← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI TRÌNH – BÀY TÁC – PHẨM

Trong mục “Hộp thư”, ông chủ bút một tờ tuần báo nọ đã “nhắn” các bạn văn gởi bài đăng, đại ý như vầy:

Xin các bạn nhớ kỹ cho: viết trên một mặt giấy, không cần để lề, song phải viết rõ ràng, đúng chánh tả, ? ~ cho kỹ lưỡng. Một nhà văn mà trình bày tác phẩm cẩu thả không thể là một cây bút có giá trị.

Rõ ràng là thái độ một bực huynh trưởng trên văn đàn.

Đọc xong, tôi mỉm cười, nhớ lại lời các bực sư phụ rầy chúng tôi hồi nhỏ:

“Chữ viết như gà bới thế kia thì tao truyền đời cho mày, sau nầy không sao mở mặt được, nghe chưa?”.

Tôi không biết ông chủ bút nọ trình bày bài báo của ông ta sao, nhưng tôi biết văn sĩ nổi danh mà viết như ma lem. Chẳng hạn Honoré de Balzac, một thiên tài làm vẻ vang cho nước Pháp, ngoáy tít trên bản giáp, đưa cho ấn công sắp chữ, và vỗ một bản cho ông; ông sửa ngay trên bản đó rồi liệng cho thợ sắp lại, vỗ lại rồi đưa ông sửa lại, như vậy hai ba lần,[41] mà lần nào thợ cũng thở dài, lắc đầu vì ông viết đã xấu, lại bôi móc nhiều quá đến nỗi ấn cảo thành một lá bùa, chằng chịt những nét dọc, nét ngang, nét xóa, nét ngoặc, bốn năm người thợ xúm lại đọc, toát mồ hôi, lạnh cả người mà không ai dám đem lại hỏi ông, sợ ông nổi cơn lôi đình của ông lên.

Tôi chưa có dịp coi bản thảo của Đào Trinh Nhất nhưng tôi còn giữ một bức thư của ông gởi cho tôi khoảng một năm trước khi ông mất: ông viết tháu quá, không thành chữ, tôi chỉ còn đoán chứ không đọc nổi. Thư cho một người lạ - tôi chưa từng gặp mặt ông – mà còn vậy thì bản thảo đưa cho thợ in tất ra sao!

Những nhà đó, ai mà dám ngầy ngà họ? Có khi người ta lại thán phục là khác, thán phục rằng viết tháu như vậy mới là bực tài hoa!

Thì ra ở đời, hễ lép vế là bị mắng oan. Tôi không ưa cái giọng đàn anh của ông chủ bút nói trên, song tôi nhận bài học của ông rất nên theo.

Đọc một cuốn sách của Mỹ dạy cách viết báo, tôi càng thấy nhà văn nước mình chưa biết chú trọng đến cách trình bày bản thảo. Dù là viết một bài để đăng báo, dài năm, sáu trang, người Mỹ cũng trình bày công phu: ở ngoài là cái bìa, trên đó có ghi nhan đề, tên tác giả, gởi cho báo nào, cách trả tiền ra sao, tài liệu lấy ở đâu, trọn bài có bao nhiêu chữ, bao nhiêu hình; ở trong thì trang nào cũng đánh máy rất sạch, những lỗi đều sửa rất kỹ lưỡng; mỗi đoạn có tít, tít dùng lối chữ riêng, hình đã đẹp lại có chú thích; còn về phương diện chánh tả thì khỏi nói, có lẽ khắp thế giới chỉ có ở cái nước bốn ngàn năm văn hiến của chúng ta là chín phần mười nhà văn bất chấp chính tả mà thôi.

Trình bày cẩn thận bản thảo như thế có nhiều cái lợi:

- trước hết, tòa báo hoặc nhà xuất bản dễ có cảm tình ngay với tác phẩm.

- đỡ tốn công cho nhà in và cho cả tác giả trong trường hợp tác giả sửa lấy ấn cảo.

- công việc ấn loát được như ý và nhờ vậy giá trị cuốn sách hoặc bài báo có thể tăng lên.

Ở Âu, Mỹ, nhà văn nào cũng biết đánh máy và rất ít bản thảo chép tay. Ở nước mình thì hầu hết các nhà văn phải viết tay. Ít nhất phải có hai bản và muốn khỏi chép hai lần, bạn nên xen một tờ giấy than (nên lựa thứ giấy than để viết, đừng dùng thứ để đánh máy) vào giữa hai tờ giấy mỏng rồi dùng một ngòi viết cứng mà viết hơi mạnh tay.

Nếu đánh máy thì rán kiếm cho được một cái máy đánh tiếng Việt, để sau khỏi phải làm thêm một việc rất chán là bỏ dấu. Đánh ít nhất là ba bản: một bản giữ lại, hai bản gởi cho đi kiểm duyệt hoặc nhà xuất bản nếu họ chịu mua[42]. Không cần để lề, nhưng cách hàng nên thưa, để sau dễ sửa chữa thêm bớt.

Chỉ nên viết hoặc đánh trên một mặt giấy thôi để nhà in có thể cắt mỗi tờ giấy làm nhiều mảnh và giao cho nhiều thợ sắp cho mau. Nói riêng về những tác phẩm thuộc loại biên khảo thì ta cần phải trình bày kỹ lưỡng. Nên có một bài tựa cho biết:

- mục đích khi viết sách đó.

- Tác giả đứng về phương diện nào mà nghiên cứu?

- sách ích lợi ra sao?

- Sách có những phần nào quan trọng?

Nên dùng những chữ lớn, nhỏ viết bằng mực khác màu để phân biệt những chương và đoạn cho thợ sắp chữ dễ thấy.

Khi cần chú thích thì đánh số rồi gạch một hàng, chép lại số đó ở dưới đường gạch rồi biên lời chú thích bằng một lối chữ riêng (chữ nghiêng chẳng hạn) biên xong lại gạch một đường nữa, như dưới đây:

Những bài thơ trong Kinh Thi làm trong đời nhà chu (thế kỷ XII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên) và chia làm ba loại: phong, nhã, tụng. (1)

(1) Có tác giả chia làm hai loại: phong và nhã. Phong là của bình dân; nhã (gồm cả tụng) là của quý tộc.

Quố phong. – Quốc nghĩa là nước: nhà Chu và các nước chư hầu. Phong nghĩa là gió, ý nói bài hát cảm người ta như gió lay động các vật.

Trình bày như vậy có lợi là thợ sắp chữ khi gặp đoạn ở giữa hai gạch ngang, nhớ chừa ngay ít hàng ở cuối trang để sắp lời chú thích, không mắc cái lỗi sắp lấn chú thích vào trang sau vì thiếu chỗ. Tuy nhiên ấn công nước mình chưa quen lối trình bày đó, vậy bạn phải giảng cho họ một vài lần để họ hiểu, nếu không, họ có thể sắp lời chú thích vào giữa trang.

Khi trích dẫn một đoạn dài của ai thì nên xin phép tác giả và chỉ rõ xuất xứ như:

Trích trong Nho giáo của Trần Trọng Kim, cuốn I,

(Tân Việt – Saigon – 1953)

Nên chép đoạn đó bằng một lối chữ khác hoặc lui vào độ một phân cho độc giả dễ nhận.

Người Âu Mỹ thường dùng những chữ viết tắt:

Ibid nghĩa là cũng trong cuốn đó.

Op. cit nghĩa là trong cuốn đã dẫn.

Chúng ta có thể dùng những chữ gần như có tính cách quốc tế ấy, song tôi vẫn muốn đề nghị những chứ sau nầy:

Ccđ: cũng cuốn đó

Cđd: cuốn đã dẫn

Rất nên chú trọng đến chính tả, bỏ dấu cho đúng và rõ ràng. Thầy cò[43] của ta ít người rành chánh tả; nên ta không thể bắt chước A. France, nhờ họ sửa giùm chánh tả cho ta được.

Khổ sách phải tùy từng loại: một cuốn tiểu thuyết, một cuốn khảo cứu về khoa học, một cuốn tự điển, khổ tất khác nhau. Sách mỏng, khổ nên nhỏ; sách dày, hoặc in chữ cỡ lớn, khổ phải lớn.

Nhà in Âu Mỹ không dùng tấc, phân để chỉ khổ sách mà dùng những tiếng trong nghề như Colimbier in 16. Bạn nên hiểu những danh từ chuyên môn ấy: Một tờ giấy in nếu để nguyên không xếp lại thì là in plano, nếu xếp hai như tờ nhật báo thì là in – folio, xếp làm bốn là in-4o, làm tám là in-8o, làm mười sáu là in-16; khổ nhỏ nhất là in-32.

Giấy in có nhiều khổ. Những khổ thường dùng là:

- Colombier, tức khổ giấy in báo, một chiều 63, một chiều 90 phân, viết tắt là 63 x 90.

- Grand Jésus: 56 x 76

- Raisin: 50 x 60

- Cavalier: 46 x 62

Khổ in-8o thường dùng để in các sách hoặc tạp chí khoa học; khổ in-16 để in tiểu thuyết.

Khổ in-16 mà dùng giấy Raisin thì một chiều 12 phân rưỡi, một chiều 15 phân; còn dùng giấy Grand Jésus thì là 14 x 19. Như cuốn bạn đương đọc nầy in bằng khổ Jésus 56 x 76; nhà in cắt đôi cho chạy máy in nhỏ được thành hai tờ 56 x 38, mỗi tờ nầy lại gấp làm tám tờ nhỏ 14 x 19; in xong, cắt rồi, khổ sách còn 13 x 18,5. Vậy khổ sách là Jésus in-16, vì mỗi tờ lớp gấp thành 16 tờ nhỏ.

Có nhiều “co” chữ[44] từ những co nhỏ li ti như co 3, đến những co lớn bằng quả trứng gà như co 138.

Co là chiều dầy của miếng chì đúc chữ. Co 3 nghĩa là miếng chì dầy ba chấm, co 138 là miếng chì dày 138 chấm, mỗi chấm bằng khoảng một phần ba li (omooo376)

Những co thường dùng nhất là từ 6 tới 12.

Co 6 dày khoảng 2 li 3

Co 8 dày khoảng 3 li

Co 10 dày khoảng 3 li 8

Co 12 dày khoảng 4 li rưỡi.

Co 6 dùng để in những chú thích ở cuối trang; co 8 và co 10 để in những chữ thường; co 12 để in những tít nhỏ.

Dưới đây là 4 hàng in bằng những chữ co khác nhau:

Co 6 Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người

Co 8 Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.

Co 10 Một vùng cỏ mọc xanh rì,

Co 12 nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu!

Những lối chữ thường dùng nhất ở nước ta là:

- Romain, lối nầy cổ điển nhất,

- Cheltenham mà những chữ b, l, h.. cao hơn lối chữ khác

- Europe, nét đều nhau, không nét nào lớn, không nét nào nhỏ, như chữ đánh máy.

Ngoài ra còn rất nhiều lối chữ để in các tít lớn như: Astrée, Antique serrée, Compacte noire, Eros éclaire, Pharaon blanc, Atlas, Guilfort.

Bạn có thể xin các hãng đúc chữ những tập kiểu chữ của họ.

Mỗi lối chữ có hai thể: đứng và nghiêng: người ta lại phân biệt chữ hoa và chữ thường, chữ ốm và chữ mập. Coi bảng dưới đây, bạn sẽ nhận thấy rõ ngay.

Cheltenham đứng - cheltenham nghiêng

Cheltenham thường - CHELTENHAM HOA

Europe ốm - Europe mập

VIỆT NAM (Chambord Gras 12)

VIET NAM (Initiale large c.12)

VIET NAM (Europe demi gras c.16)

VIET NAM (Antique serrée c.24)

VIET-NAM Chambord gras c.16

VIET-NAM Chambord gras c.24

VIET-NAM (Chambord gras c.36)

Lối chữ nghiêng thường dùng để in bài tựa, tên sách và những đoạn văn trích dẫn. Nó có mục đích làm độc giả chú ý tới.

Lối chữ mập còn đập vào mắt ta hơn lối chữ nghiêng, không nên dùng nó nhiều trong một đoạn văn, nó chỉ hợp với những tít nhỏ; còn tít lớn thì người ta thường dùng chữ hoa.

Khi chép tay hoặc đánh máy bản thảo, muốn chỉ cho thợ in sắp thể chữ nào, bạn có thể dùng công ước sau nầy:

- gạch dưới một nét là sắp chữ nghiêng

- gạch dưới hai nét là sắp chữ hoa nhỏ

- gạch dưới ba nét là sắp chữ hoa lớn

- gạch dưới bốn nét là sắp chữ hoa lớn và nghiêng

hoặc viết chữ hoa lớn rồi gạch dưới một nét như:

NGUYỄN DU

- vẽ một nét lượn lượn ở dưới là sắp chữ mập

- Vẽ hai nét lượn lượn ở dưới là sắp chữ hoa mập

- Vẽ ba nét lượn ở dưới là sắp chữ hoa mập và lớn.

- Chấm chấm một đường ở dưới là sắp chữ thưa ra

Nhưng, ấn công của ta ít người thuộc những công ước đó, trừ hai công ước đầu, cho nên bạn chua ra lề giấy để chỉ rõ lối chữ bạn muốn dùng thì tiện hơn.

*

Sửa ấn ảo là công việc chán nhất của nhà văn, chán mà vẫn phải làm kỹ lưỡng, nếu không, tác phẩm có thể mất nhiều giá trị.

Trong một tờ tuần báo xuất bản gần đây, một nhà văn nọ, chắc đã nhiều lần bực mình vì “bị in sai văn”, ấm ức bảo có khi “tức chết đi”.

“… Vì rằng văn thơ bị in sai rồi bà con lại cứ tưởng là nhà văn viết thế, rồi bà con, nhất là bà con đồng nghiệp cứ chửi mình là … ngu. Ôi! Thật là oan hơn bà Thi Kính. Ấy là chưa kể, chỉ vì bị in sai văn mà từ trước đến nay đã có lắm ông ký giả xuýt nữa thì rũ tù vì sự sai kia làm đảo ngược cả ý tứ câu trong bài.

“Tôi “khen”cụ Lê văn X, hóa ra tôi “khiền” cụ Lê văn X (…); trong tin Gơ-ne-vơ, ông Phạm Văn Đồng đề nghị: “hai đối phương hứa sẽ không trả thù những người nghịch của mình” thì lại hóa ra: hai đối phương hứa sẽ trả thù những người nghịch của mình” nghe lạnh cả xương sống bà con.

“(…) Ấy là chưa kể cảnh Phó Tán[45] bị in nhầm đấy “gieo tai rắc vạ” mà thành “gieo tay rắc dạ” thì hỏi có nghe[46] cho Phó Tán không, ấy là phúc bảy đời, các ông nhà in chưa nhầm “gieo tay” ra “giểu tây” thì có ngày “rắc vạ” cho Phó Tán cũng chưa biết chừng”.

Nhà văno mà đã chẳng có lần mất ngủ vì những lỗi in tầy trời như vậy? Đào Duy Anh muốn phát khóc vì ấn công của nhà Lê văn Tân, và hai anh bạn tôi, mỗi khi tác phẩm mới in xong, coi lại thì bệnh đau gan lại muốn tái phát. Bực mình quá đi!

Muốn tránh được một phần nào – chỉ một phần nào thôi – những lối đó thì đích thân ta phải sửa lại ấn cảo rồi mới cho phép in.

Phải đọc ấn cảo rất kỹ lưỡng, đọc như trẻ em tập đánh vần vậy, nếu không, sẽ không thấy lỗi vì ai cũng có tật: mắt đã quen thấy chữ ra sao thì luôn luôn thấy nó như vậy cả những khi nó in sai.

Phải chú ý như vậy có khi cả giờ để sửa sáu, bảy trang giấy, chỉ lơ đễnh một chút là có thể bỏ sót những lỗi làm ta ân hận.

Tuy nhiên, dù sửa kỹ tới đâu, sách bạn cũng vẫn còn lỗi. Nguyên do là sự sơ sót của nhà in: còn một vài lỗi lặt vặt, không nỡ bắt nhà in đưa ấn cảo cho bạn coi lại lần nữa, bạn dặn họ sửa lấy trước khi cho lên máy, mà họ quên không sửa; cũng có khi họ sửa nhưng nêm chữ không chặt, máy chạy làm văng chữ ra ngoài, in ra mới thấy thiếu chữ; chữ chung thành hung hoặc chun.

Nhưng nguyên do chính là sự vô ý của loài người.

Người ta kể chuyện một nhà xuất bản nọ ở Pháp nhất định in một cuốn sách không có lỗi. Ông lựa cuốn Thánh kinh. Sắp xong trang nào ông đưa ba thầy cò coi lại, sửa cho hết lỗi rồi đem một bản dán ở cửa, yêu cầu bất kỳ nhân viên nào đi qua cũng ngừng lại đọc và chỉ cho những lỗi in. Công việc làm đâu một năm mới xong, khi sách đem bán, ông tuyên bố trên báo chí rằng độc giả nào lượm được lỗi thì xin cho ông hay, ông sẽ thưởng mỗi lỗi một trăm quan tiền vàng. Một tuần lễ sau, một độc giả viết thư vạch ra một lỗi rất lớn: trong cái tít đầu một chương nọ, chữ BIBLE (Thánh kinh) đã in là BILBE.

Câu chuyện đó thành một giai thoại trong làng xuất-bản.

Loài người như vậy. Chúng ta đã không hoàn-toàn thì làm sao công việc của chúng ta hoàn-toàn được? Bởi thế, mỗi khi nghe một ông bạn nào tuyên-bố rằng đã không làm gì thì thôi, làm thì phải làm cho hoàn-toàn, tôi chỉ mỉm cười mà nhớ lại câu chuyện in Thánh-kinh ấy.

Khi sửa ấn-cảo, bạn nên theo những công-ước dưới đây:

- Muốn chỉ rằng một chữ đã in chữ hoa phải in chữ thường thì gạch một gạch nghiêng từ phải qua trái, trên chữ đó, như:

Văn-Phạm = văn-phạm.

- Muốn chỉ rằng một số phải sắp cả chữ thì vẽ một vòng chung-quanh số đó, như:

5 cái bàn = 5 cái bàn.

- Ngược lại, muốn chỉ rằng một số nào sắp cả chữ phải sắp bằng chữ số thì cũng đánh một vòng chung quanh như:

Cao ba thước = cao 3 thước.

- Muốn thêm chữ thì vẽ một chữ V ngược rồi viết thêm lên hàng trên, như:

bảo

chỉ anh điều đó = chỉ bảo anh điều đó.

- Dấu chỉ rằng phải sắp liền nhau thành chữ, như:

Châu thành To kyo = châu thành Tokyo,

- Dấu | chỉ rằng phải sắp rời xa, như:

Thành Ba|lê = thành Ba lê.

Muốn thêm một dấu chấm thì đánh X như:

Hội K T T Đ = Hội K.T.T.Đ.

x x x

- Muốn đảo chữ dưới lên trên hoặc chữ trên xuống dưới thì dùng cái móc, như”

Chúng tôi ý | đồng = chúng tôi đồng ý.

- Đầu một đoạn, muốn in lùi vào thì dùng dấu ±, như:

±Có nhiều loại tiểu thuyết.

- Muốn in hàng dưới tiếp ngay vào chữ cuối ở hàng trên thì dùng cái móc dài, như:

Cuốn sách ấy tôi kiếm không được.

Anh có thì cho mượn.

Chú thích:

[41] Ở nước ta không ấn công nào chịu như vậy và hiện nay (1968) nhiều nhà in không cho tác giả sửa lại ấn cảo nữa vì không có người để sai vặt.

[42] Nếu gởi cho nhà xuất bản đọc thì chỉ cần gởi một bản thôi.

[43] Người chuyên sửa ấn cảo, tiếng Pháp là correcteur, ta quen gọi là thầy cò.

[44] Tiếng Pháp là corps, có thể dịch là khổ chữ được, những ấn công đã gọi quen là “co”.

[45] Tác giả đoạn đó.

[46] Trên báo, in là nghe.