn những ngôi nhà, những căn hộ hai phòng ngủ, tất cả đều ngoài tầm tài chính của tôi. Thu nhập của tôi chỉ vừa đủ cho căn hộ studio này, trong khi nó chưa bằng một nửa tiền thuê của những chỗ khác. Hiện giờ tuy tôi có dư dả hơn đôi chút, nhưng cũng không bền lâu. Khoản tiền này là tấm đệm đỡ nếu chúng tôi ngã. Và nếu tôi đã học được gì, thì đó là khi đang chênh vênh cố thực hiện một điều gì đó, ta luôn có thể loạng choạng và ngã bất cứ lúc nào. Tôi lắc đầu và tắt các quảng cáo, tiếp tục làm bài tập. Lắm khi mơ thôi cũng quá xa xỉ.
Nhiều ngày liền, giọng bác sĩ cứ văng vẳng trong đầu tôi. “Con gái chị cần chị phải cố gắng hơn nữa.” Tôi có thể cố gắng hơn nữa bằng cách nào đây? Thật khó trong khi phải đối mặt với hàng loạt những vòng tròn được đặt trước mặt tôi, yêu cầu tôi phải nhảy qua, đôi lúc chúng giữ tôi, kìm chân tôi tại chỗ.
Tuần đó, tôi gửi một phiếu lương viết tay của Classic Clean để xin gia hạn trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ, và một người phụ nữ từ văn phòng Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh đã gọi đến, yêu cầu giấy tờ gốc. Khi tôi cố giải thích đây là bảng lương do chính tay bà chủ của tôi viết, là bảng lương chính thức, thì cô ta dọa sẽ rút lại tờ phê duyệt và từ chối hỗ trợ ngay tức thì. Tôi bắt đầu nức nở. Cô ta bảo tôi ngày mai hãy đến văn phòng địa phương để làm rõ vấn đề.
Người ta đã xếp hàng dài bên ngoài Bộ Y tế trước khi nó mở cửa vào buổi sáng. Vì không biết nên vào hôm đầu tiên tôi đến nơi sau khi cửa mở khoảng ba mươi phút. Mọi ghế trong phòng chờ đều kín chỗ. Tôi lấy số và đứng dựa vào tường, lắng nghe cuộc chuyện trò giữa các cặp mẹ con; giữa những chuyên viên xã hội và người dân không hiểu vì sao mình ở đây, vì sao mình bị từ chối, vì sao họ phải đem thêm giấy tờ quay lại đây.
Có một chiếc ghế trống, nhưng tôi nhường cho một người phụ nữ luống tuổi mặc chiếc váy dài, dắt theo một đứa trẻ nhỏ bé, ngoan ngoãn. Tôi nhìn đồng hồ. Đã một tiếng trôi qua. Khi tôi nhìn lần nữa, thêm một giờ nữa đã hết. Tôi bắt đầu lo rằng đến lượt tôi thì cũng quá giờ đón con. Nếu có mặt ở đây thì hẳn Mia sẽ nhảy nhót khắp quanh tôi, không giống những đứa trẻ xung quanh tôi đang ngồi im và sẽ thì thầm xin phép nếu muốn đi vệ sinh. Những dạng người nghèo điển hình không xuất hiện ở đây. Từ những nếp nhăn trên khuôn mặt họ, tôi có thể thấy rõ sự buồn bực, sự nôn nóng muốn rời khỏi đây để đi siêu thị mua đồ ăn và đi làm. Họ giống như tôi - đã từng hoàn toàn tuyệt vọng, cúi gằm mặt nhìn sàn nhà mà chờ đợi, thật sự chờ mong cái mà họ cần. Họ cần giúp đỡ. Chúng tôi ở đây để xin sự giúp đỡ hòng đặng sinh tồn.
Khi số của tôi sáng lên trên cái hộp đen, tôi vội chạy đến cửa sổ, chỉ sợ người ta sẽ gọi số tiếp theo nếu tôi không đủ nhanh. Tôi đặt tập hồ sơ màu tím của mình lên bàn, rút ra toàn bộ những bản sao séc lương đã nhận từ khách hàng và một phiếu lương viết tay. Người phụ nữ vừa lắng nghe vừa cầm hai tờ lên, sau đó xem phiếu lương.
“Cô cần giám đốc in ra một phiếu lương chính thức”, cô ấy nói và nhìn tôi. Tôi chớp mắt. Vẻ mặt của cô ấy không thay đổi.
Tôi nói rằng tôi đã ở đây cả buổi sáng, rằng văn phòng người chủ của tôi cách đây những bốn mươi phút. Tôi không thể mất thêm một ngày nữa ở đây, chờ đợi.
“Nếu cô muốn có trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ thì đó là điều cô phải làm”, cô ấy nói. Tôi đành ra về. Đã gần một giờ chiều.
Lonnie lắc đầu khi in một phiếu lương cho tôi. Tờ phiếu lương này là cho một kì lương cách đây nhiều tuần. Toàn bộ thu nhập tự kiếm lấy của tôi đến từ các hóa đơn viết tay của các khách hàng. Tôi không biết phải làm rõ chuyện này như thế nào. Nhưng ngày hôm sau, tôi vẫn ở bên ngoài văn phòng đợi đến giờ mở cửa, sau đó chờ thêm vài tiếng để trình bày thu nhập của mình trong ba tháng qua, với một thời gian biểu viết tay về các giờ làm việc hiện tại, và thư của một vài khách hàng xác nhận rằng tôi làm việc tại nhà họ vào các khoảng thời gian như đã nêu.
Không có tem phiếu, mẹ con tôi có thể sẽ phải năng lui tới ngân hàng thực phẩm hoặc ăn miễn phí tại các nhà thờ. Nếu không có trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ, tôi sẽ không thể đi làm. Những người may mắn nằm ngoài hệ thống này hoặc mới tiệm cận nó sẽ không biết những nguồn trợ cấp đó khó kiếm đến mức nào. Họ không biết chúng tôi cần các khoản trợ cấp ra sao, và sẵn sàng làm tất cả để có được chúng.
Khi tôi dọn nhà Henry vào thứ Sáu đó, ông nhận thấy tôi có vẻ xuống tinh thần. Tôi vẫn còn đâu đó chừng một phần tư khoản tiền hoàn thuế. Nó đang ở đó chờ đợi đến lúc xe của tôi bị chết máy hay Mia bị ốm, hoặc một khách hàng hủy dịch vụ, hoặc tất cả. Dù tôi vẫn nằm mơ về Missoula - cảm giác được bước đi trên chiếc cầu bắc qua sông Clark Fork, hoặc nằm trên một cánh đồng nhìn lên bầu trời rộng lớn - nhưng hiện tại tôi thấy khó lòng mà đi du lịch được.
“Cháu không nghĩ mình có thể xoay xở đi thăm Montana”, tôi nói với Henry sau khi ông hỏi có chuyện gì. Ông phẩy tay như thể những lời nói của tôi bốc mùi. Suốt một năm nay, ông thường nghe tôi nhắc đến Missoula, nhưng chỉ theo kiểu “rồi một ngày nào đó cháu sẽ tới nơi ấy”. Khuôn mặt tôi chắc phải rầu rĩ đến nỗi ông nhận ra tôi đang vô cùng thành thật. Đến nỗi ông phải đứng dậy khỏi chiếc bàn, đi tới giá sách và bắt đầu lục tìm các cuốn hướng dẫn du lịch và bản đồ. Sau đó ông đưa cho tôi một cuốn sách về Công viên Quốc gia Glacier cùng một tấm bản đồ Montana khổ lớn được gập gọn.
Ông trải bản đồ ra bàn và chỉ những nơi tôi nên đi. Ông nhất quyết không chịu tin rằng một chuyến đi tới Missoula là lựa chọn bất khả thi. Dù rất biết ơn sự động viên và ủng hộ của ông, nhưng nụ cười của tôi không được chân thật. Một phần lớn trong tôi thấy sợ. Không phải sợ chuyến đi - dù tôi có sợ là xe sẽ chết máy giữa đường - mà là sợ tôi phải lòng Missoula rồi sau đó lại phải trở về thung lũng Skagit, với đám mốc meo trong căn hộ studio trên đường cao tốc. Nó giống như nói lời từ biệt với một cuộc sống tốt đẹp hơn mà tôi chẳng thể có.
Nếu muốn cuộc sống đó, tôi phải từ bỏ công việc tại Classic Clean. Hơn một phần ba tiền lương của tôi đổ vào xăng xe. Sau khi kiến nghị với Pam, chị cho tôi một khoản chi phí đi lại nho nhỏ, nhưng chỉ bằng một phần tư số tiền tôi phải trang trải để đi từ nhà này sang nhà khác. Hơn nữa, sự vô hình, vô danh tính bắt đầu khiến tôi mệt mỏi. Cứ một mình làm lụng và theo học từ xa, cuộc sống của tôi trở nên vô cùng cô độc. Tôi thèm được giao tiếp với con người, dù là trong lúc đi làm thuê cũng được. Tôi cần công việc để có mục đích sống, ý nghĩa sống, hoặc chí ít là cảm giác mình đang giúp đỡ một ai đó.