CHƯƠNG II TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG
Nhà văn nên sống ở đô thị lớn hay ở tỉnh nhỏ?
Khi tôi mới lên ngụ ở Saigon, một ông bạn tiếp tôi trong một cửa hàng do ông làm chủ và đã bảo tôi:
- Lên đây anh khó mà viết lách. Hồi tôi ở H.T. tôi có trứ tác được, độ nầy hết hứng, mỗi năm chỉ làm được vài bài thơ… Đời sống ở đây bận rộn quá mà cũng ồn-ào quá!
Nghe tôi nói tôi tự nghĩ tại đời sống ở Saigon nầy thì ít mà tại không khí trong cửa hàng thì nhiều. Mắc làm con toán suốt ngày, viết sao được nữa?
Tôi nhớ Charles Braibant có nói: “Không khí thành Balê kích-thích, nhưng nó như một thứ thuốc kim thạch dùng luôn hóa quen. Ở lâu thì không khí đó làm ta kiệt lực. Bạn cũng biết rằng những gia đình lập nghiệp ở Ba lê đến đời thứ ba là tiêu diệt đấy chứ?”
Sự kích thích của không khí ở đô thị lớn cần cho nhiều nhà văn để sáng tác. Nhất là các nhà báo, phải tra cứu tài liệu trong các thư viện, nghe ngóng tin tức trong các quán cà phê, nếu sống ở tỉnh nhỏ, làm sao họ viết được!
Nhưng nếu luôn năm, bảy năm không ra khỏi chốn đô thị náo nhiệt, bên tai lúc nào cũng ầm ầm, trước mắt lúc nào cũng nhộn nhịp thì tâm thần ta tránh sao chẳng phải mệt mỏi, mà công việc trứ tác chẳng kém về lượng hoặc về phẩm?
Vậy nếu có một khu vườn ở ngoại ô châu thành, như tại làng Mọc, làng Bưởi, làng Ngọc Hà ở chung quanh Hà Nội, hoặc ở khỏi Gia Định, Phú Nhuận, Lăng Tô gần Sàigòn thì thích nhất và tiện nhất. Sống ở đây ta có thể tùy tiện ra đô thị tìm tài liệu ở thư viện, chuyện trò với các văn hữu hay tính toán công việc với nhà xuất bản, mà lại vẫn được tiếp xúc với thiên nhiên, ngắm đồng lúa, dòng nước, nghe tiếng sáo, tiếng chim
Được tận hưởng cái thú và cái lợi của cô tịch tại những nơi đó, nguồn cảm hứng của ta sẽ dồi dào mà tâm hồn ta cũng được gột rửa. Nhà thơ Alfred de Vigny nói: “Về thi ca, về triết lý, về mọi ngành văn chương, nếu chỉ có thì giờ để suy nghĩ rồi viết thì là hỏng,” Ông muốn khuyên ta phải mơ mộng một cái gì cao đẹp cho tư tưởng được khoáng đạt, văn từ được tiêm nhã. Nhưng ngồi đâu mà mơ mộng được? Ở nơi đồng quê tĩnh mịch hay ở nơi xe cộ ồn ào?
Bàn về chỗ làm việc thì trong phòng nên có một ghế xích đu, lúc nào mỏi lưng ta có thể nằm trên ghế mà suy nghĩ, đọc sách hay viết thảo. Nhiều nhà bác học, chính trị hoặc doanh nghiệp đã nhờ thứ ghế đó mà làm việc được suốt ngày.
Đến như sách là nguyên-liệu của nhà văn, ta cần biết giữ gìn và sắp đặt.
Nên làm hai thẻ cho mỗi cuốn, một thẻ sắp theo tên tác-giả, một thẻ sắp theo môn loại, và làm ngay từ khi mới mua về, đừng đợi lúc có bốn, năm trăm cuốn mới làm, ta sẽ thấy ngại lắm.
Sách ít, muốn sắp ra sao cũng được, càng nhiều thì càng phải phân loại kỹ lưỡng cho dễ sắp và dễ kiếm. Nếu mỗi cuốn có hai cái thẻ thì trong tủ có thể sắp theo chiều cao của sách. Ta sẽ chia sách làm nhiều ngăn, tùy theo khổ sách:
- Sách cao dưới 20 phân.
- Sách cao từ 21 đến 30 phân.
- Sách cao trên 30 phân.
Theo tôi cách sắp đặt chỉ trong cuốn Un art de vivre của Adrien Jans có thể theo được, tuy nó có chỗ bất tiện là những sách cùng một loại thường không cùng một khổ, thành thử cùng một ngăn mà có cuốn cao, cuốn thấp, trông không đẹp mắt:
1.Những cuốn ta thích nhất, không kể loại.
2. Những cuốn in đẹp:
a) sách về mỹ thuật,
b) sách về văn học.
3. Tiểu thuyết (Sắp theo chữ cái của tên tác giả)
4. Thơ (n.t)
Phê bình. Tùy bút (Sắp theo chữ cái của đầu đề)
5. Sử ký (Sắp theo thời đại và từng xứ)
Triết lý
6. Loại sách nhỏ về khoa học
Tiểu sử (Sắp theo tên người nói trong sách)
7. Tôn giáo
8. Tạp chí.
Chắc Adrien Jans có những lý lẽ riêng nên mới sắp Triết lý chung với Sử ký và Tiểu sử chung với Khoa học. Ta không cần theo đúng ông, có thể sắp Phê bình, Tùy bút, Tôn giáo chung một ngăn với Triết lý, Tiểu sử chung với Sử ký v.v.
Nếu không lập cho mỗi cuốn hai thẻ thư tịch thì ít nhất ta cũng phải ghi tên sách theo từng loại vào một cuốn sổ như dưới đây.
Trong cột 7 nên ghi bằng viết chì để dễ gôm những lời ghi khi trả sách vào tủ. Trong cột 6, có thể biên tên người mượn sách.
Khi sắp sách vô tủ, nên đặt đứng; những cuốn nặng nhất nên để ở những ngăn dưới, những cuốn thường dùng nên để vừa tầm tay cho dễ lấy, những cuốn nhẹ thì nên để trên cùng. [28]
Sách là kho tài liệu, nên chẳng những phải giữ gìn kỹ lưỡng, sắp đặt có thứ tự mà khi đọc còn nên ghi chép rồi lập một thẻ tài liệu cho những chương quan trọng. Nếu bỏ bừa bãi, không nhớ mình có những cuốn gì, trong mỗi cuốn có những ý gì quan trọng, tài liệu gì có thể dùng được thì chẳng khác chi có kho vàng mà không biết chỗ chôn đâu.
*Đã xét nhà ở và phòng, bây giờ tôi xin xét đến cách làm việc.
Về điểm này mỗi nhà văn có những thói riêng.
Có những người như Henri Béraud đi ngủ rất sớm, từ tám giờ tối để ba giờ sáng dậy viết một hơi tới mười giờ rồi nghỉ ngơi cả buổi chiều.
Có người lại quen viết buổi chiều từ ba đến bẩy giờ vì họ cho buổi sáng óc chưa có cái để làm việc, còn buổi tối phải nghỉ, nếu không sẽ mất ngủ.
Một số như Victor Hugo và nhất là Gustave Flaubert viết đều đều như một thư ký, cứ sáng tám, chín giờ là ngồi viết tới mười, mười một giờ, chiều cũng có những giờ nhất định. Hứng tới hay không cũng mặc, đến giờ là cắm cổ viết, như “một con trâu kéo cày”.
Flaubert, một nhà văn có nghị-lực phi-thường, đã khuyên ta:
“Đừng nói: “Lúc nầy tôi viết không được, đầu tôi trống rỗng”. Khi nào ngòi bút không tự nó đi thì phải bắt nó đi. Người ta cứ tưởng-tượng rằng bắt buộc như vậy, nó sẽ đi bậy bạ. Đâu có. Chỉ những ngòi bút được người ta điều khiển lâu mới thành ngòi bút hay. Muốn một cách mãnh liệt, quả quyết, bất biến thì việc gì cũng thành”.
Cách làm việc đó, đắc lực nhất và sẽ có ít phí sức nhất.
Nhưng văn sĩ không mấy người được như hai nhà đó, phần đông làm việc tùy hứng mà ác thay hứng thường tới ban đêm, trong những lúc tĩnh mịch nhất, vạn vật đều ngủ, tiếng động đều tắt. Hai văn sĩ bạn thân của tôi đều lấy đêm làm ngày và tối nào cũng uống trà tàu hoặc cà phê đậm để thức cho khuya,, thử hỏi làm sao mà không mau kiệt sức?
Nhưng có một điều mà phần đông các nhà văn đều công nhận là phải sắp đặt làm sao cho có thể làm việc liên tiếp ba, bốn giờ; nếu mới viết độ một giờ lại phải ngừng thì mỗi khi viết tiếp lại phải mất mươi, mươi lăm phút suy-nghĩ để cho óc quen với việc. Tôi vừa nói hai tiếng “phần đông” vì tôi được biết chuyện văn sĩ Aguessau một hôm đưa tặng bà vợ một tập tư tưởng do ông trứ tác trong những phút đợi bữa ở trước bàn ăn.
*Nếu viết đều đều suốt năm thì mỗi ngày năm, sáu giờ đã là nhiều lắm vì, như tôi đã nói, những lúc nhà văn không viết thì óc cũng ít khi được nghỉ, luôn luôn bị đầu đề ám ảnh, cả trong bữa ăn, giấc ngủ. Thì lực lưỡng đến như Balzac, lại ở một khí hậu mát mà nào có viết quá cái số giờ đó mỗi ngày!
Theo tôi, cuộc sống sướng nhất cho nhà văn là mỗi năm được du lịch bốn, năm tháng, vừa đi chơi vừa suy nghĩ, nhận xét tìm đề tài, rồi về đô thị thăm bạn bè, nhà xuất bản, tra cứu tại thư viện, sau hết kiếm nơi tĩnh mịch viết trong năm, sáu tháng, mỗi ngày viết độ bốn, năm giờ.
Tất nhiên, phải vào hạng ông hoàng trên văn đàn Âu, Mỹ mới có thể sống một cuộc đời phong lưu an nhàn như vậy. Còn như văn nhân nước mình, nếu không có một nghề thứ nhì thì dẫu có cắm cổ viết suốt năm, mỗi ngày bảy, tám giờ, cũng không đủ sống, cứ phải lo gạo từng ngày. Như thế, ý làm sao mà cao kỳ; văn làm sao mà già giặn? Vạn sự chỉ do nghèo!
Xin bạn nghe lời Charles Braibant khuyên các văn sĩ:
“Phải tránh đừng đau ốm. Nếu đau thì dưỡng bệnh ở đâu? Có những an dưỡng đường cho các giới trong đủ nghề, trừ cho nhà văn và nghệ sĩ.
Cũng tránh đừng chết; ai trả phí tổn đám tang cho?”
Ôi! Chua chát!
Charles Péguy than: “Tôi đau thận cần nghỉ hai tháng. Nhưng nếu tôi nghỉ thì mất cái đà viết”. Đau xót chưa?
*“Nếu nghỉ thì mất cái đà viết”, Péguy lo như vậy, nhưng tôi khuyên bạn mất thì mất, bạn cũng phải nghỉ, mặc dầu tôi biết rằng, viết đương có đà mà phải ngưng hàng tháng thì bực lắm, và khi viết tiếp, đã khó nhọc, lại kém hay. Bạn cần phải nghỉ để tránh khỏi chết sớm; còn như muốn tránh đau thì hãy nghe Dumas-con khuyên [29]:
“Mỗi ngày anh nên đi bộ hai giờ, mỗi đêm ngủ bảy giờ; ngủ một mình thôi; hễ thức thì dạy liền(.,) Đói mới ăn, khát mới uống, và luôn ăn uống chậm chậm (…).”
Ông lại căn dặn thêm:
“Dưới hai chục tuổi đừng gần đàn bà, ngoài tứ tuần cũng nên xa họ”
Chà, ông lão đó thật là kỹ lưỡng quá, thọ đến ngoài bảy chục cũng là phải!
Đã có một thời, nhiều văn nhân nước nhà ca tụng sự trụy lạc, hô hào rằng phải ăn chơi, phải “bốc đồng”, phải làm nô lệ cho phù dung tiên tử, phải mài miệt trong các xóm bình khang, phải như thế thì hứng mới tới, mới có thể sáng tác được, mới đáng mang cái danh hiệu nghệ sĩ. Phong trào ấy lan khắp nơi, thậm chí tới Vũ Ngọc Phan, một nhà văn đứng đắn cũng còn bênh vực họ:
“Trên đường nghệ thuật, trên con đường muôn ngả, người nghệ sĩ dùng cách nào để đi tới được nơi sáng suốt và hái cho nhân loại những thứ quả quý nhất thì thôi, ta không nên trách sao họ lại uống rượu, sao họ lại hút thuốc, sao họ lại không sống một cách vệ sinh như ta”.
Trong đoạn nầy, tôi không đứng về phương diện luân lý, cũng không đứng về phương diện xã hội, chỉ xin xét cái lợi của nhà văn.Theo tôi, chưa chắc đã cần rượu mạnh, nha phiến, mỹ nhân để kích thích mới có thể sáng tác được; nhưng tôi chắc hễ phí sức và phí tiền thì nhà văn tất mau chết, vợ con tất điêu đứng, văn nghiệp chỉ nửa vời. Ngoài ra chắc bạn đã biết, tại các dưỡng đường ở Sàigòn lúc nầy, tiền phòng mỗi ngày là trăm rưởi, nếu kể cả tiền ăn, tiền thuốc, tiền công cho bác sĩ thì tới năm trăm. Ruột tằm kia gỡ ra mấy tuần mới được số tiền ấy?
Mấy năm trước, một thi-sĩ có danh tuyên bố trên một tuần báo rằng một văn nghệ sĩ chỉ được sống bằng nghề cầm bút, không được có một nghề khác, nghĩa là phải đem hết thì giờ, tâm lực ra phụng sự văn nghệ, phải hoàn toàn chung thủy với nàng Văn hoặc nàng Thơ. Nực cười thay, một quan niệm hy sinh đến mực đó cho nghệ thuật!
Một anh bạn tôi đọc lời tuyên bố ấy, bĩu môi:
- Tôi không hiểu tại sao nhà thơ đó lại nói thế? Ai mà chẳng biết rằng chính anh ấy có tới ba nghề, ngoài cái nghề cầm bút mà gần đây anh ấy tỏ vẻ thờ ơ. Hay là anh ấy định “nay đã mần cha thằng họ Bạc, rầy thì bỏ mẹ cái nàng Thi?”
Phải lắm chứ, nếu bảo rằng phải sống về nghề văn và chỉ sống về nghề văn mới là văn nghệ thì té ra hết thảy những nhà văn thơ không chuyên sống về nghề bán thi văn phẩm như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, cả nhóm Tự lực văn đoàn và nhất là những thi hào đời trước của ta như Nguyễn Du, Nguyễn thị Điểm, Thanh Quan, Nguyễn Khuyến… đều không phải là nghệ sĩ hay sao?
Ngay như ở Pháp mà nghề viết cũng đã có từ thế kỷ 17, các thi văn hào thời trước như Corneille, La Fontaine, Molière, Bossuet, Montesquieu, J.J. Rousseau, Lamartine, Maupassant, Zola… và gần đây như Loti, Ferrière, A. France … cũng sống nhờ một nghề thứ nhì, ông thì đóng kịch, chép bản nhạc, ông thì làm luật sư hay tư chức, công chức, lại có ông làm … cố đạo.
Một quan niệm vô lý như vậy không có giá trị gì cả. Bạn có thể làm thêm một nghề thứ nhì, tôi còn muốn khuyên bạn nên làm thêm một nghề thứ nhì nữa.
Có một nghề phụ, trước hết bạn sẽ khỏi đói. Rồi nhờ không đói, bạn dễ giữ vững được tư cách, được tinh thần của bạn: khi con nheo nhóc, ì eo vì tới bữa mà bếp vẫn còn lạnh; khi vợ nhăn nhó vật vã mà không có tiền đi bác sĩ thì bạn có nghị lực đến đâu mà dám quyết sẽ không đem bán đấu giá nàng Văn và nàng Thơ dưới mọi hình thức cho một kẻ giàu sang bỉ ổi?
Tuy nhiên, nếu bạn gặp may mắn, đã đủ sống về cây bút thì tôi lại khuyên bỏ cái nghề phụ ấy đi nếu nó đòi hỏi bạn nhiều công sức, thì giờ và không có tính cách tiêu khiển [30].
Nhưng xin bạn đừng bỏ quá sớm. Nhiều tiểu thuyết gia mới xuất bản được vài cuốn bán chạy, vội bỏ các nghề khác để chuyên sống về tiểu thuyết thì bỗng nhiên cụt hứng viết, cụt hứng một cách lạ lùng. Lúc đó mới nguy!
Bạn hỏi tôi:
- Nên lựa nghề gì làm nghề thứ nhì?
- Thưa bạn, nghề nào hợp với khả năng của ta mà có lợi hoặc ít nhất cũng không hại cho nghề cầm bút.
Thiên Giang khuyên lựa một nghề tay chân. Nhà văn nầy có hồi làm thợ sắp chữ, có dạo cuốc đất làm vườn. Hư Chu, lúc nào rảnh viết thì cầm ngay cái đục, cái cưa, hí hoáy đóng bàn, đóng ghế, đóng chẳng ra trò gì cả, nhưng ông ta cũng rất thích.
Đồng ý với hai nhà văn đó, tôi vẫn ghét đời sống trên bàn giấy vì nó thiếu không khí, thiếu vận động, ăn không tiêu, phổi kép lẹp, tôi vẫn ước ao được như William Faulkner[31], sáng cầm bút, chiều cầm cầy; và vẫn mong trong xã hội ngày mai, người làm việc tinh thần sẽ có nửa ngày để làm việc tay chân, mà người làm việc tay chân cũng có nửa ngày để đọc sách. Nhưng trong hiện tình, một nghề tay chân khó nuôi được nhà văn, nên Thiên Giang đã thôi làm sắp chữ mà Hư Chu chỉ làm thợ mộc tài tử, lấy thùng sữa đóng cái bàn cái ghế cho “bầy nhỏ” mà thôi.
Như vừa nói, tôi vẫn ghét đời sống bên bàn giấy, nếu lại sống bên bàn giấy để làm thư ký, nghĩa là để tự biến thành cái máy chép, máy tính và để tiêu tan cả nghị lực, chí phấn đấu thì tôi càng ghét thậm; tuy nhiên nếu được làm một viên bảo thủ văn khố trong một thư viện như Staine Beuve, A. France thì có lợi cho nghề viết văn, ta sẽ thu nhập được nhiều tài liệu để soạn sách. Khuông Việt nếu không làm ở Thư viện Nam Việt chắc không viết được cuốn Tôn Thọ Tường và hẳn Lê Ngọc Trụ cũng nhờ làm ở sở ấy mà dễ soạn bộ Chánh tả Việt ngữ.
Không làm ở thư viện thì nên lựa nghề gì làm nghề phụ? Đi buôn? Mở nhà xuất bản hay lập tiệm bán sách? Được đấy! Đó là những nghề tự do, hợp với nghề viết văn. Song, tôi xin bạn coi chừng: một khi làm ông chủ tiệm, chưa chắc bạn có thể quyết giữ sao cho cây bút của bạn không bị nhẹ bỗng ở đầu cân. Thì nầy, bạn có dám chắc sẽ đủ nghị lực từ chối không tiếp khách hàng trong khi hứng đột ngột tới không? Làm chủ, bạn phải trông nom mọi việc, bạn sẽ bận rộn lắm, khó còn thì giờ để viết và cái nghề mà bạn mới đầu cho nó là phụ sẽ mau thành nghề chánh mất.
Suy đi nghĩ lại, nghề thứ nhì hợp với nhà văn nhất là nghề dạy học. Michelet cũng nhận vậy, ông nói:
“Từ khi tôi làm nghề ấy (nghề giáo sư), đời tôi rất điều hòa: một tay tôi soạn bài, một tay tôi viết sách.”
Sau khi cặm cụi trên trang sách bụi bậm, chữ thì nhỏ nét thì mờ, mà được nhìn nụ cười hồn nhiên, cặp mắt long lanh của thanh niên; sau khi tiếp súc với tư tưởng nghiêm trang của người xưa mà được nghe những ước vọng, tâm sự của bạn trẻ thì còn chi mà tâm hồn ta chẳng vui vẻ, nhẹ nhàng? Riêng nghề viết văn đã làm ta say mê, lại thêm nghề dạy học, một nghề mà các hiền nhân như Khổng Tử, Mạnh Tử, Socrate, Platon đều nhận là vui nhất, thì đời ta quả là một cảnh hoan lạc vậy. Nhưng học sinh phải ra sao kia thì dạy mới thấy thích.
Chú thích:
[28] Trích trong cuốn “Tự học để thành công” của tác giả.
[29] Hai cha con họ Dumas cùng là Alexandre, đều viết văn,, nên người ta phải phân biệt Dumas-cha và Dumas-con.
[30] Mấy nghề phụ đòi hỏi ta ít công sức, thì giờ và có tính cách tiêu khiển như: nghề nhiếp ảnh, nghề hội họa, nghề đóng sách…
[31] Một văn sĩ Mỹ đương thời, được giải thưởng Nobel 1949.