← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHÌ- VIẾT VĂN - CHƯƠNG I THỜI – KỲ DỰ - BỊ

Nhiều bạn trẻ viết thư hỏi tôi: “Học-sinh nên làm văn-nghệ không?” Tôi xin trả lời chung các bạn ấy ở đây.

Tôi nhận thấy những bạn hăng-hái bênh vực quan niệm nên làm văn-nghệ đều đưa ra ba lý lẽ:

- Trong số học sinh cũng có nhiều “nghệ-sĩ” mà đã là nghệ sĩ thì không thể không viết được.

- Nhiều học-sinh yêu văn-nghệ, làm văn-nghệ mà vẫn chăm, vẫn giỏi, vẫn theo đủ các môn, không hiếu danh, khoe khoang, chơi-bời, trụy-lạc.

- Học-sinh cần làm văn-nghệ vì trẻ cũng có những băn-khoăn, những nguyện-vọng của trẻ. Chỉ họ mới biểu hiện nổi sinh hoạt của họ. Giáo sư và phụ huynh không thể làm được việc ấy, mà các người quan tâm đến “mầm non của đất nước” cần phải hiểu họ để đào tạo những công dân tốt mai sau.

Về lý lẽ thứ nhất, mọi người nhận rằng nhiều bạn trẻ có khiếu viết văn; nhưng bảo rằng đã là nghệ-sĩ, không thể không viết được, thì xin lỗi các bạn, tôi chưa tin hẳn lời ấy: hẳn các bạn chưa quên lời của Lỗ-Tấn, mà tôi đã chép ở một chương trên?

Về lý-lẽ thứ nhì, lấy kinh-nghiệm để xét thì tôi được biết bốn anh bạn và ba học sinh của tôi vừa đi học vừa viết văn. Trong số đó có bốn người hiếu danh, khoe khoang, kết quả chắc chắn là không đi tới đâu; và ba người đứng đắn thì chỉ mó mỗi một người đậu được tú tài, còn hai người kia đều bỏ dở sự học và phải ân hận rằng học kém quá, ra đời muốn học thêm mà mắc bận bịu vợ con, lo cái nợ cơm áo.

Sau cùng, về lý lẽ thứ ba, tôi cũng muốn tin rằng các bạn học sinh có những băn khoăn, những nguyện-vọng mà giáo sư và phụ huynh không hiểu nổi. nhưng tôi đã đọc cả trăm bài của các bạn viết và đăng trên các nhật báo hoặc các tờ Giáo khoa, mà thực chưa thấy một băn khoăn, một nguyện vọng nào đặc biệt, chỉ toàn là những nguyện vọng, băn khoăn của chúng tôi hồi còn đi học hoặc của toàn thể quốc dân bây giờ.

Xin các bạn đừng vội hiểu lầm tôi. Trong cuốn Kim chỉ-nam của học-sinh tôi đã khuyên các bạn viết nhiều, rất nhiều, viết thư, viết nhật ký để luyện cây bút và ghi những tư tưởng, tình cảm của mình. Vậy tôi không chống hẳn với quan niệm của các bạn; nhưng tôi nghĩ chỉ khi nào các bạn tin chắc rằng mình có tài như Victor Hugo, hoặc ít nhất cũng như Nhất Linh, Xuân Diệu – ba nhà đó đều đăng thơ văn từ hồi 16-17 tuổi – lại có những thắc mắc, băn khoăn nói với giáo sư, phụ huynh không được, và viết thì viết, bổn phận nhà trường vẫn làm tròn, bài vẫn học đủ; chỉ khi nào có tất cả những điều kiện ấy, các bạn mới nên viết để đăng báo.

Tài không đợi tuổi mà hiểu biết cần kinh nghiệm. Văn thơ viết hồi mười lăm, mười sáu tuổi, giọng có thể nồng nàn, lời có thể tươi đẹp; nhưng về tư-tưởng thì khó mà đặc-sắc được. Tôi có cái tật xem văn thì xét cả lời lẫn ý và tôi tưởng Xuân-Diệu, Nhât-Linh về già có đọc lại thơ hồi nhỏ của mình, cũng cho là tuổi ấy quá ngông-nghênh.

Vả lại, sớm thành danh thường có hại. Người ta dễ tự-đắc, không chịu học-hỏi thêm, trau-giồi thêm tài nghệ, đức hạnh. Cũng vì lẽ đó, con trai một anh bạn tôi, mới mười sáu tuổi làm thơ ngụ-ngôn đã khá, nhưng không được anh bạn tôi cho phép gieo vần nữa và bắt phải cần cù học thêm.

Hai anh em Goncourt trong tập Nhật-ký, khuyên các bạn trẻ nên tập viết từ khi ở ban Trung-học tài ra cho tới lúc hai mươi lăm hoặc ba chục tuổi. Bạn nên nhớ hai ông sáng-lập hàn-lâm-viện Goncout để khuyến-khích những tài-ba chớm nở và đặc-sắc mà còn nói như vậy thì lời đó thật cũng đáng cho ta suy-nghĩ.

Vậy theo hai ông, thời-gian tập viết là từ năm đến mười năm. Muốn hiểu và nhớ kỹ-thuật viết, chỉ sáu tháng hay một năm là đủ; áp dụng cho quen cần tốn công hơn; tốn công nhất là phải tự học để mở-mang trí-thức và tu luyện nhân-phẩm.

Bạn chuyên làm thơ ư? Ít nhất bạn cũng phải đọc những tác phẩm chính của các thi-sĩ có danh của nước nhà, của Trung Hoa, hoặc của Pháp, biết quan-niệm của họ, đời sống của họ và những lời người khác phê bình họ. Nếu có thể được, bạn cũng nên hiểu qua thơ Anh, Nga, Đức, Mỹ, Nhật… Càng biết nhiều càng lợi, hứng càng dồi dào, ý càng phong phú, lời càng điêu luyện. Thực đáng tiếc, hầu hết các nhà thơ Việt-Nam đều không chịu học thêm, nhiều người chỉ biết độ trăm bài thơ Việt, vài chục bài thơ dịch của Trung Quốc, và ba bốn chục bài thơ Pháp: như vậy trách chi sự sáng tác của họ chẳng nghèo nàn về mọi phương diện?

Và bạn cũng phải tìm hiểu các loại văn khác, chứ không lẽ vì chỉ làm thơ mà không cần biết kỹ-thuật viết tiểu-thuyết, kịch,…

Còn nếu bạn muốn viết nghị luận và phê bình thì tôi có thể nói bất kỳ một tri thức gì của loài người cũng lợi cho nghề của bạn. Nhãn quang có rộng thì tư tưởng mới cao và văn mới có chân giá trị.

Vậy đã là văn-nhân thì phải tự học, học suốt đời, học trong sách vở và trong vũ trụ, nghĩa là sống và luôn luôn nhận xét.

Nhân-cách còn quan trọng hơn tri thức và kỹ-thuật,

Văn minh phương Đông chúng ta có đặc-điểm là không bao giờ tách rời trí dục và đức dục; khoa học luôn luôn bị coi là phụ thuộc cho luân lý; chẳng riêng trong sách thuốc mà ngay trong những sách số bói, phong thủy, ta cũng thấy đầy những lời khuyên học sinh phải tu nhân, tích đức, nhất thiết không được dùng sự hiểu biết của mình vào việc ác. Các nhà nho chân chính bao giờ cũng lựa học sinh rất kỹ, chỉ truyền bí thuật cho những môn đồ thông minh và có hạnh để họ khỏi hoặc vô tình hoặc cố ý làm hại nhân loại.

Tại phương Tây thì khác hẳn: khoa học là khoa học, luân-lý là luân-lý. Không một cuốn Vật lý học hoặc Hóa học nào khuyên người đọc đừng dùng những chất độc, những thuốc nổ để tàn-sát kẻ khác. Bởi vậy, loài người ngày nay mới phải điêu đứng về chiến tranh, mà nửa thế kỷ trước, H.Bergson đã than thở:

“Nhân loại rên rỉ, gần bị đè bẹp dưới sức nặng những tiến bộ của mình (…) Trước hết nhân loại cần xét xem mình có muốn sống nữa không”.

và mới rồi, Einstein trước khi chết đã để lại một chúc thư, lời lẽ thống-thiết, kêu gọi liệt cường tránh cho nhân loại cái họa diệt vong vì chiến tranh nguyên tử [23].

Tinh thần trọng đức dục đó của tổ tiên, chúng ta phải gìn giữ mà nhà văn có nhiệm vụ bảo vệ nó hơn hết. Vậy thì trước khi cầm cây bút, ta nên tự luyện lấy nhân cách đã.

Ta không bảo văn nhân nào cũng phải là một nhà đạo đức như Khổng-Tử, Platon cả đâu, hạng người phàm như chúng mình còn nhiều tật lắm, nhưng tôi nghĩ rằng một nghệ phẩm phải nâng cao tâm hồn độc giả, gợi những tình cảm cao thượng và đọc những tác phẩm bất hủ đông tây tôi thấy hầu hết đều do những người có tâm hồn trứ-tác.

Đã đành có những thời mà trào lưu lãng mạn tràn ngập cả văn đàn một nước. Như vào thời Lục Triều ở Trung Quốc, thế kỷ 19 ở Pháp, văn nhân đều ủy mị say sưa, chán đời, phóng túng. Tuy nhiên, tâm hồn của những nhà còn lưu danh đến ngày nay đâu phải không có chỗ trong sạch và vài điểm khả ái đáng làm gương?

Văn là biểu hiện của tâm hồn. Tâm hồn ti tiện thì thuật có khéo, văn cũng chỉ có tính chất tiểu xảo, điêu trùng khắc triện, cảm người không mạnh và giá trị không cao. Vậy muốn tập viết văn, ta phải luyện tâm hồn yêu cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ; luyện được thì văn ta tự nhiên sẽ có cái phẩm riêng, được người mến.

Khổng Tử, Lão Tử nào có học viết văn bao giờ; Thích Ca, Giê-Du cũng không hề nghĩ đến luyện bút mà chư vị đó hễ thốt ra lời nào là người đương thời chép lại; hoặc truyền khẩu cho nhau và hậu thế coi là những áng văn bất hủ của nhân loại. Tại sao vậy? Tại chư vị ấy tâm hồn cao thượng quá, tư tưởng thâm trầm hoặc siêu thoát quá cho nên ngôn ngữ tự nhiên cũng hay, cũng đẹp.

Vâng quả vậy, thưa bạn trong cái việc văn chương tâm hồn quan trọng nhất, trí thức thứ nhì, sau cùng mới tới kỹ thuật.

Muốn học kỹ thuật viết văn thì phải tập viết.

Hai anh em Goncourt khuyên ở trường ra cứ viết bừa đi, không theo một luật lệ nào cả, cứ chép tất cả những điều trông thấy, nghe thấy, và trong khi đó, ráng quên những điều đã học trong sách.

Lời khuyên đó nên theo

Hồi mới ra trường công chánh, vào làm việc ở Nam Việt, tôi có rất nhiều thì giờ rảnh. Những lúc nhớ gió bấc mưa phùn, nhớ mặt nước xanh rêu của hồ Gươm, nhớ con đê thăm thẳm của sông Nhị, tôi nằm trong ghe không biết làm gì cho vợi nỗi buồn, liền viết ký ức. Tôi không bố cục, không gọt đẽo, mà dẫu có muốn gọt đẽo, bố cục cũng không biết cách vì tôi chưa được đọc một cuốn nào về thuật viết văn. Cứ nhớ đâu là tôi chép đó, cứ nghĩ sao là tôi viết vậy, đúng như phương pháp “văn tòng tự thuận” của nhóm Hồ Thích, nghĩa là viết cứ xuôi rót, thẳng như ruột ngựa. Ngày viết được năm trang, ngày được mười, có khi cao hứng mười lăm, hai mươi trang không chừng; quên cả bữa cơm, quên cả ngày giờ, bóng tối len lỏi vào trong ghe lúc nào không hay, khi đặt cây viết xuống, nhìn lên bờ thì làng xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng. Say mê vô cùng. Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng. Sau bốn năm tháng, tôi viết được sáu trăm trang giấy đặc.

Nhờ cách ấy, tôi thấy viết mỗi ngày một dễ dàng. Hết ký ức, tôi viết nhật ký, ghi những điều mắt thấy tai nghe trong khi lênh đênh trên những sông rạch miền Hậu Giang. Nào những đêm trăng rạo rực, thả chiếc thuyền trên rạch Cái Răng hay Bình Thủy mà nghe tiếng đàn tranh văng vẳng dưới rặng sao ở trên bờ; nào những buổi chiều đậu ghe trong cánh đồng Bạc Liêu hay Rạch Giá, nhìn mặt trời đỏ như cục than hồng và lớn bằng chiếc mâm từ từ hạ xuống mặt đất mênh mông phẳng lì; nào những cảnh âm u trong rừng đước, rừng vẹt ở Cà-mau, cảnh phồn thịnh của lâu đài, vườn tược ở Sa đéc... những cảnh đó, những tình đó, nhất nhất tôi đều ghi lại đủ.

Tóm lại, tôi đã theo phương pháp của Goncourt mà không hay và tôi tưởng hầu hết các nhà văn đều tập viết như vậy: quên những điều đã học mà cứ viết bừa đi, không mô phỏng ai cả, có cái lợi là thấy vui, không chán, mà tập được một lối văn tự nhiên, đặc biệt của mình.

Tập viết rồi lại phải tập sửa: biết sửa văn tức là biết viết văn. Nhưng lúc mới đầu, tập sửa văn mình là một việc rất khó, vì ta chưa quen đứng vào địa vị khách để duyệt lại văn ta, cho nên rất cần có người khác chỉ bảo.

Nếu bạn có được một ông thầy đủ khả năng và tận tâm thì thật là may cho bạn bạn khỏi mất thì giờ mà dễ thành công. Còn như không có thì bạn có thể theo một lớp hàm thụ dạy thuật viết văn như trường Universelle hay trường Sciences et Arts ở Pháp [24]. Giáo sư những lớp hàm thụ ấy cố nhiên có nhiều kinh nghiệm về nghề cầm bút, xét văn rất sành, ta có thể tin họ. Tuy nhiên, một là vì lẽ ở đời không có gì tuyệt đối, hai là vì óc thẩm mỹ của mọi người không thể giống nhau trong các khía cạnh, những ông thầy văn đó cũng có khi lầm. Chẳng hạn Jesse Stuart trong cuốn Viết vì thích hoặc vì tiền (Writing for love or for money) kể chuyện giáo sư một lớp hàm thụ nọ khuyên ông đừng viết tiểu thuyết, nhưng ông cứ viết, và sau được ba tờ báo ở Mỹ tranh nhau đòi mua truyện.

Trái lại với Goncourt, hai anh bạn thi sĩ chỉ cho tôi một phương pháp khác: muốn tập viết văn thì trước hãy tập làm thơ.

Tại sao lại tập làm thơ rồi mới tập viết văn? Theo hai anh ấy thì tập làm thơ trước là để tập chú trọng đến nhạc trong văn, đến đức gọn, tinh xác và hàm súc tức như để quen với công việc sửa chữa, thôi sao. Lời đó có lý.

Viết văn xuôi, ta được tự do hơn làm thơ, nên có thói phóng bút, viết mau, mà viết mau thì văn có thể tươi sáng, song lời thường thừa, ý thường loãng. Làm thơ, bị vần, niêm luật, số chữ, số câu khiên chế, ta bó buộc phải tìm nhiều cách để phô diễn một ý, ta phải lựa những tiếng xác đáng, du dương, rồi đảo lên đảo xuống, thay đổi, cân nhắc: sự câu thúc đó sẽ đưa ta đến nghệ thuật.

Phương pháp của hai bạn thi sĩ đó tất phải có kết quả. Tuy nhiên, tôi e nó không phải một phương pháp chung, thích hợp với mọi người: những bạn nào không có khiếu về thơ mà theo cách ấy có thể mau thất vọng; vả lại văn vần và văn xuôi có những quy tắc khác nhau xa cho nên Tăng Củng ở Trung Quốc viết cổ văn rất hay[25] mà làm thơ không được, còn ở Việt Nam, Tản Đà thơ bất hủ mà văn xuôi thì kém.

Tóm lại, theo tôi thì trừ khi là một người có khiếu về thơ, ta mới đầu cứ thích cái gì viết cái đó, như vậy có dịp dò dẫm, tìm con đường đi, thử qua mọi loại để sau cùng lựa loại nào thích hợp với mình. Về điểm này, Jesse Stuart cũng bảo: “Thích cái gì cứ viết cái đó, rồi người khác sẽ thích”.

Nếu bạn không thích làm thơ mà muốn tập tự câu thúc mình trong khi viết thì tôi xin chỉ bạn một cách khác là dịch các danh phẩm ngoại quốc.

Sau khi viết ký ức và nhật ký như trên đã kể, tôi bỏ ra hai năm dịch pháp văn và hoa văn. Tôi dịch lung tung, ít trang của A.France. J.J Rousseau, V. Hugo, một chương trong cuốn Một nghệ thuật sống (Un art de vivre) của A. Maurois, trọn cuốn Huấn luyện tình cảm (L’éducation des sentiments) của P. F. Thomas, nhiều truyện ngắn, tùy bút của Hồ Thích và năm, sáu chục bài trong bộ Cổ văn quan chỉ.

Nhờ công việc dịch ấy, tôi học được rất nhiều và hiểu rõ tư tưởng của các tác giả hơn trước: lắm câu đọc qua tưởng là rõ ràng, đến lúc dịch mới thấy có chỗ chưa tỉnh xác, dễ khiến độc giả hiểu lầm. Khi dịch, tôi rán tìm những tiếng Việt để diễn đúng và khi viết tôi giữ được tập quán lựa tiếng, thành thử ngoài cái lợi được ảnh hưởng của nhiều danh sĩ tới phép hành văn, tôi lại tập thói suy nghĩ, phê bình và viết sao cho thật sáng sủa [26].

Người ta bảo Henry de Montherlant ngày nào cũng dịch Tacite để luyện văn. Điều ấy có thể tin được và gương ấy rất nên theo.

Chương nầy đáng lẽ đến đây là hết, nhưng tôi tưởng nên bàn thêm về vấn đề lựa chọn bút danh [27].

Khi nào bạn thấy văn của bạn đã đáng cho ra mắt độc giả thì tất nhiên vấn đề lựa bút danh sẽ làm cho bạn phải nhiều thắc mắc. Lựa tên gì? Đặt tên gì cho hay, cho kêu, cho những độc giả tương lai của mình phải tức thời chú ý?

Ồ, cái đó thì tùy bạn, bạn có thể dùng bút hiệu là A, B, C hoặc X, Y, Z hoặc Chàng Bẩy, Chàng Ba... Bạn lại có thể lấy ngay tên một thi hào đời cổ, chẳng hạn Nguyễn Du, Lý Bạch. Bạn cười ư? Có làm sao? Bạn chẳng thấy một ký giả Việt Nam kia đã mượn họ và tên hiệu của thi thánh Đỗ Phủ để ký bằng ba chữ Đỗ Thiếu Lăng?

Nhưng tôi xin dặn kỹ bạn điều này: phải cẩn thận, cẩn thận lắm lắm, đừng để bút danh của ta trùng với bút danh một nhà văn Việt Nam đương thời. Tối kỵ đấy!

Mới năm nào, đọc trên một tuần báo nọ ở Sài-gòn, tôi đã thấy chỉ trong nửa tháng mà đã có hai nhà văn la lên bải hải rằng họ đã bị người khác ký trùng tên. Tội nghiệp quá! Số văn sỉ nước mình hiện nay, kể cả những người từ trước chỉ viết có một bài báo vài chục hàng, có tới hàng ngàn hàng vạn mà những tên đẹp như Xuân giang Thu nguyệt… kiếm ra cho hết, cũng chỉ được năm, bảy chục, thì hỏi làm sao mà chẳng có những trường hợp ký tên trùng? Lỡ mà dùng lầm bút hiệu của một văn nhân chưa nổi tiếng là việc không ai nỡ trách, nhưng nếu không phải là Hồ Trọng Hiếu mà ký Tú Mỡ, không phải Nguyễn Khắc Hiếu mà ký Tản Đà thì không mong gì được người ta nới tay rìu búa! Vì ngại vậy nên mặc dầu đã được một ông bác đặt cho bút hiệu là Lộc Đình mà tôi vẫn cứ ký tên trên khai sinh.

Chú thích:

[23] Ta nên nhớ ông có công đầu về khoa học nguyên tử

[24] Một người Việt đã mở ở ba lê lớp hàm thụ bằng Việt ngữ dạy viets văn nhưng hình như không thành công vì ít người chịu học

[25] Tăng Củng đứng vào hàng bát đại gia ở Trung Quốc

[26] Tuy nhiên, vì dịch nhiều cổ văn, tôi đã có một thời mắc tật dùng nhiều hư tự ở cuối câu

[27] Chắc các bạn tò mò muốn biết phép đặt bút danh của một số nhà văn tên tuổi?

Hồi xưa các cụ phân biệt tên tự và tên hiệu

Phép đặt tên TỰ như vầy. Ví dụ tác giả cuốn Phan đình Phùng, họ Đào tên Nhất. Trong Luận ngữ có câu của Khổng Tử: “Ngô đạo NHẤT di QUÁN CHI (Đạo ta có một mối mà gồm đủ các mối). Ông Đào lấy hai chữ QUÁN CHI làm tên tự. Hễ thấy tên Quán chi thì người có học nho nhớ ngay tới câu đó rồi đoán được tên ông là Nhất”

Bùi Kỷ lấy tên là Ưu Thiên vì trong Tả truyện có câu nói rằng người nước Kỷ lo trời sập (Ưu Thiên là lo trời).

Hoàng Tích Chu lấy tên là Kế Thương (nối nhà Thương) vì nhà Chu nối nhà Thương.Lối dùng tên tự ấy có vẻ kín đáo tao nhã, nhưng bây giờ ít người thích vì chữ Hán không còn thịnh hành.

Tên HIỆU có hai cách đặt. Hoặc lấy tên núi, sông, tên làng, tổng phủ, tỉnh nơi mình ở mà đặt như Nguyễn Khắc Hiếu quê ở Sơn Tây nơi có núi Tản sông Đà nên ông lấy hiệu Tản Đà.

Hoặc thích cái gì thì lấy cái đó đặt tên, như Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy hiệu là Bạch vân cư sĩ (ông thích mây trắng thích ẩn dật), Phan Chu Trinh lấy tên là Hi Mã nghĩa là mong được như Mã Chí Ni (Mazzini) một nhà ái quốc đã có công thống nhất Ý Đại Lợi. Nực cười nhất là Lê Sĩ Quý, tác giả cuốn Phê bình cảo luận ký tên Thiếu Sơn, một tên vô nghĩa, chỉ vì hồi nhỏ thích một kép hát tuồng tên gọi Thiếu Sơn.

Những cách đặt tên tự và tên hiệu đó bắt chước Trung Hoa, còn bắt chước Pháp thì có cách bút mê (anagramme). Ví dụ Trần Khánh Giư tác giả Nửa Chừng Xuân ký tên Khái Hưng, là lấy những mẫu tự trong tên Khánh Giư đảo lên đảo xuống. (Nhưng tiếng Việt không có Giư) có lẽ là DƯ mà đổi là GIƯ chăng?

Cách sau cùng nầy thì chắc là của mình: Nguyễn Thứ Lễ ký tên là Thế Lữ. Thế Lữ là tên lái của Thứ Lễ.