← Quay lại trang sách

Chương 24 Nhà Vịnh

Một buổi chiều, tôi bước vào văn phòng Hỗ trợ Tài chính của trường Cao đẳng Cộng đồng Thung lũng Skagit và trình bày là muốn nhận khoản vay sinh viên ở mức cao nhất. Đây không phải một quyết định dẽ dàng, và tôi bắt đầu thấy run khi đợi người đằng sau quầy giúp đỡ. Nhận những khoản vay đó có nghĩa là tôi phải giảm mức công việc hiện có và chịu nợ nần. Nhưng tôi đã quá kiệt sức. Tôi không có cách nào khác để giải thích cho quyết định bốc đồng này. Mia ốm triền miên, mà tôi chỉ có ba giờ mỗi ngày cùng con. Lưng tôi đau nhức cả ngày trời rồi sẽ cứng đờ khi tôi ngủ, và tôi thường tỉnh giấc lúc bốn giờ sáng vì quá đau đớn. Khoản vay này có thể giúp tôi tập trung tìm khách hàng riêng và làm vườn, thay vì làm việc cho Classic Clean. Nhờ nó, tôi có thể dành nhiều thời gian hơn cho Mia.

Đây cũng là cơ hội để tôi làm tình nguyện tại Cơ quan chống Bạo hành Gia đình và Xâm hại Tình dục, trong vai trò lễ tân. Tôi coi đó là công việc thực tập do khoản vay chi trả. Làm tình nguyện viên cho tôi kinh nghiệm, làm phong phú lí lịch, và thư giới thiệu. Các môn học tại trường Cao đẳng Cộng đồng là tiền đề để sau này tôi lấy bằng trợ lí luật sư. Tôi chỉ cho phép mình được mơ về những công việc thực tiễn cho tôi bảo hiểm sức khỏe và tiền hưu trí.

“Thưa quý tòa, người cha là một công nhân làm việc toàn thời gian”, luật sư của Jamie đã nói vậy vào ba năm trước, sau đó hé lộ rằng tôi là kẻ vô gia cư và không nghề ngỗng. Đứng trước vị thẩm phán, nghe Jamie nhận được sự tôn trọng và vị nể nhờ có công việc và nhà cửa, tôi thấy nản lòng thoái chí. Kinh nghiệm ấy đã khắc sâu vào trong tôi. Dù tôi muốn có một điều kiện sống tốt hơn, nhưng đó đã là lần thứ chín Mia và tôi chuyển nhà từ khi con chào đời.

Tại hầu hết các căn nhà, con tôi đều không có phòng riêng. Trong khi những tưởng các quan tòa sẽ nói, “Tôi không quan tâm đứa bé có phải ngủ trên sàn bê tông hay không, chỉ cần chúng được qua chơi nhà bố”, nhưng những bà mẹ đấu tranh để được quyền một mình nuôi con - nhất là những người vừa thoát khỏi cảnh bạo hành - sẽ phải có một điều kiện sống không tưởng. Tại tòa, luật sư của Jamie mô tả tôi là một kẻ tâm thần bất ổn, không thể toàn tâm cho con cái. Tôi phải đấu tranh để được làm mẹ của đứa con vẫn còn ẵm ngửa, đứa con bé bỏng từng bị chính Jamie ép buộc tôi bỏ đi. Tôi bị nghiền nát bởi chính vị quan tòa đó. Như thể tôi đã sai khi quyết định chia tay với người đàn ông ngày ngày hăm dọa tôi. Tôi biết có vô số phụ nữ ngoài kia bị rơi vào hoàn cảnh giống tôi.

Có lẽ tôi nên đi học trường luật và trở thành một luật sư dân sự. Tôi sẽ giúp những người bị bạo hành như tôi hồi còn sống cùng Jamie, và tôi có thể biện hộ cho họ. Ấy vậy nhưng lại có một giọng nói khác thôi thúc tôi, vang vọng đến nỗi khiến tôi không thể bỏ qua được. Một phần trong chính con người tôi muốn tôi trở thành nhà văn. Nhưng tôi xoa dịu giọng nói thúc giục đó bằng cách tự nhủ rằng chỉ là tất cả chỉ là tạm thời, khi Mia còn nhỏ - và sau đó tôi sẽ trở thành nhà văn. Lời hứa đó giống như dội hàng loạt những xô nước lạnh vào ngọn lửa duy nhất còn lại trong tôi, phần duy nhất còn dám mơ mộng.

Vào một đêm muộn trong lúc đang kiếm một căn hộ tốt hơn, tôi đã tìm thấy một căn hộ hai phòng ngủ nằm trên một garage. Cửa chính nhìn ra toàn cảnh núi đồi và đại dương bao la. Nó nằm ngoài khả năng tài chính của tôi. Tin quảng cáo nói rằng chủ nhà sống ở nhà chính cùng ba cô con gái nhỏ, ba con chó và một con mèo chủ yếu ở garage để ngày đêm săn chuột. Thay vì đóng cửa sổ tìm kiếm và cảm nhận niềm khát khao quen thuộc về một cuộc sống khác, tôi lại gửi email hỏi xem họ có muốn đổi tiền thuê nhà lấy người dọn dẹp nhà cửa và làm vườn không.

Chiều hôm sau, tôi lái xe vào lối đỗ xe dài của nhà họ, qua một cơ ngơi rộng rãi quang đãng được điểm xuyết vài bóng cây đại thụ, nhìn ra toàn cảnh vùng vịnh và những ngọn đồi phía xa. Lối đánh xe quẹo trái và gần như bị khuất chìm trong những hàng cây lớn với những bụi mâm xôi mọc viền hai bên. Ngôi nhà nằm trong một thị trấn lân cận, cách xa nơi hầu hết khách hàng của tôi ở. Tôi biết rằng sống ở đây có nghĩa là tôi không thể làm việc cho Classic Clean được nữa. Vừa đi tôi vừa nghĩ có lẽ nếu tôi tìm được một chốn ăn ở tốt hơn, xa xôi hơn, tôi sẽ có thể cho mình một lí do để nghỉ việc.

Khi cuối cùng cũng nhìn thấy căn nhà, tôi suýt nữa đã nhắm nghiền mắt vì cảnh tượng đẹp đẽ ấy. Mặt trời mới bắt đầu khuất sau rặng núi, cả bầu trời ửng sắc hồng. Tôi đỗ xe trước một chuồng dê nằm giữa căn hộ và căn nhà có những ô cửa sổ ở mặt trước.

Một đứa bé đang chập chững đi trên một chiếc xe đạp gỗ quanh một mặt sân xi măng trước garage. Một người đàn ông cao gầy mặc áo phông có mũ màu xám đã sờn và quần bò nhìn tôi rời khỏi xe. Qua email với vợ anh, tôi biết anh tên là Kurt. Chúng tôi bắt tay nhau, và tôi tự giới thiệu, nói rằng con gái tôi đang ở nhà bố. Anh vuốt vuốt mái tóc nâu rối. “Đi theo tôi”, anh nói và bế đứa bé lên. “Tôi sẽ đưa cô đi xem nhà.”

Tôi cảm thấy một sức hút mạnh mẽ từ cái cơ ngơi này, và nếu tôi dám tin tưởng thì dường như vũ trụ đang đẩy tôi về đúng hướng tôi cần đi, như thể điều này đã được định cho tôi và tất cả những gì tôi phải làm là nghe theo. Tôi cùng Kurt đi tới một bên garage và đứng cạnh một khu vườn còn lớn hơn cả căn hộ studio của chúng tôi. Anh chỉ những bụi việt quất và mầm xôi, tiếp đó là một bãi cỏ lớn kế bên.

“Nếu cô muốn thuê nhà thì cô phải cắt cỏ chỗ đó”, anh nói và khoanh tay. “Những người thuê trước có vấn đề với việc này.” Tôi nhìn cô con gái nhỏ của anh đang đi về phía bãi cỏ, lòng thầm hình dung Mia chơi với cô bé.

“Ngoài việc trao đổi à?” Tôi hỏi.

“Trao đổi gì?” Anh nhắc lại, nhìn lên trời, như thể anh cảm thấy điều này nghe có vẻ quen tai nhưng không nhớ lắm.

Tôi gật đầu và nói, “Tôi đã email cho Alice, và cô ấy bảo tôi có thể đổi một phần tiền thuê nhà bằng cách làm việc trong sân và dọn nhà anh chị.”

Thái độ của anh thay đổi vài lần, từ bối rối sang ngờ ngợ nhớ ra vợ có nói gì đó tương tự và gật đầu đồng ý. Dù có thể không thích nhưng anh có vẻ nghiêm túc, như hầu hết những người bạn của tôi sống tại Fairbanks vào bất cứ giờ nào trong ngày. Kiểu người giống tôi, tôi nghĩ. Tôi thấy thích anh ngay.

Anh nhìn xuống và mỉm cười. “Cứ đợi tới khi cô xem trên đó đã.” Anh hất hàm về phía căn hộ bên trên garage.

Kurt lên cầu thang trước và bế con gái theo cùng. Kurt bảo rằng anh, Alice và những đứa con đã sống ở căn hộ trên garage này trong khi xây căn nhà. Khi chúng tôi ngoặt ở khúc vòng đầu tiên trên cầu thang, tôi ngừng bước. Kurt quay lại và mỉm cười trước nét mặt kinh ngạc của tôi.

Những tia nắng cuối cùng đã nhuộm tất cả trong sắc cam đỏ. Vào khoảnh khắc ấy, tôi không thể nhớ ra đã từng trông thấy một buổi hoàng hôn nào đẹp hơn hay chưa.

“Buổi chiều hôm nào cũng thế này ư?” Tôi hỏi, giọng như tiếng thì thầm.

Kurt bật cười. “Chà, chỉ khi nào mặt trời ló hẳn ra thôi”, anh nói. Anh đang đùa, vì ở tây bắc Washington có những mùa đông kéo dài gần nửa năm, với chưa đầy 12 ngày trời nắng. “Mừng là bây giờ cũng sắp sang hè rồi.”

Căn hộ có hai phòng ngủ tách nhau bởi một phòng tắm có bồn tắm. Có một hộc tủ bên dưới bồn rửa và giá để khăn tắm. Bếp có bếp ga, một máy rửa bát, một tủ lạnh lớn, và một ô cửa sổ nhìn ra sân sau nơi gia đình họ nuôi gà.

Toàn bộ mặt sàn được lát gỗ. Ở phòng khách và bếp có hai cửa sổ lấy sáng và thêm một cửa sổ nữa trong nhà vệ sinh. Cửa kính kiểu Pháp dẫn ra một ban công có mái che. Cửa sổ cách nhiệt nằm ở bức tường phía tây phòng khách.

“Có truyền hình cáp”, Kurt nói và hất hàm về phía đường cáp nhô ra khỏi tường. Tôi nhìn anh và chớp mắt. “Nếu điều đó quan trọng với cô”, anh nói tiếp. “Tôi hơi cuồng bóng bầu dục ấy mà.”

“Tôi không dùng truyền hình cáp từ hồi lớn lên đến giờ”, tôi nói. Tôi muốn cười thật to. Tôi muốn cấu mình một cái.

“Căn hộ này khá là nhỏ”, anh nói và mở một buồng để đồ trong phòng ngủ, “nên tôi đã tận dụng diện tích chứa đồ càng nhiều càng tốt. Những hộc tủ treo bên trên khá rộng và thoáng. Hình như Alice từng cất chăn gối trên đó thì phải.”

“Ôi”, tôi thốt lên. “Thật tuyệt vời.”

“Tôi thì không nghĩ thế.”

“Không, thật đấy”, tôi nói. “Buồng quần áo của tôi hiện giờ là một buồng để chổi lau nhà được sửa lại. Cả căn hộ của tôi chỉ bằng một nửa chỏ này.”

“À”, anh nói để lấp liếm khoảnh khắc ngượng ngùng đó. Sau đó có vẻ anh nhớ ra điều gì và đi về phía nhà bếp. “Cô có thể lấy trứng khi chúng tôi rời thành phố”, anh nói và chỉ chuồng gà. “Ý tôi là, nếu cô chuyển vào đây.” Tôi mỉm cười và hỏi họ định đi đầu. Anh búng tay như thể quên không nói với tôi, “Mỗi tuần vào mùa hè, chúng tôi sẽ đi Missoula cùng vài người bạn. Đó là một nơi rất tuyệt để an cư lạc nghiệp. Cô từng đến đó chưa?”

Hơi thở của tôi nghẹn lại trong lồng ngực. Tôi không biết phải trả lời thế nào, làm cách nào để cho anh hiểu tôi đã mơ về nơi ấy suốt sáu năm qua, rằng sự hối tiếc duy nhất của cuộc đời tôi là không thể đi học đại học như dự định và không nói cho Jamie biết tôi mang bầu rồi tự mình sinh ra đứa bé. Tôi bỗng muốn giãi bày tất cả với Kurt, nhưng tôi chỉ đành cắn môi không nói gì.

“Chưa”, tôi nói và lắc đầu, cố bình tĩnh lại. “Nhưng tôi rất muốn.”

Tôi theo Kurt vào nhà để gặp Alice đang bận bịu chuẩn bị bữa tối. Hai cô con gái lớn đang chơi trên sàn cùng cả sọt đồ chơi Littlest Pet Shop. Tôi chưa từng thấy nhiều như thế cùng một lúc, và nghĩ đến Mia cứ ôm khư khư duy nhất một con ếch thuộc dòng đồ chơi ấy. Tôi có thể hình dung ra con ngồi chơi cùng các cô bé kia, đúng như tôi đang cười nói với Alice và cùng uống rượu vang bên bàn. Có lẽ tôi không chỉ đang tìm một chốn ở mới, mà còn cả những người bạn mới nữa.

Alice bảo các con dọn dẹp đồ chơi để chuẩn bị ăn tối. “Cô ở lại ăn cùng cho vui nhé?” Cô hỏi và nhìn tôi. Cô thấp hơn tôi một chút, chỉ cao đến ngực Kurt. Mái tóc nâu của cô được buộc thành đuôi gà gọn gàng, để lộ đôi tai hơi vểnh một chút. Cô trông có vẻ từng là một trong những nữ sinh xinh xắn ở trường trung học; vào hồi ấy nếu gặp cô, tôi hẳn sẽ vô cùng ghen tị.

“Được”, tôi nói và mỉm cười, cố không để những giọt nước mắt hạnh phúc dâng lên. “Tôi rất vui vì được biết cô.” Dù thật tình thì Alice làm tôi hơi sợ. Dù chưa hiểu cô lắm nhưng tôi có cảm giác cô giống những người mẹ ở nhà trẻ của Mia, thường giới hạn thời gian xem tivi của con, lên chương trình cho các hoạt động thủ công, giới hạn đồ ăn vặt chứa đường, và cho trẻ ăn lượng rau quả hợp lí trong mỗi bữa. Một người mẹ có đặc quyền, thời gian và năng lượng để làm mẹ, và sẽ xét nét tôi vì không làm được như cô.

Alice đặt đĩa của tôi lên bàn, đối diện với của hai cô con gái lớn đang ngoan ngoãn ăn những miếng cà rốt trước. Kurt mời tôi dùng bia, và tôi nhận. Kurt cũng uống Costco giống như Travis, và hương vị làm tôi nhớ ngay tới nông trại. Khi họ hỏi tôi làm gì, tôi nói tôi dọn dẹp nhà cửa, nhưng muốn trở thành nhà văn. Kurt nói anh có đọc qua blog của tôi, làm tôi hơi bối rối một chút nhưng rồi chợt nhớ ra chữ kí email của tôi có chứa đường link tới trang blog.

“Tôi không biết bằng cách nào cô có thể tự mình xoay xở qua tất cả”, anh nói và nhìn tôi một hồi lâu. Ánh mắt của anh làm tôi lúng túng, và tôi nhận ra sự trầm trồ ngưỡng mộ trong giọng nói của anh. Từ khóe mắt, tôi thoáng thấy Alice nhíu mày và nhìn đĩa của mình.

Tối hôm đó, tôi có cảm giác chân không chạm đất. Alice và Kurt nói họ có một bể bơi bơm hơi và các cô con gái thường chơi bên ngoài nhà gần như cả ngày vào mùa hè. Alice làm việc toàn thời gian tại một ngân hàng, nhưng Kurt, là thầy giáo, thì được nghỉ. Anh nói Mia có thể cùng lũ trẻ xuống bãi biển hoặc chơi trong sân. Họ còn có một hố nhóm lửa để thi thoảng nướng kẹo dẻo.

Khi tôi về nhà, Alice đã email chính thức hỏi tôi có muốn dọn vào không. Tôi trả lời là rất muốn. Cô hồi đáp ngay tức khắc, nói rằng tôi có thể bắt đầu chuyển đồ vào bất cứ lúc nào. Trong bữa tối, chúng tôi đã thảo luận về chuyện trao đổi, như vậy tiền thuê của tôi sẽ rẻ hơn tiền thuê căn hộ studio này tròn 50 đô la.

Bây giờ là giữa tháng Ba. Tôi còn hai tuần để chuyển đồ, nhằm tránh phải trả tiền thuê cả hai chỗ. Thông báo trợ cấp đã đến trước đó vài ngày. Như thể mọi thứ đã về đúng vị trí của nó - gọn gàng tới nỗi khiến tôi đâm ra nghi ngờ. Tất cả vượt quá kì vọng của tôi. Có lẽ chúng tôi không xứng đáng được hưởng những điều tót đẹp đến nhường ấy.