← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ BA- … rồi bán - CHƯƠNG I BÁN CHO NHÀ BÁO VÀ NHÀ XUẤT BẢN

Người thợ đóng giày chắc chắn lãnh được tiền công; còn người viết một cuốn sách hoặc một vở kịch thì không bao giờ chắc chắn được điều gì cả.

MARMONTEL

Viết văn không phải là tự làm cho mình mắc cỡ mà cũng không phải là đương đầu với sự lãnh đạm.

P. VALÉRY

Xin cầu chúc cho bạn viết một cách khó khăn, bán một cách dễ dàng.

Ch. Braibant.

Đọc nhan đề chương nầy, chắc có bạn cau mày, bĩu môi:

- Cho viết văn là một nghề, đã quá rồi, lại còn trắng trợn chỉ cách bán văn, như bán tôm, bán cá nữa!

- Thưa bạn, bạn mắng, tôi xin chịu nhưng vẫn mong bạn đọc hết chương nầy và hai chương sau để may ra bạn sẽ khoan hồng một chút với tôi chăng?

Tôi cũng nhận như bạn rằng khi đã lựa nghề cầm bút là mặc nhiên đã ký một giao kèo với xã hội; theo giao kèo đó, nếu ta phải chịu thiệt thòi mọi bề, phải hy sinh cho lý tưởng, phải sống và bắt vợ con sống trong cảnh thiếu thốn, thì cũng không được kêu ca gì cả, và cái đời của ta cầm bằng như đã bỏ đi.

Tôi cũng nhận như bạn rằng nếu vợ con eo éo ở bên tai:

- Mình, sáng nay bà chủ nhà lại đòi tiền phố đấy.

- Mình, chạy được đồng nào chưa, chiều nay hết gạo đấy.

- Ba, áo con rách, đi học chúng bạn kiêu ngạo quá.

- Ba, ông Đốc nhắc đóng tiền học ba lần rồi.

… thì bạn cũng rán mà đừng nghe, và cứ thản nhiên tra cứu cho kỹ lưỡng, đẽo gọt cho cẩn thận, không được vì cái nợ cơm áo, vì cái lụy thê noa mà viết cẩu thả để kiếm tiền, làm xấu hổ cho cây bút.

Thưa bạn, tôi nhận như vậy, nhưng không chịu nhận rằng hễ làm nghề viết văn là không được nói đến vấn đề tiền bạc và tôi buồn rầu khi thấy những nhà văn vì đời thiếu tổ chức hoặc vì khờ dại, dễ dãi mà tự đem thân làm con bò sữa nuôi kẻ khác. Bạn có nhớ chăng hồi tiền chiến, một số văn nhân nhà nghề và có danh, thường đã chịu bán đứt một tác phẩm lấy ba chục đồng bạc. Tác phẩm đó in lần đầu ba ngàn cuốn và bán ba hào một cuốn, tính ra quyền tác giả được khoảng ba phần trăm. Tệ mạt quá! Như vậy vợ con làm sao không đói và tác phẩm của các bạn văn khác không bị trả rẻ? Và như vậy thì công đâu hay tội đấy: tội với vợ con họ và đoàn thể văn nhân!

Tôi tưởng những nhà văn tài tử, viết một hai cuốn để tiêu khiển, dù chỉ cầu danh chứ không cầu lợi, cũng nên nghĩ đến lợi chung của các người cầm bút, đừng hy sinh cái lợi của mình quá mà vô tình làm hại người khác. Còn có những người bán đứt một tác phẩm chỉ để được vài chục bản giấy tốt tặng anh em, bạn bè thì tất nhiên còn những nhà xuất bản cho rằng quyền tác giả được 5% đã là quá nhiều rồi.

Tôi vẫn biết Tolstoi đã nói: “Nghĩ rằng trong chín năm nay, tác phẩm của tôi đem bán đi để lấy tiền, tôi buồn quá, buồn nhất trên đời”. Nhưng tôi tự hỏi nếu văn hào đó không được sinh ra trong một gia đình quý phái, được hưởng một di sản lớn lao, mà phải làm đổ mồ hôi mới kiếm đủ ăn như Maxime Gorki thì ông còn có thể thốt được những lời đó nữa không? Ông ân hận không vì cái việc bán tác phẩm mà vì cái lẽ đã dư ăn rồi mà còn kiếm thêm lợi.

Tóm lại quan niệm của tôi là nhà văn phải biết có lúc hy sinh cho lý tưởng, nhưng luôn phải bảo vệ, bênh vực quyền lợi của mình. Muốn vậy phải biết bán văn. Ch. Braibant chúc các nhà văn trẻ tuổi “viết một cách khó khăn và bán một cách dễ dàng”. Ông thực là một nhà văn có lý tưởng và kinh nghiệm, nhưng lời ông còn thiếu nghĩa, cần phải nói thêm: “… bán một cách dễ dàng và đúng giá!”

Bạn có thể bán tác phẩm cho nhà báo và nhà xuất bản.

Điều quan trọng nhất, bạn phải nhớ kỹ: tác phẩm có giá trị tới mấy mà không nhằm thị trường thì cũng không bán được. Viết máy mà đem bán trên miền sơn cước tất phải ế; văn cũng vậy, một bài khảo cứu về cổ sử Trung Hoa mà bán cho một tờ báo chuyên thông tin thì sao khỏi bị liệng vào giỏ giấy?

Vậy nhà văn nào cũng cần biết rõ chủ trương của hết thảy các tờ báo và các nhà xuất bản quan trọng trong nước, nghĩa là biết rõ thị trường văn chương của nước mình. Lẽ ấy tự nhiên quá, mà tôi chắc mười nhà văn chưa có một nhà nghĩ tới, chỉ vì các nhà ấy tưởng rằng viết xong là đủ quên hẳn công việc thứ nhì, rất quan trọng, tức công việc bán văn[47].

Các văn nhân nhà nghề ở Âu, Mỹ cẩn thận lắm, lập cho mỗi tờ báo và mỗi nhà xuất bản có danh một cái thẻ trên đó ghi:

- địa chỉ tòa soạn hoặc nhà xuất bản,

- chủ trương của mỗi nhà,

- những loại bài họ đăng hoặc những loại sách họ xuất bản,

- tính cách những bài hoặc sách đó,

- tên các nhà văn thường cộng tác với các nhà đó,

- báo, sách của mỗi nhà bán chạy hay không.

Điều quan trọng thứ nhì là bạn phải biết trung bình tiền nhuận bút và quyền tác giả là bao nhiêu. Tôi sẽ dành riêng một chương để xét quyền tác giả, dưới đây hãy xin bàn qua về tâm lý các nhà báo và nhà xuất bản.

Tâm lý chung của các nhà báo là không mua bài của người ngoài.

Họ mua làm gì? Và cần gì phải mua? Đầu thế kỷ, J. Prévost đã viết:

“Anh nên biết một tòa báo không cần phải có một trợ bút” mỗi tờ báo mỗi ngày nhận được khoảng 30.000 chữ của các hãng thông tin. Thế là đủ tin tức rồi. Một viên thư ký tòa soạn rành nghề cũng có thể làm nên hình một tờ báo. Trong các tòa báo, dùng một nhà bỉnh bút chỉ là một sự xa xỉ thôi. Kể ra, viên trợ bút nào cũng có thể coi là thừa được. Nếu có một viên trợ bút nào bỏ tòa soạn, không viết giúp nữa thì độc giả cũng chẳng hay gì cả”.

Vả lại, mỗi tờ báo thường là mỗi ngày nhận hàng chục bài đủ các loại, nhiều nhất là thơ và truyện ngắn của các “nhà văn trẻ tuổi” với những bức thư cực kỳ nhũn nhặn, lễ phép, yêu cầu, năn nỉ xin đăng bài của mình – nghe nói có “nhà” lại sẵn sàng “đền công ngài chủ bút” nếu “ngài” chịu đăng giúp – như vậy thì phải là hạng người “gánh vàng đi đổ sông Ngô” mới bỏ tiền ra mua bài của bạn, nhất là khi bạn chưa có tên tuổi trên văn đàn.

Ở bên ta, chỉ trong những trường hợp đặc biệt lắm, chẳng hạn sắp ra số Tết, các nhà báo mới chịu mua thêm bài, song một người mua thì cả chục người bán, và luôn luôn người ta mua của những cây bút có danh hoặc của những anh em ký giả. Vậy trăm phần, không có một phần chắc là bài chúng ta được mua đâu.

Mà nếu được mua thì họ trả chúng ta bao nhiêu? Bạn còn nhớ không? Tôi xin nhắc lại: mỗi trang ba chục hàng, mỗi hàng trung bình mười chữ, chúng ta được lãnh khoảng ba chục đồng. Đó là tiểu thuyết dài. Tiểu thuyết ngắn giá cao hơn và văn nghị luận hạ hơn một chút. Thơ thì được giá hơn, lẽ cố nhiên, song cũng tùy từng tác giả mà cao hạ không chừng.

Và chúng ta phải dẹp lòng tự ái đi, để họ muốn sữa chữa, thêm bớt bài của chúng ta ra sao tùy ý.

Họ nói có lý lắm: Chúng tôi ở trong nghề mới biết được thời nầy còn nhiều tên “húy” gấp mười hồi xưa, ông viết một câu “phạm húy” mà không cho chúng tôi sửa thì làm sao tôi dám đăng? Đợi hỏi ý kiến ông bài sẽ mất tính cách thời sự của nó đi, nhất là mất công cho chúng tôi phải thư đi thư về. Vả lại, báo viết cho đại chúng đọc, nếu bài ông có những tiếng cổ, không hợp thời, độc gải không thích thì báo bán cho ai? Chẳng hạn trong một lịch sử tiểu thuyết thời Lê ông viết: “Có tiếng trống ở một đồn canh” thì chúng tôi vẫn biết rằng hai tiếng đồn canh hợp với thời đó, nhưng không hợp với thời nầy, đại đa số độc giả không thích và nhất định ông phải để chúng tôi sửa là bót gác.”

Như vậy bạn trả lời ra sao bây giờ?

Có khi chẳng cần vì một nguyên nhân gì cả, họ cứ việc sửa, để tỏ cho bạn thấy rằng văn của bạn viết chưa “sạch” để cho người khác thấy rằng họ thực sự đáng làm chủ bút rồi nếu bạn phản đối một cách ôn tồn, thì họ sẽ nói mỉa:

“Nếu anh quả quyết rằng văn anh toàn bích rồi thì xin anh cứ viết lên bài hai chữ “cấm sửa” là chúng tôi không dám sửa nữa”.

Dù là Lý Bạch hay Nguyễn Du tái sinh cũng không dám tự nhận văn mình toàn bích, huống hồ bọn phàm nhân chúng ta. Vậy bạn chỉ còn có việc đỏ mặt mà rút lui.

Thời xưa đã có hạng quân phiệt, hạng tài phiệt, thời nầy lại thêm hạng văn phiệt nữa. Phiệt nào cũng ghê như nhau cả. Nhưng xét kỹ thái độ của họ cũng dễ hiểu: Mình cầu họ hay họ cầu mình?[48]

Tâm lý nhà xuất bản có khác chút nào chăng? Để đáp câu hỏi nầy tôi xin nhắc đến bài “Chung cục” của John Galsworthy, một bài mà ai đã muốn lựa nghề cầm bút, không thể bỏ qua. Giọng hài hước và thú vị, ý chua cay mà thâm thúy. Tôi xin trích ra đây vài đoạn để bạn thưởng thức:

Một chàng thanh niên tên là Ha-ri-sơn tự thấy mình có tài văn chương, trong hai năm viết được mười truyện ngắn rồi gởi đến một nhà xuất bản:

“Ít ngày sau, nhà xuất bản trả-lời rằng nếu chàng chịu trả cho y một số tiền bồi thường hoặc hoa hồng nào đó và chịu hết tất cả những phí tổn về ấn loát thì y chịu mạo hiểm xuất bản những truyện ngắn đó cho. Ha-ri-sơn vui vẻ nhận những điều kiện ấy, tự nghĩ phải cho công chúng biết công trình của mình ngay mới được, không nên chần chờ, và chàng trả lời nhà xuất bản. Nhà xuất bản gửi cho chàng một toa tính tiền in và một bản giao kèo. Ha-ri-sơn nhận được, gởi một chi phiếu cho y. Y vội vàng hồi âm, rất lễ phép khuyên chàng chịu thêm một số tiền nữa để quảng cáo vì điều đó có lợi cho chàng. Cái đó thì Ha-ri-sơn hiểu lắm, nên chàng gửi thêm cho y một chi phiếu nữa. Giữa những người tử tế với nhau, ai lại nói chuyện tiền nong kia chứ!”

Tập truyện ra mắt độc giả, được vài người khen vị tình. Và chàng hăng hái viết ngay một truyện dài, gởi cho nhà xuất bản, yêu cầu tính tiền tác giả cho chàng.

“Lần nầy y trả lời trễ hơn, nói rằng theo ý kiến y thì cuốn thứ nhất hứa hẹn nhiều còn cuốn nầy không được đúng với sự hứa hẹn ấy (…) và dù có mạo hiểm xuất bản – nếu chàng chịu hết phí tổn ấn loát – thì cũng phải tính trước như là sách khó bán lắm. Ấy là y không đứng vào địa vị nhà xuất bản mà xét đấy.

Lòng Ha-ri-sơn không hề chuyển và chàng trả lời rằng không chịu tiền ấn loát. Tức thì nhà xuất bản gởi trả lại bản cảo, bản theo ý kiến y thì chàng đã lầm rồi mà y (nhà xuất bản) lấy điều đó làm buồn lắm vì từ trước tới nay, giữa hai người, tình vẫn thân mật”.

Chàng bèn gửi bản cảo cho một nhà xuất bản khác nhà nầy chịu trả tiền tác giả, nhưng chỉ khi nào bán được mới trả, và rốt cuộc cuốn thứ nhì chẳng mang về cho chàng một số tiền nào cả.

Đó là tâm lý nhà xuất bản bên Anh. Còn bên mình thì đã có Hồ Hữu Tường phô bầy trong một đoạn văn mỉa mai không kém:

“Các ngài chưa đọc một tác phẩm nào ký tên của tôi, các ngài chưa gặp trên mặt báo một bài luận nào của tôi. Lỗi ấy nơi các nhà xuất bản trục lợi. Họ chỉ muốn cho ra tác phẩm của những đại văn hào: đại thi sĩ, đại học giả. Đã mấy lượt, HUÂN PHONG nầy mang bản thảo đến họ. Họ không cần đọc trong đó có gì, họ chỉ thấy quần áo tôi không sang trọng, bộ tịch tôi có vẻ quê mùa, nhất là họ thấy cái tên HUÂN PHONG của tôi không phải là tên của một đại văn hào đại thi sĩ, đại học giả. Đủ rồi, tác phẩm của tôi là không hay, in ra bán không chạy, lỗ vốn. Có một anh còn nhìn tôi với một cái nhìn thương hại, tôi hiểu rằng anh ấy đồng ý với vợ tôi, bảo tôi về cầm cày, họa may cũng được câu “nhất nghệ tinh nhất thân vinh”… Họ làm lơ”.[49]

Nhà xuất bản nào cũng chỉ xuất bản những sách dễ bán của các cây viết có tên tuổi, còn tác phẩm nào khô khan hoặc do một nhà văn chưa có danh viết ra thì nhất định chối từ: ai mà không vậy, thưa bạn? Xuất bản sách của người là buôn bán mà buôn bán thì, như Vũ Bằng đã nói, phải xếp xó cái chuyện “làm việc theo lý tưởng lại”, kẻo chết “nhăn răng ra” thì “còn ai mà phụng sự văn hóa” nữa. Nói cho công bằng, cũng có một số người quyết làm việc theo lý tưởng đấy, song họ lại nghèo, ra được ít cuốn là hết vốn”.

Lại có bọn ham danh rất nhiều tiền, nhưng chẳng hiểu gì về văn nghệ cả, bị bọn cai thầu rút rỉa hết mà làm trò cười cho thiên hạ.

Nhiều khi, nhà xuất bản không định được đúng giá trị của một tác phẩm quý nên không mua.

Ai không biết Milton, một thi hào bực nhất thế giới. Ông cặm cụi chín năm mới viết xong cuốn Paradis perdu, một tác phẩm bất hủ mà tìm hoài, không nhà nào chịu xuất bản. Mãi sau mới có một nhà chịu trả ông ba trăm quan – bạn thử tưởng tượng công lao chín năm mà ba trăm quan – và hứa chỉ trả khi nào tái bản được kia. Tội nghiệp, ông chưa kịp được lãnh số tiền hứa ấy thì đã mất, còn con cháu nhà xuất bản thì hưởng một số lời về cuốn đó là nửa triệu quan!

Nữ văn sĩ Pearl Buck, gởi tác phẩm đầu tay cho một nhà xuất bản ở Mỹ; người ta trả lại bản cảo, với câu: “Chúng tôi không thích tác phẩm về Trung Quốc”. Ấy vậy mà chính những tác phẩm về Trung Quốc ấy sau đó đã làm bà nổi danh khắp thế giới và được gải thưởng Nobel!

Fabre, môt nhà tự nhiên học có tâm hồn thi sĩ làm vẻ vang cho nước Pháp, tìm mãi mới được một nhà xuất bản chịu in bộ Souvenirs entomologiques của ông mà không bắt ông … trả tiền!

Marcel Proust hồi đầu cũng bị nhà Nouvelle Revue française hất hủi, phải tự bỏ tiền ra cho nhà Bernard Grasset in bộ A la recherche du temps perdu của mình; sau nhờ Léon Daudet cực lực khen ngợi, ông được nổi tiếng và nhà Nouvelle Revue française đến xin lỗi, năn nỉ ông nhượng bản quyền cho.

Một nhà xuất bản lớn ở Pháp như nhà ấy, mướn những người chuyên môn đọc bản cảo để quyết định nên mua hay không mà còn lầm lẫn như vậy, nói chi các nhà xuất bản của mình!

Sau khi gởi bản cảo tới nhà xuất bản, bạn phải đợi từ một tới sáu tháng mới được kết quả. Nếu họ không mua thì họ phải trả lại bản cảo cho bạn (nhà báo trái lại, có quyền không gởi trả những bài không đăng). Nếu mua, họ sẽ ký với bạn một tờ giao kèo mà tôi sẽ xét kỹ trong chương sau. Tờ giao kèo nầy định quyền tác giả, sách bán ế thì nhà xuất bản chịu lỗ, chạy thì nhà xuất bản được lời. Đó là theo nguyên tắc, trong thực tế có hơi khác.

Có lẽ từ cổ chí kim mới có một nhà xuất bản là nhà Charpentier rộng rãi với nhà văn tới nỗi khi thấy tiểu thuyết Fromont Jeune et Risler ainé của A. Daudet bán chạy quá, thì xé ngay tờ giao kèo cũ mà làm lại một tờ khác có lợi gấp bốn cho tác giả. Còn phần đông thì nếu sách bán ế, người ta xin rút quyền tác giả xuống, hoặc xin trả trễ, làm nhiều kỳ, trái lại sách bán chạy thì cứ theo đúng giao kèo mà thi hành. Như vậy là đúng đắn lắm rồi đấy. Có kẻ còn bắt nhà văn chầu chực năm lần bảy lượt mà vẫn không chịu trả, có kẻ lại đòi nhốt Voltaire, Rousseau, Diderot trong nhà, nuôi cho mập rồi bắt viết, viết thật nhiều, mỗi ngày đều đều một số trang nhất định, y như chúng ta nuôi gà mái để lấy trứng! Vì công ích mà!

Ý nuôi nhà văn như nuôi gà đó không được ai theo, nhưng cách săn sóc nhà văn như săn sóc ngựa đua thời nay rất thịnh hành ở Âu Mỹ.

Tại mỗi nước văn minh, mỗi năm có hàng chục giải thưởng văn chương mà nhiều giải như giải Goncourt ở Pháp làm lợi cho nhà văn được khoảng triệu bạc và lợi cho nhà xuất bản gấp hai, gấp ba số đó. Cho nên mỗi khi thấy một tác phẩm nào có thể dự thi được thì nhà xuất bản cưng tác giả vô cùng, tìm những lời phê bình có danh, nhờ giới thiệu khéo léo trên báo chí, rồi dắt nhà văn tiếp xúc với nhân vật nầy, nhân vật nọ, nhất là với các bà có ảnh hưởng tới lá thăm của các ông Hàn, có khi lại ngọt ngào khuyên nhà văn bỏ bớt đoạn nầy, viết thêm đoạn khác cho đẹp lòng các nhân vật đó nữa.

Tới ngày bỏ thăm, cảnh tượng trong các Hàn lâm viện không khác chi trên trường đua: và nhà văn nào được giải thưởng thì thật là còn sướng hơn con ngựa về đầu muốn gì nhà xuất bản cũng xin chiều hết.

Chú thích:

[47] Sáu năm trước, một nhà xuất bản bảo tôi: “ông không biết bán văn của ông”. Càng suy nghĩ tôi càng nhận bài học đó quý giá.

[48] Tôi chỉ biết có một nhà cầm bút được nhà báo cầu hợp tác, lại được một số tiền khá lớn, là Tản-Đà. Hồi An-Nam tạp chí mới đình bản, Tản-Đà vào Saigon, định xuống Vĩnh Long mượn một số tiền để về Bắc trả nhà in, thì một hôm gặp Diệp văn Kỳ ở đường Catinat, Diệp văn Kỳ từ trước chỉ nghe danh thi sĩ, lần đó mới biết mặt, mà khi hay thi-sĩ đương túng tiền, tặng ngay hai trăm đồng để thi sĩ về Hà Nội trả nợ rồi thu xếp vào Saigon viết giúp tờ báo ông chủ trương. Tản Đà điềm nhiên cầm đút túi, chẳng cần làm giấy biên nhận gì cả, và sau giữ được lời hứa.

[49] Phương đông số 4.4.54.