← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV TÌM Ý

Công việc đầu tiên và quan trọng nhất của nhà văn là tìm ý. Tìm cách nào? Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể cho dễ hiểu.

Chẳng hạn chúng ta muốn viết một cuốn sách về nông nghiệp ở nước nhà. Bạn cũng như tôi, chúng ta chưa biết chút gì về vấn đề ấy vì chúng ta không làm ruộng, cũng không phải là nhân viên sở Canh nông. Cứ ngồi trong phòng mà nghĩ thì may lắm viết nổi mười trang, mà dám chắc không được trang nào có giá trị.

Nhưng nếu ta về đồng ruộng, xem xét công việc cấy cầy ở mỗi nơi, ghi các đặc điểm của mỗi giống lúa, của mỗi thứ đất, rồi nghiên cứu về phân bón, nông cụ, sức sản xuất, cách đề phòng các thiên tai, trừ các loài làm hại lúa, về việc trữ lúa, bán lúa…; nếu ta lại đọc các sách, báo về nghề nông ở nước mình và nước người, vừa đọc vừa so sánh, suy nghĩ, tìm những nguyên nhân về sự lạc hậu của nông nghiệp nước nhà cùng những giải pháp để cải thiện nó; sau cùng nếu ta lại đích thân thí nghiệm những cải cách đó, chép những kết quả; tóm lại, nếu ta chịu làm ba công việc nầy: nhận xét, đọc sách và suy xét thì ta không thiếu ý nữa mà có thể viết được một, hai cuốn sách đầy những tài liệu quý giá, những ý kiến mới mẻ.

Trái lại, về một vấn đề dù quen thuộc với ta, như đời sống của học sinh chẳng hạn, nếu không chịu làm ba công việc kể trên, thì ta cũng chẳng viết được gì đặc sắc, ngoài những điều mà mọi người đều biết.

Vậy có tài liệu rồi mới có ý, mà tài liệu ở trong đời sống chung quanh ta và trong sách. “Bỏ qua giai đoạn đầu tiên, cần thiết cho mọi người cầm bút là tìm tài liệu thì bất kỳ vấn đề nào đối với ta cũng sẽ lớn quá, ngoài sức của ta”.

Trong các cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng, Hiệu năng, châm ngôn của nhà doanh nghiệp, Tự học để thành công, tôi đã chỉ những cách nhận xét, đọc sách, tìm và ghi tài liệu, ở đây chỉ xin nhắc lại vài ý chính.

Trong khi nhận xét, phải có một chương trình: xét những điểm nào, điểm nào trước, điểm nào sau, để khỏi quên những chi tiết nhiều khi quan trọng; rồi so sánh, phân tích.

Nên tập nhận xét mỗi ngày, bất kỳ vào lúc nào: chẳng hạn như khi đi đường thì để ý tới những căn phố, những hàng cây, hoặc những người xuôi ngược. Có điều gì lạ thì về nhà ghi vào một cuốn sổ tay, sau dùng làm tài liệu viết sách. Nhiều tiểu thuyết gia theo cách ấy; nhân vật trong truyện của Gustave Flaubert, Guy de Maupassant, A. Daudet, S. Maugham,… không do các nhà đó hoàn toàn tưởng tượng ra đâu, đều được tạo nên nhờ sự nhận xét.

S. Maugham đã chỉ cho ta biết cách làm việc của ông. Trong một cuộc du lịch, ông ghi vài nét về một cố đạo, một cặp vợ chồng nọ và một thiếu nữ nhí nhảnh, rồi ông lập nên cốt truyện sau nầy:

Một ả giang hồ ngồi máy bay từ Honolulu cùng đáp xuống Pago với vợ chồng một ông mục sư. Vì một bệnh truyền nhiễm mới phát, họ phải tạm ở lại nơi đó. Ông mục sư mạt sát ả giang hồ kịch liệt, muốn cho ả xấu hổ, phải hối hận, bỏ nghề bất lương của ả. Ông lại độc ác đến mức yêu cầu vị Thống đốc đảo đó đuổi ả về Honolulu. Nhưng một buổi sáng kia, người ta bỗng thấy thấy ông, cổ họng bị cắt: ông đã tự tử, còn ả nọ thì vui vẻ, tự tin hơn mọi ngày. Ả ngó các người đàn ông, khinh bỉ bảo: “Toàn là đồ heo”.

Đó là cốt truyện “Mưa” mà chắc nhiều bạn đã được đọc.

Cách sáng tác của Nhất Linh cũng tương tự.

Trong một cuộc phỏng vấn của Nguyễn Ngu Ý, ông nói:

“Tôi tạo Dũng – một nhân vật chính trong Đoạn Tuyệt – sau khi đọc một tin tòa án; một nhà cách mạng bị xử đày Côn đảo; trong đời anh ấy có vài điểm hay, tôi lấy anh làm mẫu để dựng Dũng.

Nhân vật nào của tôi cũng được “khai sinh” do người thật cả. Mà cô Loan tiểu thuyết do mươi cô Loan thật sự mà nên”.

H. M. Robinson cũng nhận rằng Stephen Fermoyle nhân vật chính trong cuốn The Cardinal của ông là kết quả sự tổng hợp tất cả các cố đạo mà ông đã biết.

Vậy trong loại tiểu thuyết, cần nhiều tưởng tượng hơn các loại khác mà nhận xét vẫn là nguồn dồi dào nhất để kiếm ý thì có nhà văn nào mà bỏ qua được công việc ấy? Chính nhờ tập nhận xét mà Guy de Maupassant thành một văn sĩ đại tài. Trong bài tựa truyện Pierre et Jean, ông nhắc lại lời khuyên của thầy học ông là Gustave Flaubert.

“Muốn diễn tả cái gì thì phải nhìn lâu vào nó và chăm chú để tìm được một trạng thái của nó mà chưa ai thấy hoặc nói ra. Trong mỗi vật, đều có một cái gì chưa ai khám phá vì chúng ta có thói quen, khi dùng mắt, chỉ nhớ tới những điều mà người trước đã nghĩ về vật đó. Vật nhỏ nhất nào cũng chứa một chút lạ. Phải tìm ra cái lạ ấy. Muốn tả một ngọn lửa cháy hoặc một gốc cây trong cánh đồng, ta phải ngồi trước ngọn lửa hoặc gốc cây đó cho đến khi thấy nó không còn giống một ngọn lửa hoặc gốc cây nào khác.

“Nhờ cách đó mà ta đặc sắc.

“(…) Khi nào đi ngang một người bán tạp hóa đương ngồi trước cửa hàng hoặc một người gác cổng đang hút ống điếu, anh hãy cho tôi biết người bán tạp hóa và người gác cổng đó ngồi ra sao, bề ngoài ra sao, anh phải lựa hình ảnh sao cho tôi thấy cái bề ngoài đó chứa cả tâm hồn họ, cho tôi không lầm lẫn họ với một người bán tạp hóa hoặc một người gác cổng khác; và khi đi ngang một bến xe, chỉ dùng một chữ thôi, anh phải cho tôi thấy con ngựa kéo xe nầy khác năm chục con ngựa đi trước hoặc sau nó ở chỗ nào”.

Bất kỳ nhà văn nào cũng cần tập nhận xét như vậy để hiểu vũ-trụ và nhớ những nét đặc-biệt của mỗi vật rồi diễn ra trong tác phẩm vì thuật mô tả là thuật đầu tiên của mọi người cầm bút.

Nhưng nhận xét nhiều khi không đủ; có những việc xẩy ra thời trước hoặc ở xa, làm sao nhận xét được? Phải đọc sách. Đọc sách còn hai cái lợi nữa: ý của người khác làm nẩy ra những ý mới trong đầu ta, và nhờ đọc sách mà đỡ mất công kiếm lại những điều người trước đã thấy.

Flaubert nói phải đọc ba trăm cuốn mới viết được một cuốn. Ai mà theo ông được? Ta chỉ cần nhớ rằng càng đọc nhiều càng quý. Tuy nhiên, trước hết phải giới hạn vấn đề cho rõ ràng để khỏi lạc trong cái rừng sách.

Ta nên biết, dù nghiên cứu suốt đời cũng không sao kiếm đủ hết những tài liệu, cổ, kim, đông, tây về một vấn đề. Vậy kiếm được những sách nào, hãy đọc những sách đó và một khi đọc hết rồi thì có thể viết ngay. Tôi còn muốn khuyên bạn phải viết ngay nữa: nếu chương nào còn thiếu tài liệu thì cứ bỏ trắng, sau sẽ thêm, chứ để lâu, bạn sẽ không thấy ham viết và khi viết phải nghiên cứu lại từ đầu. Vả lại có như thế, sách đã viết gần xong, chỉ còn thiếu ít chương, bạn mới thấy cần tìm thêm tài liệu để viết nốt.

Đọc sách để tìm tài liệu là những lúc vui nhất trong công việc của nhà văn; vui có phần không kém cái vui “xuân nhật tầm phương” của một thanh niên. Ta được tự do dạo ngắm khu rừng mênh mông của văn chương, ngừng đây một chút, hái bông hoa nầy, nghỉ kia một lát, nhìn dòng suối nọ.

Augustin Thierry đã tả nỗi vui của ông khi ông cặm cụi trên những cuốn sách của Thư viện quốc gia Pháp.

“Trong khi lòng như say mê, tay ghi chép hoặc lật những trang sách, tôi không biết chút gì về những việc xảy ra ở chung quanh. Bàn tôi ngồi lần lần chật người rồi thưa người, nhân viên thư viện hoặc những người tò mò, đi đi lại lại trong phòng mà tôi chẳng nghe thấy gì cả, chẳng trông thấy gì cả; tôi chỉ thấy hiện lên những cảnh và người mà sách đã gợi lên trong đầu óc”.

Michelet, một sử gia khác, giàu tưởng tượng hơn, đã viết một trang bất hủ:

“Tôi nhận thấy ngay rằng trong tĩnh mịch bề ngoài của những phòng ấy (phòng trong thư viện), có một cử động, một tiếng xì xào không phải là của cõi chết. Những giấy tờ, những bằng sắc để đó từ lâu, chỉ đòi sống lại. Những giấy tờ ấy không phải là giấy tờ mà là đời sống của những người, những tỉnh, những dân tộc. Mới đầu là những gia tộc, những thái ấp đầy huy chương trong bụi bặm, kêu nài người ta nhắc nhở tới. Những tỉnh đã nổi dậy, viện lẽ chính sách trung ương tập quyền thật vô lý, làm chúng bị tiêu diệt. Những tờ du của các vua cho rằng mớ luật lệ thời nầy không xóa bỏ được chúng. (…) Hết thảy những cái đó sống và nói, chúng bao vây tác giả như một bộ đội trăm lưỡi mà tiếng nói của Cộng hòa và Đế chế đã tàn nhẫn làm im bặt. Thong thả chứ, các ông quá cố ơi, xin các ông để cho tôi làm việc có tuần tự”.

Tại Âu, Mỹ, có những sở tài liệu chuyên thu thập, phân tích, giữ gìn tài liệu và sẵn sàng hướng dẫn công việc tìm tòi của bạn.

Ở nước mình, tài liệu đã thiếu mà bạn phải kiếm lấy trong các:

- tự điển, niên giám; tờ điều trần,

- thư tịch ký lục của ngoại quốc (vì ta chưa có loại nầy)

- tạp chí phổ thông hoặc chuyên môn.

- nhật báo,

- mộ chí, thư từ của tư nhân, công văn, mục lục sách, chương trình các cuộc hội họp, di tích đủ mọi loại của tiền nhân…

Khi tìm được một tài liệu hoặc một ý nào thì ta nên ghi lại liền, dù đã lên giường nằm rồi cũng phải dậy chép ngay vào một miếng giấy.

Một thi nhân Trung Quốc thời xưa, đương ngồi trong nhà xí, bỗng tìm được một vần thơ, vội kiếm cách ghi ngay lên tường cho khỏi quên. Một thi nhân khác, Lý Hạ đời Đường, luôn luôn đeo một túi gấm, hễ nghĩ được câu nào, chép ngay, bỏ vào túi.

Dwight L. Moody, một nhà thuyết giáo nổi danh ở Mỹ, mỗi lần lựa được một đầu đề nào thì viết lên một bao thư lớn, rồi khi đọc sách gặp một tài liệu hợp với đầu đề, hoặc khi dạo mát tìm được một ý, ông chép ngay lên một miếng giấy nhỏ, bỏ vào bao thư. Bao thư của ông khác gì túi gấm của Lý Hạ?

Tổng thống Lincoln không dùng bao thư mà dùng nón.

Nhưng ghi vội như vậy chỉ là để cho khỏi quên, trước khi viết còn phải chép lại kỹ lưỡng mỗi ý, rồi lựa chọn, sắp đặt. Nếu sách là một bộ khảo cứu quan trọng thì cách tiện hơn cả là dùng thẻ mà tôi đã chỉ vài kiểu mẫu trong cuốn Tự học để thành công.[35]

Bạn nên nhớ những quy tắc sau nầy khi viết lên thẻ:

- mỗi thẻ chỉ được ghi những ý thuộc về một đầu đề,

- chỉ nên chép lên một mặt thẻ, mặt kia để trắng phòng sau có muốn thêm bớt, sửa đổi gì không. Một thẻ không đủ thì viết tiếp sang thẻ khác.

- Nên ghi vắn tắt; nếu phải chép cả một đoạn dài thì nên chép vào một tập riêng, rồi trong thẻ ghi đại ý trong đoạn, cùng số tập và số trang có đoạn ấy.

- Khi trích một đoạn của ai thì phải chép cho thật đúng, ghi xuất xứ, lồng vào trong dấu ngoặc kép để khi đọc lại, khỏi lầm với những câu tóm tắt hoặc lời phê bình cùng cảm tưởng của bạn.

Trước khi chép vào thẻ, ta nên lựa kỹ mỗi ý. Thường ý nào mới tìm được, ta cũng cho là hay; nửa tháng hoặc một tháng sau, bình tĩnh xét lại, ta mới thấy nhiều ý không nên giữ.

Trong một chương trên, tôi đã nói nội dung quyết định hình thức mà lời văn thời nầy cần nhất là thành thực, rõ ràng. Vậy ý nào chưa được minh bạch thì bỏ đi, ý nào bạn chưa tin chắc cũng bỏ đi, đừng tham tiếc.

Nên kiểm soát, tự phê bình và nhờ bạn thân phê bình khi muốn phát biểu một ý kiến hơi lạ. Darwin khi soạn cuốn “Bàn về nguồn gốc các loài vật” đã bỏ ra mười lăm năm để tự chỉ trích lý thuyết của mình, đoán độc giả sẽ bắt bẻ về những điểm nào để rào đón trước. Trách chi tác phẩm của ông chẳng bất hủ!

Có nhiều nhà văn muốn tỏ ra mình thông thái và tưởng cứ khác người là hơn người, cố moi óc lôi ra những ý ngược đời chẳng ích gì cho nhân sinh. Họ ra thư viện lục hết sách nầy đến sách khác, trong hàng tháng, kiếm những tài liệu để chứng minh rằng nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm sinh trưởng ở đâu, tiễn chồng ở nơi nào, cưới được bao nhiêu năm thì chồng phải đi thú; hoặc Sở Khanh quất ngựa truy phong lúc nào, tiến về phía nào. Thúc sinh từ biệt Kiều để về thăm vợ cả hồi mấy giờ, ngày mấy tháng mấy. Thúy Vân sanh được nhiều con hay không…

Rồi họ cãi nhau hàng tháng về những tiểu tiết đó, ai cũng rán khoe mình học rộng, hiểu sâu. Thực uổng cơm áo nhân dân quá.

Nhưng ghét nhất lại là những kẻ lập dị. Họ đem tất cả tâm trí ra cố chứng minh và gân cổ cãi cho được rằng Hồ Xuân Hương chẳng hạn, không phải là một người thật, mà văn thơ ký tên bà là của các thư sinh ở Thăng Long, hoặc của các cô gái quê Nội Duệ; rằng truyện Kiều không phải của Nguyễn Du viết mà của toàn thể giai cấp nông dân Việt Nam thời cuối Lê, đầu Nguyễn. Một là hạng văn sĩ đó tin những điều họ viết thì chắc chắn là họ loạn óc, hai là họ chỉ có ý lập dị để ta chú ý tới họ thì ta chỉ nên mỉm cười mà liệng hết tác phẩm của họ vào sọt rác.

Chú thích:

[35] Đã sửa chữa, nhan đề đổi là Tự học, một nhu cầu của thời đại.