CHƯƠNG III VẤN-ĐỀ NGUYÊN TẮC
Tư-tưởng luôn-luôn là cứu cánh của nhà văn.
ALAIN
Mới từ khoảng mười lăm năm nay, một số nhà văn của ta đứng lên hô hào đặt vấn-đề nguyên tắc cho văn học. Trước hết có lẽ là Đặng Thai Mai trong cuốn Văn học khái luận, rồi tới Triều Sơn trong cuốn Con đường văn nghệ mới, gần đây thêm tác giả cuốn Văn nghệ nhân dân là Hoàng Công Khanh. Đó là chỉ kể những bài tùy bút in thành sách, còn những bài dài, ngắn đăng trên báo thì không sao ghi đủ được.
Xét chung, hết thảy các nhà văn đó đều có thiện ý vạch một con đường mới cho nghệ sĩ và con đường ấy rất chính đáng. Chỉ tiếc có người, hoặc vì hăng hái quá mà hóa thiên kiến, hoặc vì ý ít mà muốn kéo cho dài, nên lý-luận có chỗ hở, hay mâu thuẫn. Phê-bình kỹ ba cuốn kể trên, ít nhất cũng mất năm, sáu chục trang, công-việc đó tôi chưa có ý làm ở đây; chỉ xin vạch vài điểm không xác đáng để chứng thực lời tôi mới nói.
Chẳng hạn, Triều Sơn, trong cuốn đã dẫn, bảo phải đại chúng hóa văn nghệ:
Đại chúng hóa làm sao cho văn nghệ-phẩm không những dễ hiểu, dễ cảm đối với đại chúng mà nội dung của văn-nghệ-phẩm cũng thích hợp với tinh-thần đại-chúng. Ở đây vấn đề không phải chỉ ở hình-thức của văn-nghệ-phẩm (tức là kỹ-thuât của văn-nghệ sĩ) mà còn là – và trước hết là - ở phần chất văn nghệ phần tinh thần của văn-nghệ-phẩm, phần ý thức hệ chứa đựng, tiềm tàng trong văn-nghệ-phẩm.
“Thí dụ: Đại chúng đang hăng hái đi tới, văn chương đại-chúng-hóa phải có tinh thần tiến bộ, tính chất tiền phong trước hết, lại phải giản dị, dễ cảm, dễ lôi cuốn, thúc đẩy đại chúng tiến tới mạnh mẽ thêm”
(Trang 84-85)
Hình-thức phải giản-dị, dễ hiểu, về điểm này tôi hoàn-toàn đồng ý. Nhưng nội dung phải thích hợp với tinh thần đại chúng thì xin thú thực, tôi chưa hiểu rõ.
Nếu đại chúng đương hăng hái tiến tới thì văn chương phải có tinh thần tiến bộ. Vâng. Nhưng có hồi đại chúng thụt lùi thì sao? Văn nghệ cũng phải thoái bộ cho thích hợp với tinh thần đại chúng ư? Sau vụ thất bại Yên Bái chẳng hạn, đại chúng đã thụt lùi; mà mấy năm gần đây, đại chúng “ở thành” cũng thụt lùi; phần đông chỉ mê những thú thấp kém, chỉ đọc những truyên kiếm hiệp thì nhà văn cũng phải thích hợp với tâm trạng đó ư? Đó là chỗ hở của Triều Sơn.
Lại như Hoàng Công Khanh viết ba chương để bàn về kỹ thuật và nội dung. Mới đầu ông bảo:
“Kỹ thuật thật quan trọng. Nhưng chỗ quan trọng của nó là để diễn đạt nội dung”, (Trang 45).
Rồi ông lại viết:
“Nội dung hay, kỹ thuật kém thì chỉ giảm giá trị đi thôi. Ví như nước ngon, chè ngọt đựng vào cái bát đàn vậy. Nó chỉ bớt ngon đi phần nào thôi”.
(Trang 56)
Đã nhận kỹ thuật rất quan trọng để diễn đạt nội dung thì ít nhất cũng phải ví nội dung với trà, kỹ thuật với nước để nấu, như vậy mới đúng sự tương quan của hai cái đó; chứ ví kỹ thuật với cái bát đàn thì sai lắm: Cái bát đàn, nếu rửa sạch, không hề làm cho nước bớt ngon, trừ phi người ta tưởng tượng.
Chỗ khác ông lại viết:
“Kỹ thuật ở nội dung mà ra. Nội dung ví như thân người. Kỹ thuật ví như bộ quần áo. Giá trị thực sự của một người đâu phải ở những thứ đeo vào con người” (Trang 57)
Và mười lăm hàng sau, tác giả lại ví nữa:
“Một đạo quân cũng không khác. Cái quan hệ không phải ở những dẫy pháo đài, không phải ở khẩu súng bắn một phút 5000 phát, mà chính là con người đứng cạnh pháo đài và người nâng khẩu súng tì báng vào má để bắn. Con người ấy là nội dung mà pháo đài cùng súng ống chỉ đơn thuần là kỹ thuật”.
Trời đất! Pháo đài và khẩu súng bắn một phút 5000 phát mà không quan hệ? Thế thì Mỹ và Nga đã thậm ngu để bỏ ra hàng tỉ bạc, chế tạo các khí giới mới! Một tiểu thuyết gia mà không hiểu tâm lý tầm thường nầy là khí giới làm tăng lòng can đảm của binh sĩ ư? Và Nhật thua Mỹ vừa rồi chỉ do khí giới kém ư?
Rốt cuộc đọc hơn hai trang luận thuyết của ông, tôi chẳng biết ông muốn nói gì, lúc ông bảo hình thức rất quan trọng, lúc ông lại cho nó chỉ có công dụng tô điểm mà thôi!
Tôi vẫn trọng lý thuyết. Lý thuyết vạch đường cho hoạt động. Nhưng tôi rất ghét lý thuyết dài dòng và tôi tin rằng cái gì hợp với lẽ phải, rõ ràng thì không cần phải chứng minh nhiều, phần đông sẽ cảm thấy mà nếu có kẻ nào không cảm thấy thì cũng không thể biện thuyết cho họ cảm được.
Vậy tôi xin đặt lại vấn đề:
- Nội dung và hình thức, cái nào quan trọng?
- Hình thức hồi nầy nên ra sao?
- Nội dung nên ra sao?
Tôi nhận với Đặng Thai Mai rằng “nội dung quyết định hình thức, chứ không phải hình thức quyết định nội dung”. Lẽ ấy ai cũng hiểu: phải có cảnh trước mắt, tình cảm trong lòng, ý tưởng trong đầu rồi mới nghĩ tới việc phô diễn và tìm một bút pháp, những tiếng thích đáng.
Nhưng nói vậy không phải là hình thức không quan trọng, nó cũng quan trọng như nội dung. Có nhiều ý tiến bộ mà phô diễn quá vụng về đến nỗi ai mới đọc vài hàng cũng phải bỏ, thì nội dung có hay cũng vô ích: không có người đọc, làm sao có người cảm?
Đọc văn học sử các nước, ta thấy từ trước tới nay tác phẩm nào được lưu truyền cũng có giá trị cả về hình thức lẫn nội dung.
Chỉ có điều đó là chắc chắn; còn như muốn chứng minh rằng nội dung hay hình thức, cái nào là quan trọng hơn thì tôi cho là làm một việc không thể được. Cái đó còn tùy mỗi thời, mỗi người. Chẳng qua, khi văn trào quá duy mỹ, các văn nhân chỉ chú trong đến hình thức mà nội dung hóa đồi bại thì có những người phản động lại, đề cao nội dung lên; ngược lại, nếu văn trào “tải đạo”[32] đến cực độ, hình thức bị coi thường thì lại có người bênh vực, ca tụng nó. Vậy chủ trương hình thức quan trọng hơn nội dung hay ngược lại, đều là tùy mỗi thời và đều hữu ích trong một hoàn cảnh nào đó, chứ không thể chân lý tuyệt đối được.
Hình thức thời nào cũng phải đẹp, nhưng quan niệm về đẹp mỗi thời một thay đổi. Hồi xưa các cụ cho đối chỉnh, điển nhiều, cầu kỳ, du dương là đẹp, mà mới mấy chục năm trước, người ta còn thích ngâm những câu mà vế trên có Mạnh, Lư, vế dưới có Hoa, Nã[33] chọi nhau đôm đốp. Bây giờ thì chẳng riêng gì nước ta, khắp thế giới đều muốn văn phải bình dị, tự nhiên sáng sủa.
Đã đành từ hồi xưa, những đức vừa kể đã được nhiều nhà văn bênh vực (ở Trung Hoa có Đào Tiềm, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha; ở Pháp có Montaigne, Pascal [34] song tới thế kỷ này, mới được văn nhân khắp thế giới nhận là quan trọng nhất, là cần thiết nhất, trừ vài bọn quái đản, lập dị như bọn “đa đa”, bọn siêu thực, mà tôi đã nhắc tới trong cuốn Luyện văn.
Lẽ ấy cũng dễ hiểu. Hồi xưa – nghĩa là ba thế kỷ trước ở Âu châu và nửa thế kỷ trước ở phương Đông – nghề in còn phôi thai, sách đắt, chỉ một số rất ít quý phái và phú hào mới biết đọc, mua được sách, nên văn chương là xa xỉ phẩm của hạng người nhàn nhã; ngày nay, nghề in phát đạt, sách rẻ, hạng bình dân đều biết đọc, văn chương thành nhu cầu của mọi người, nhà văn không viết cho một số người nữa – trừ một vài trường hợp riêng – mà viết cho quảng đại quần chúng, thành thử văn phải sáng sủa, bình dị, tự nhiên.
Văn thời nầy cũng phải thành thực.
Trong hậu bán thế kỷ 19, trước những cảnh bất công mà hạng cần lao phải chịu, trước những chiến đấu mãnh liệt của kẻ yếu để đòi cho được một chỗ đứng dưới mặt trời, các nghệ sĩ thấy lòng mình rung động những cảm xúc mới, đã hăng hái xây dựng một lối văn mới: lối tả chân (cũng gọi là hiện thực).
Xã hội hàng ngày đầy những chuyện ly kì, làm ta sa lệ hoặc bật cười thì cần chi phải tìm đề tài ở thời cổ hoặc trong tưởng tượng nữa, cứ nhận xét ở chung quanh ta với lòng thông cảm, rồi ghi chép lại cho đúng là tìm được con đường sẽ tới của nhân loại và làm cảm động được người đọc, hướng dẫn được quần chúng.
Lối văn tả chân ấy cần đức thành thực hơn cả.
Renan nói rất đúng: “Sự thành công trong nghệ thuật hùng biện hay văn chương chỉ có mỗi một nguyên nhân là sự thành thực hoàn toàn”.
Một văn sĩ Mỹ hiện đại khuyên ta: “Bạn viết cái gì thì cái đó phải diễn những quyết tín chân thành nhất của bạn, nếu không văn bạn không có hy vọng sống.”
A Gide, mạnh mẽ hơn, quả quyết:
“Cái điều khó nhất khi người ta đã bắt đầu viết, là thành thực (…) Hoàn toàn thành thực.”
Xin bạn đừng vội hiểu lầm: tôi không khuyên bạn không được tưởng tượng đâu; tưởng tượng vẫn cần cho văn chương, nhưng bạn phải thành thực cả trong khi tưởng tượng, nghĩa là dùng sự thực để tưởng tượng rồi để lòng rung động như trước một sự thực, có vậy bạn mới quyến dũ được độc giả.
Sau hết, về nội dung tôi tưởng nhà văn thời nào cũng phải phụng sự cái Chân, cái Mỹ, cái Thiện. Có nhiều cách phụng sự ba lý tưởng ấy, song nếu chịu nhận xét ở xung quanh và suy nghĩ, thì ta thấy ngay rằng nhiệm vụ đầu tiên của nhà văn lúc nầy là vạch những đau khổ của nhân loại, những bất công trong xã hội, bênh vực kẻ yếu, an ủi kẻ nghèo và tìm cách xây dựng một tương lai rực rỡ mà mọi người hiểu nhau, hợp tác với nhau, không ai thù oán nhau, tranh giành, bóc lột nhau.
Quảng đại quần chúng là những kẻ yếu, nghèo, phải chịu nhiều bất công, nên nhiều nhà văn hô hào tranh đấu cho quảng đại quần chúng, điều ấy có chi lạ? Nhiệm vụ phụng sự nhân dân ấy tuy lớn thật, nhưng ta cứ tùy tài lực của ta, làm được phần nào thì làm, miễn là luôn luôn cố gắng và đừng bao giờ quên trọng trách.
Trong một bài đăng trên tuần báo Thanh nghị, Đinh Gia Trinh viết:
“Nhà văn, nhà thơ viết một tác phẩm là ném vào đời những tư tưởng, những tính tình, những rung động. Trong cái bể người, những tư tưởng đó sẽ truyền lan đi, gặp sự tán thành của một số tâm hồn xa lạ; những tính tình, những rung động diễn tả trong thi ca (…) cũng sẽ làm thức tỉnh dậy ở lòng người những tính tình tương tự.”
Những tính tình đó đã thức tỉnh, tất gây ra những hoạt động để lại một cái quả về sau, cái quả đó lại làm nhân cho những quả khác, như vậy cho tới vô cùng. Trong khi hành động, trong khi viết, ta ít khi nghĩ đến cái quả của công việc ta lắm, và ảnh hưởng của nó có thể rất lớn mà ta không ngờ. Đó không phải là lý thuyết đâu, thưa bạn. Đó là sự thực.
Thì đây, Hồ Thích trong một thiên tùy bút nhan đề là: “Cái bất hủ của xã hội”, kể chuyện suốt đời ông chịu ảnh hưởng lời sau nầy của Phạm Trẩn, một tác giả Trung Hoa sống trước ông một ngàn sáu trăm năm: “Thần đối với hình như sự sắc bén đối với con dao; chưa nghe nói dao mất mà sắc bén còn, há hình mất mà thần còn được?”
Ảnh hưởng của văn sâu xa như vậy nên tôi nghĩ trách nhiệm của nhà văn đáng sợ và không có nhà nào dám quả quyết rằng lương tâm hoàn toàn trắng tội và tôi không hiểu làm sao lại có những kẻ hăng hái cầm bút để ca ngợi những cái ti tiện của con người hoặc dùng phép ngụy biện để làm hoang mang kẻ khác.
Chú thích:
[32] Nghĩa là “chở đạo”. Hàn Dũ chủ trương “văn để chở đạo” –cũng như bây giờ ta nói về tuyên truyền đạo lý – để chống lại với tá phong duy mỹ đời Sơ Đường.
[33] Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Lư Thoa (Rousseau), Hoa Thịnh Đốn (Washington), Nã Phá Luân (Napoléon).
[34] Montaigue viết: “Giọng mà tôi ưa là giọng bình dị và thành thực nói ra sao thì viết làm vậy”.Pascal bảo: “Khi người ta thấy giọng văn tự nhiên, người ta vừa rất ngạc nhiên, vừa thích thú vì tưởng gặp một tác giả thì lại gặp một người”.