← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V VIẾT

Tôi chỉ viết để người khác đọc lại

- GIDE

Tôi có cần biết cách ông viết thế

nào đâu, chỉ cần biết ông viết có

làm tôi cảm động hay không thôi.

A. MAUROIS

Đọc sách báo, thỉnh thoảng ta gặp những câu như: “Nhà văn viết cuốn ấy trong cơn sốt”.

Cơn sốt đây không phải là bị cảm hoặc làm cữ mà nhiệt độ trong mình tăng lên 39, 40 độ đâu. Trong cơn sốt nghĩa là trong khi hứng tới, dịch đúng chữ fièvre trong từ ngữ fièvre de là création của Pháp.

Khi hứng tới, quả thật là máu chạy nhanh, dồn cả lên đầu, gân thái dương nổi lên, trán hơi nóng như bắt đầu cơn sốt nhẹ vậy. Lúc đó ta suy nghĩ rất mẫn tiệp, ý thao thao bất tuyệt mà lời cứ theo ý tuôn ra, ta hăng hái viết một hơi hàng chục trang một cách dễ dàng, trơn tru, không mảy may thấy mệt.

Công dụng của hứng quan trọng như vậy nên nhiều nhà văn rán tìm nó, dùng đủ cách để gợi lên “yên sĩ phi lí thuần”. Họ hoặc ra biển, lên núi để ngắm cảnh; hoặc chấp tay sau lưng, đi đi lại lại trên bãi cỏ như người khùng (kỳ cục! hình như cơ thể vận động thì dễ suy nghĩ); hoặc ngắm ảnh mỹ nhân treo trên tường, hoặc nhìn sọ người đặt trước mặt; từ nàng tiên nâu – thuốc phiện – đến nàng tiên xanh – rượu mạnh – từ tiếng đờn tiếng ca của các cô Hồng, cô Tuyết đến vị đắng vị ngọt của cà phê, trà tàu, có rất nhiều thứ đã được văn nhân, thi sĩ dùng để mời hứng tới! Mời được hứng tới đã khó, giữ được nó lâu còn khó hơn. Người ta kể chuyện muốn cho hứng khỏi mất, Balzac phải nhịn ăn, nhịn ngủ, uống toàn cà phê đậm, cởi cả giày, vớ, gác chân lên một tấm đá hoa lạnh và cắm cổ viết, viết luôn hai mươi bốn giờ.

Hứng giúp ta được nhiều thật, song ta đừng nên tưởng rằng hứng rất cần thiết, thiếu nó thì không viết được. Người Pháp nói: “Cứ ăn đi rồi sẽ thấy ngon miệng”. Tôi cũng có thể nói: “Cứ viết đi rồi hứng sẽ tới”. Thi sĩ Baudelaire bảo “công việc hàng ngày giúp cho hứng” là nghĩa vậy.

Flaubert bất chấp hứng, khi cây bút không chịu “đi” ông bắt nó “đi”, y như một nông phu bắt con trâu phải tiến. Ông cấm Maupassant nói: “Lúc nầy, tôi không viết được gì cả. Đầu tôi trống rỗng” và ông bảo: “Ngày nào cũng đúng giờ ngồi vào bàn viết, thế là hứng”.

Không những vậy, ông còn diệt hứng:

“Ta phải đề phòng cái sự phấn khích mà người ta gọi là hứng, trong đó thường có nhiều cảm xúc của thần kinh hơn là sức của bắp thịt. Chẳng hạn trong lúc nầy đây, tôi thấy cao hứng lắm, trán tôi nóng như lửa, câu của tôi tuôn ra (…) Đáng lẽ có một ý thì tôi có đến sáu, và đoạn nào cần phải diễn một cách bình dị nhất thì tôi tìm ngay được một hình ảnh. Tôi chắc chắn là có thể viết tới trưa mà không thấy mệt. Nhưng tôi biết sự giả dối và những lời dại dột của óc tưởng tượng. Cái gì cũng phải làm trong sự lạnh lùng, một cách chầm chậm. Khi Louvel muốn giết công tước Berry, y uống một bình nước lúa mạch[36] và y đã đâm trúng”.

Thực vậy, hứng nhiều khi gạt ta. Ta sôi nổi theo nó, chẳng suy nghĩ gì hết, tưởng ý nào cũng hay, lời nào cũng đẹp, chép cả lên giấy; đến lúc bình tĩnh đọc lại mới thấy phải xóa bỏ đi già nửa. Cho nên khi nào ngòi bút đi dễ dàng quá thì… nên coi chừng: phải thấy khó khăn, mà thắng được khó khăn mới là nghệ thuật.

Có hai cách viết.

Một cách là nghĩ từng đoạn, từng bài trước trong đầu, sửa chữa cũng ở trong đầu, xong xuôi rồi mới chép lên giấy. Người Trung Hoa gọi là “phúc cảo” nghĩa là làm bản dáp trong bụng. Đó là cách của Alfred de Vigny. Trong tập Nhật ký của ông có đoạn kể:

“Ngày và đêm, cả trong giấc ngủ, tôi viết một cuốn sách ở trong tâm linh tôi. Chép nó lên giấy tôi thấy nhẹ nhàng như được nghỉ ngơi hoặc như được chích máu ra[37].

Tôi có cấu tạo một cuốn sách đâu. Nó tự cấu tạo lấy. Nó chín và nẩy nở trong đầu tôi như một trái cây.

Baudelaire bảo cách đó mau hơn cả:

“Ngày nay phải sản xuất nhiều – nên phải đi mau - ; vậy nét bút nào cũng phải có kết quả, không một nét nào vô ích.

Muốn đi mau, phải suy nghĩ lâu từ trước, phải dắt díu đầu đề cho mình, trong lúc đi chơi, đi tắm, trong quán cơm và gần như cả trong khi lại nhà nhân tình nữa. E. Delacroix[38] một hôm bảo tôi: Nghệ thuật là một vật tận mỹ, phù du tới nỗi dụng cụ nào cũng không thích hợp với nó, phương tiện nào cũng không đủ nhanh để ghi nó”. Văn chương cũng thế, vậy tôi không chịu sự gạch, xóa: gạch xóa làm mờ tấm gương tư tưởng đi”.

Và ông chỉ trích cách viết của Balzac. Balzac hễ tìm được đầu đề nào là ngồi chép ngay tất cả những ý hiện ra trong óc rồi sửa đi sửa lại, thêm đoạn nầy, bớt đoạn khác, đảo lên đảo xuống, gọt giũa từng câu. Theo Baudelaire, chính vì không chịu nghĩ chín trong óc rồi hãy viết mà Balzac, văn không gẫy gọn, tiểu thuyết mất tính cách nhất trí.

Nhưng A. Gide lại bênh vực Balzac. Ông nói rằng mới đầu ông cũng làm sẵn câu trong đầu, khi nào nó hoàn toàn rồi mới chép lên giấy; nhưng sau ông thấy cách ấy không hiện thực bằng cứ “nắm” lấy khúc đầu hoặc khúc cuối câu, chẳng cần biết đoạn kia sẽ ra sao, “nắm” rồi “kéo” thì câu sẽ ra.

Hai lối viết đó thực trái ngược nhau. Tôi tưởng làm một bài thơ hoặc viết một bài văn ngắn thì có thể theo cách của Baudelaire; còn nếu soạn một tác phẩm dài mà suy nghĩ trước cho thật chín, không để có một nét bút nào vô ích thì lâu lắm, chứ không mau như ông nầy nghĩ.

Nhưng đó cũng còn tùy thói quen của từng người.

Riêng tôi, tôi đã theo A. Gide mà không ngờ. Mấy cuốn đầu, tôi nghĩ sẵn mỗi câu trong óc, đọc thầm nó thấy xuôi tai rồi mới ngồi dạy chép; nhưng sau thấy như vậy cũng mệt, phải nhớ từng ý, từng tiếng và sửa trong đầu không tiện bằng sửa trên giấy; nên tôi thay đổi phương pháp, nghĩ được ý gì là chép ngay, để “cụ thể hóa” tư tưởng cho dễ trông thấy rồi sửa chữa sau. Tất nhiên tôi phải tốn công chép bản thảo hai ba lần mới hoàn thành vì phải gạch xóa, thêm bớt nhiều, song tôi nghĩ, không vì vậy mà lời kém gãy gọn, sách thiếu tính cách nhất trí như Baudelaire đã bảo. Nếu sách tôi viết có hai tật ấy là tại tôi vụng, chứ không phải tại phương pháp làm việc.

Như tôi đã nói ở một chương trên, biết tự sửa văn tức là biết viết văn.

Sửa văn bằng óc và bằng tai. Sửa bằng óc là áp dụng những quy tắc về nghệ thuật viết văn để tìm lỗi trong văn mà chữa lại. Khi mới vào nghề, ai cũng phải dùng đến lối ấy.

Khi viết đã quen, thẩm mỹ đã đúng, thì chỉ cần đọc chậm và lớn tiếng, cũng thấy ngay được lỗi. Lúc đó ta sửa bằng tai. Ta không phân tích nữa, chỉ dùng trực giác mà xét. Gustave Flaubert cứ viết xong một đoạn lại ngừng, ném cây bút lông ngỗng vào cái mâm đựng bút rồi đưa cao tờ giấy lên, lấy giọng đọc. Các cụ ta hồi xưa bình văn cũng là để thưởng những câu hay và tìm những đoạn dở.

Nhưng đọc ngay sau khi viết, không thấy được hết lỗi. Nên đợi lúc hứng đã nguội, nếu có thể được, đợi lúc ta gần như đã quên hẳn đầu đề rồi hãy đọc lại, thì óc ta mới có thể tự xét văn ta một cách sáng suốt như xét văn người.

Nhà văn thường quá khoan hồng, nhưng cũng có khi quá nghiêm khắc với mình, mà không biết giá trị của mình: như trường hợp của Lytton, ông không ngờ rằng tác phẩm “Những ngày cuối cùng của thành Pompéi” của ông lại bất hủ.

Vì vậy, muốn chắc chắn, ta cần phải hỏi ý kiến người khác.

Thời cổ, các văn sĩ La mã đều đọc tác phẩm của mình trước một số đông bạn thân để nhờ họ phê bình. Các văn sĩ Pháp ở thế kỷ 17 cũng theo lệ đó. Nhiều văn hào đã có một người bạn thân làm cố vấn: tài làm thơ của Racine cao hơn tài của Boileau mà Boileau khuyên gì, Racine nghe vậy; và khi Bouilhet chết, Flaubert một bực thầy về kỹ thuật viết văn, than tiếc: “Tôi đã chôn ý thức văn chương, cái óc và kim chỉ nam của tôi”. Chateaubriand cũng nhận: “Luôn luôn tôi tin rằng người khác xét và thấy rõ hơn tôi”.

Một trong những hạnh phúc quý nhất của nhà văn có lẽ là tìm được một người phê bình thành thực và thông minh. Khi bước vào nghề cầm bút, bạn nên rán kiếm một người có đủ hai đức ấy.

Nhưng xin bạn đừng quên rằng ngoài chỗ thân tình ra, chớ bắt người khác làm hai cái cực hình là phê bình và sửa văn cho bạn. Một thi sĩ mà tôi quen, viết xong được một tập thơ nào là ôm đi, tìm những bạn cũ, cả những bạn đã mười năm trời không gặp nhau, gí bản thảo vào tay người ta bắt phải đọc rồi nửa tháng sau lại hỏi ý kiến, có khi tới lui hai ba lần, nhất định đòi nghe cho được mới thôi. Ai mà chẳng khen, khen lấy lệ? Như vậy đã thiếu xã giao mà cũng chẳng lợi gì cho nhà thơ ta cả, vì những lời khen miễn cưỡng đó có giá trị gì đâu? Nhưng xét kỹ thì ông ta làm vậy chỉ vì muốn khoe và ham được khen, thế thôi, chứ chẳng vì muốn sửa thơ văn gì cả.

Viết văn mà diễn đúng được hết những tình cảm, hoài bão tư tưởng của mình, thì là một nỗi vui rất lớn.

Nhiều nhà văn đã rán phân tích cái vui ấy. Lạ lùng nhất là những đoạn sau nầy mà tác giả ví cái vui sáng tác với cái vui nhục dục, một cái hoàn toàn thuộc về tinh thần, một cái thuộc về thể xác.

A. de Vigny viết:

“Trong thâm-tâm tôi, có cái gì mạnh hơn cái đó (lòng ham danh) nó làm cho tôi viết, tức cái sung-sướng say mê khi có hứng, say mê hơn cái vui xác thịt trong cánh tay một người đàn bà nhiều lắm. Khoái lạc về tâm hồn lâu bền hơn”.

G. Flaubert trong bức thư cho Louise Colet mô tả tinh tế hơn:

“Một đầu đề để viết, đối với tôi cũng như một người đàn bà mà tôi mê vậy; khi nàng sắp chiều ta thì ta run lên và ta sợ; một nỗi sợ khoái chá, ta không dám động tới cái mà ta ham muốn”.

Chỗ khác, ông làm cho ta hoảng:

“Có cái gì thâm thúy và cực kỳ khoái chá vọt ở trong người tôi ra thành từng vòi gấp rút, như là tâm hồn tôi xuất tinh vậy”.

Đọc câu ấy, ai mà không nhớ tới mấy vần sau này của một thi sĩ bị cùi, gần như điên, là Hàn Mặc Tử?

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút,

Mỗi lời thơ đều dính não cân ta,

Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,

Cho mê man, chết điếng cả làn da.

Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết,

Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh,

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết,

Cả lòng ai trong mớ chữ rung ring.

Tôi không phải là nghệ sĩ, không hiểu nổi nỗi lòng của chư vị ấy, và tôi ngờ rằng họ đã tưởng tượng, không nhiều thì ít. Tôi thấy cái vui sáng tác không rùng rợn như vậy mà thanh thoát lắm. “Nó không pha chút chua xót hoặc khao khát như cái vui được gặp mỹ nhân; nó không ồ ạt, hồi hộp, đượm chút vị kỷ như cái vui thấy mình danh toại. Nó hoàn toàn trong sạch, đầy đủ và cao cả. Ta thấy hồn ta như muốn lâng lâng, bay bổng lên thinh không, cho nên Lư Khê đã ví những phút vui ấy với những phút vui thoát trần”. [39]

Tuy nhiên, vui vẫn ít mà khổ vẫn nhiều. Hứng tới, ta thấy thích thật nhưng ta có dùng mọi cách để giữ nó thì cơ thể ta cũng không thể chịu đựng nó được lâu, rồi nó cũng rời ta để mặc ta lao tâm gọt văn, phô ý. Cho nên trừ một số nhà văn viết cực dễ dàng mà phần đông họ không thành công, còn những nhà lưu danh thiên cổ thì đều nhận viết văn là một cái nợ, mệt hơn kéo cầy: J. J. Rousseau thức suốt đêm để nghĩ văn; Buffon cứ viết được một lúc, thấy nóng đầu, phải ngưng, đi chơi cho mát người rồi về viết tiếp; Taine hễ ngồi viết hai ba giờ luôn là đầu choáng váng, không còn suy nghĩ được nữa, tinh thần như kiệt đi.

Và đây ta nghe Philippe Soupault than thở:

Khi người ta đem ấn cảo lại cho tôi sửa[40] là nỗi “đau khổ” của tôi tới. Tôi cắt bớt, kéo dài, đẽo, gọt rồi xé bỏ. Lúc đó là lúc khó nhọc. Tôi bảo: “Chán lắm rồi! Không muốn viết tiểu thuyết nữa đâu”. Tôi lại cắt, lại sửa, coi lại bài. Tôi viết lại cả cuốn sách “trong cơn đau khổ”.

Tận tụy nhất với nghề, có lẽ là Flaubert. Trong những bức thư cho Louise Colet, luôn luôn ta thấy giọng rên rỉ như một người bị cực hình:

“Tôi cắn rứt, tôi ngứa ngáy khó chịu. Tiểu thuyết của tôi khó viết quá”.

Lần khác:

“Truyện Bovary tiến chậm: một tuần được hai trang”

“Tôi đã sửa chữa, chép lại, thay đổi những trang trong cuốn đó (cuốn Bovary) nhiếu tới nỗi bây giờ trông vào hoa cả mắt… Tôi không hiểu tại sao đôi khi cánh tay tôi không rụng khỏi thân tôi vì mỏi mệt, và không hiểu sao đầu tôi không nát nghiến ra. Tôi sống một đời khắc khổ, thiếu hẳn nỗi vui ở ngoài…”

Trong những hàng ấy, chắc ông không nói ngoa cho lắm, vì chính Maxime du Camp, khi chép kỷ niệm về ông, cũng viết:

“Ông ấy rên rỉ, hổn hển, quay cuồng trong khi viết, thở phì phì như anh thợ nhào bột vậy; coi không phải là một nhà văn cầm cây bút nữa mà giống một anh phu nhễ nhãi mồ hôi. Có lần ông mệt tới nỗi, đúc xong được một câu, ông thấy cơ thể rã rời, văng mình xuống ghế tràng kỷ mà ngủ thiếp đi”.

Khổ như vậy, nên nhà văn nào mỗi khi viết xong một tác phẩm cũng đặt bút xuống, thở phào ra, khoan khoái trong mình. Người ta bảo tác phẩm là đứa con tinh thần của nhà văn. Chí lý thay! phải hoài thai nó hàng tháng, hàng năm, trong lúc đó, đi đâu, làm việc gì cũng nghĩ tới nó, rồi khi đẻ nó ra thì vừa khổ mà vừa sướng.

Nhưng tình của nhà văn đối với đứa con tinh thần có hơi lạ. Anh em Goncourt viết trong tập Nhật ký.

“Thật kỳ dị, về văn chương, tác phẩm viết xong rồi, thì ta cắt tình hẳn với nó. Tác phẩm mà ta không mang nặng, không nuôi nấng nữa, đối với ta hình như xa lạ. Bạn lạnh lùng, buồn chán, gần như ghê tởm sách của bạn viết ra”.

Hai bạn thi sĩ của tôi cũng nhận vậy. Bài thơ nào mới làm xong cũng thích, thích hơn hết cả những bài trước: nhưng chỉ ít lâu, rồi lại đâm ghét, không buồn nhắc tới nữa.

Có người khi viết xong một tác phẩm là muốn tống nó đi liền, muốn giao ngay cho nhà xuất bản, làm gì thì làm, vì hễ còn trông thấy nó là còn nhận thêm ra được một vài tật của nó, rồi lại phải mệt óc sửa chữa, xóa xóa, bôi bôi.

Loài vật, khi mới sanh con, rất cưng nó, hy sinh để bảo vệ nó, nhưng khi nó đủ lớn, đã đủ sức để sống một mình thì mẹ con không còn chút tình gì với nhau cả. Tình của nhà văn đối với những đứa con tinh thần của mình phải như vậy chăng?

Mà nghĩ kỹ, lẽ ấy cũng tự nhiên. Có cắt tình như thế nhà văn mới sáng tác thêm được nữa; nến cứ đèo bồng mãi với tác phẩm cũ thì sẽ coi đi coi lại hoài, sửa tới sửa lui hoài mà cái việc sửa văn, biết thế nào là xong? cái việc thưởng văn, biết thế nào là toàn bích?

Xét về viết văn thì không thể quên vấn đề đạo văn. Đạo văn có nhiều hình thức: trích dẫn một bài hoặc một đoạn mà nhận làm của mình, bắt chước bố cục của người để soạn lại một cuốn sách, mượn cốt truyện để phóng tác, dịch mà không xin phép tác giả, đều là đạo văn.

Kẻ nào cố ý đạo văn sẽ bị luật pháp trừng trị nặng, luôn luôn phải bồi thường cho tác giả một số tiền, có khi rất lớn. Bạn chắc chưa quên vụ một nhà báo nọ tự tiện trích đăng bài trong tập Cảo Thơm và vụ một hãng nọ thâu thanh một bản nhạc mà chẳng xin phép nhạc sĩ. Họ đều phải bồi thường cho tác giả hàng vạn bạc.

Thời nào cũng có những vụ đạo văn rất ly kỳ. Người ta kể chuyện năm 1605, Cervantès xuất bản tập đầu bộ Don Quichotte, được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt và thúc giục viết tiếp cho mau. Ông chưa viết xong thì ở tiệm sách đã thấy bày tập nhì bộ Don Quichotte rồi. Thì ra có một nhà văn nọ ganh tị sự thành công của ông, hối hả viết nối để bôi nhọ hai nhân vật chính trong truyện một cách tàn nhẫn. Ông vội vàng viết cho hết phần nhì và phần nầy được hoan nghênh còn hơn phần trước. Thành thử kẻ nọ muốn hại ông mà rốt cuộc làm cho danh ông càng nổi lên như cồn.

Gan nhất có lẽ không ai bằng anh chàng trong câu chuyện dưới đây.

Ngày 10-10-1841 tờ báo La Presse ở Pháp đăng truyện Le val funeste (Thung lũng bi thảm) của Courchamps viết theo tài liệu Cagliostro. Courchamps là một gã lang thang đã làm đủ nghề, cả nghề bồi phòng. Tiểu thuyết y đăng rất lãng mạn, nên độc giả rất hoan nghênh. Một tờ báo khác tố cáo rằng y đã cóp đúng một tiểu thuyết của Potoki, nhan đề là Alphonse Van Werden.

Tức thì Courchamps cực lực phản kháng, tỏ vẻ uất ức, phẫn nộ lắm, bảo kẻ nọ ghen tị mà vu oan cho mình, thái độ đó ti tiểu và đáng khinh bỉ. Tờ báo kia thấy thế, không thèm cãi lại, thản nhiên đăng đoạn nối và từ đó truyện Le de funeste được người ta giễu là Le vol funeste (Đánh cắp bi thảm).

Courchamps thực là “gái đĩ già mồm”, bị bắt quả tang mà còn gân cổ ra cãi, tưởng đâu người ta không trưng bằng cớ ra được, không ngờ một ký giả của tờ báo kia có sẵn cuốn tiểu thuyết đó trong tay.

Ta nên phân biệt đạo văn và bắt chước văn. Bắt chước là mượn ý của người khác rồi suy nghĩ thêm, xếp đặt lại, diễn một cách khác. Trong giới văn nhân, người ta thường công nhận ý là của chung, lời mới là của riêng. Goethe, một đại văn hào của Đức đã nói: “Ngày nay chúng ta không thể nào còn tìm ra được một tình trạng nào mới mẻ nữa. Chúng ta chỉ có thể mới – nếu cho là mới - ở cái cách thức, cái nghệ thuật phô diễn mà thôi. Tùy Viên, một thi hào đời Thanh cũng nhận: “Miệng ta muốn nói cái gì thì cổ nhân đã nói rồi, tay ta muốn viết cái gì thì cổ nhân đã viết rồi”.

Lời của Goethe không đúng hẳn, thời đại mới thì luôn luôn có những tình trạng mới chứ! Nhưng quả như Hư Chu đã bảo: “ (..) nếu bạn không phải là một vĩ nhân thì hết thảy những điều có thể có trong óc của bạn (…) đều đã có và đang có trong một bộ óc nào khác”, cho nên tôi đã thấy sự mượn ý hoặc trùng ý đã xảy ra rất thường.

Machiavel mượn ý của Plutarque; Shakespeare dịch nhiều câu của Montaigne; Molière, V. Hugo, Nguyễn Du… đều đã mượn ý của người xưa mà vẫn là những thi hào, văn hào bất hủ. Người ta còn khuyên chúng ta nên học cách “mượn văn” – ai dám bảo các vị ấy là đạo văn? – của những thiên tài đó nữa.

Tuy nhiên khi mượn văn, bạn nên nhớ điều này là mượn của người xưa thì không đáng trách, còn mượn của một nhà văn đương thời thì vẫn bị thiên hạ chê bai.

Edmond Rostand một nhà soạn kịch đại tài của Pháp, tác giả những vở Aiglon, Chantecler mượn ý trong vở Ông hoàng lái buôn Corneville của người đương thời là Eberly Gross mà trước tác vở Cyrano de Bergerac. Gross bèn đi kiện, Edmond Rostand thua, vở Cyrano de Bergerac, bị cấm không được diễn. Người đương thời ai cũng chê Edmond Rostand. Bây giờ thì chẳng còn ai trách mà lại khen ông đã có công rút ở một tác phẩm tầm thường ra một danh tác. Như vậy có phải là mâu thuẫn không chứ? Vấn đề đạo văn cũng rắc rối thật!

Có tác giả mượn một cốt truyện để bác một luận đề trong truyện đó. Bạn còn nhớ vụ án “Cô giáo Minh” hồi tiền chiến? Nhất Linh viết cuốn Đoạn Tuyệt để chủ trương cắt đứt những liên lạc với đại gia đình. Nguyễn Công Hoan chống lại chủ trương đó, xây dựng một truyện khác giống Đoạn Tuyệt, tức truyện Cô giáo Minh để khuyên độc giả rằng hai thế hệ cũ và mới có thể sống chung với nhau được và không nên đoạn tuyệt với đại gia đình. Tự lực văn đoàn thấy thế, công kích ông là đạo văn. Vô lý quá!

Chú thích:

[36] Thứ nước đó có tính-cách rất mát.

[37] Thế kỷ 18 và nhất là thế kỷ 17, y học phương Tây chưa tiến, các y sĩ thường dùng phép chích máu để chữa nhiều thứ bệnh. Khi mới chích, bệnh nhân thấy dễ chịu được một chút.

[38] Một họa sĩ.

[39] Trích trong cuốn Luyện văn của tác giả.

[40] Các tác giả thường viết vội lên giấy, đưa cho ấn công sắp chữ rồi mới sửa trên ấn cảo.