CHƯƠNG IV TÂM LÝ ĐỘC GIẢ
Nhà văn có thể không cần tiền, cũng có thể không cần danh, nhưng nhất định là phải cần độc giả. Tất nhiên có tác phẩm kén độc giả, có tác phẩm không ; có người viết cho đương thời, có kẻ viết cho hậu thế[67], nhưng đã viết thì ai cũng mong có người đọc mình, nếu không thì viết làm gì?
Vậy chỉ những kẻ điên như Huy Cận trong bài tựa cuốn Kinh Cầu Tự mới cả gan dám khinh miệt độc giả, còn nhà văn nào cũng cần tìm hiểu bạn đọc của mình.
Độc giả có thể trách tác giả ba điều: viết dở, viết khó quá, bán đắt quá.
Về hai điều trên, nhà văn phải nhận lỗi. Mỗi tác phẩm khi đã bày ở tiệm sách là tìm những độc giả thích hợp với nó: chẳng hạn loại tiểu thuyết lá cải tìm những độc giả bình dân, khảo cứu tìm hạng trung lưu có học. Nếu chính những độc giả đó phải chê là viết thiếu nghệ thuật hoặc khó hiểu quá thì nhà văn không còn tự bào chữa gì được nữa.
Có những kẻ mỉa mai:
- Độc giả bây giờ ấy mà, chỉ thích Tống Chân, Cúc Hoa, Chinh Đông, Chinh Tây… thì làm sao tiểu thuyết của tôi bán chạy được?
Hoặc bĩu môi nói:
- Chưa có sức học phổ thông mà dám chê sách là khó hiểu.
Những kẻ đó đều vô lý. Tôi nghĩ ta phải tùy theo trình độ của độc giả mà viết, độc giả có hiểu ta, thích ta rồi ta mới dần dần hướng dẫn họ được. Hãy luyện một lối văn bình dị rồi kể những chuyện ly kỳ trong xã hội chúng ta đương sống đi, thử xem quần chúng có bỏ Chinh Đông, Chinh Tây mà đọc tiểu thuyết của ta không? Mà nếu độc giả chưa có sức học phổ thông thì ta càng phải viết rất rõ ràng cho độc giả biết được những điều phổ thông rồi dần dần tiến sâu vào con đường học vấn. Như vậy mới là làm tròn trách nhiệm của ta chứ. Tôi tin rằng điều gì hiểu rõ thì tất giảng được mà nếu giảng không được thì là vì hiểu không rõ.
Ngoài ra ta lại nên biết tâm lý chung của độc giả là không có thì giờ mà cũng không chịu mệt óc để đọc cẩn thận và tìm hiểu, cho nên ta lại càng phải viết minh bạch.
Đến điều chê thứ ba: “sách bán đắt quá” thì tôi phải nhận rằng, trong ít nhiều trường hợp, độc giả không hiểu rõ tình hình sách ở nước nhà.
Tôi nhớ đã đọc một bài ký tên “Một độc giả” đăng trên báo Việt Thanh mấy năm trước. Tác giả bài đó kể chuyện một hôm vào tiệm sách nọ, gặp một người bạn muốn mua cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim mà còn đắn đo, so sánh giá tiền với số trang xem sách đắt hơn tiểu thuyết nhiều không, rồi tác giả kết luận:
“Sách thời nầy đã thành một món hàng thì ta phải xét nó như xét một món hàng. Một thước vải với một thước lụa khổ bằng nhau mà giá đâu có như nhau? Một cây viết Parker với một cây viết Pilot giá cách nhau một trời một vực thì sách đáng lý cũng phải vậy chứ? Mua bất kỳ món hàng gì, ta xem phẩm lẫn lượng mà sao mua sách ta chỉ chú ý tới lượng?”
Xã hội quả có bất công như vậy. Sách là một món hàng cần phẩm nhứt chứ không cần lượng thế mà một khi in xong bày ở tiệm thì người mua phần đông chỉ xét tới lượng. Một tấm khăn bàn thêu tay có khi đắt gấp năm một tấm thêu máy thì không ai chê là cao giá, còn một tác phẩm viết công phu gấp mười một tác phẩm khác thì phần đông độc giả lại không chịu phân biệt vàng thau.
Tuy nhiên, xét cho kỹ, lỗi cũng không phải ở độc giả. Đại đa số độc giả làm sao rõ được công phu trứ tác, rồi công phu in và số sách in ra? Có mấy người tưởng tượng được rằng phải đọc hàng chục, hàng trăm cuốn sách mới viết được một cuốn sách khảo cứu, phải thức trọn đêm để sửa chữa được một trang, phải chép lại bản thảo ba bốn lần, phải chầu chực ở nhà in hàng tháng để kiểm soát việc ấn loát, có khi phải đích thân chạy đi mua chữ về sắp lấy?
Tốn công đã lắm, tốn của cũng nhiều, mà vì là loại khảo cứu không dám in ra trên ngàn rưỡi cuốn, thì giá sách dù có đắt gấp đôi những tiểu thuyết viết trong bảy ngày và in một lần năm mười ngàn bản, cũng vẫn là rẻ, rẻ lắm. Độc giả hiểu sao được những tình cảnh đó?
Nhưng nhà văn không nên buồn vì vậy, và khi lựa nghề viết văn, như tôi đã nói, bạn đã mặc nhiên ký giao kèo với xã hội, chịu nhận trước mọi sự bất công rồi, không được ân hận gì cả. Bạn luôn luôn phải rán gom lần lần được một số độc giả trung thành để bảo đảm tương lai của bạn.
Emile Henriot nói:
“ Ba nghìn độc giả trung thành, biết cách đọc, thích cách suy nghĩ và phô diễn của bạn, đoán rõ những “ý tại ngôn ngoại” của bạn, đợi sách mới của bạn rồi mua, về giới thiệu với người chung quanh làm cho họ thích nó: đó, tham vọng của một nhà văn có tư tưởng nên hạn chế ở chỗ ấy là gom được một nhóm bạn hữu tận tâm, hữu ích một cách thông minh. Việc đó không phải một ngày làm nên được đâu ; nhưng cái nhóm người có thiện cảm ấy, một khi đã có rồi thì mỗi ngày nẩy nở thêm lên, nếu nhà văn đáng cho họ mến ; và không có gì ngăn cản nhóm trí thức ưu tú đó một ngày kia thành đa số độc giả. Tất cả những đại văn hào thế kỷ nầy đều trông cậy vào nhóm ấy, từ Stendhal tới A.France.”
Được một nhóm độc giả trung thành và thông minh, có lẽ là phần thưởng quí nhất của nhà văn. Và theo tôi, nếu nhóm đó là thanh niên thì trách nhiệm nhà văn khá nặng, phải hướng dẫn cả một thế hệ, nhưng cái vui cũng cao hơn mà công việc cũng dễ có kết quả hơn vì bạn trẻ vốn nhiều nhiệt huyết.
Thi hào Alfred de Vigny suốt đời chỉ mong được như vậy.
Trong bàn thơ L’esprit pur (Tinh thần trong sạch) ông viết:
Jeune postérité d’un vivant qui vous aime!...
Flots d’amis renaissants! Puissent mes destinées
Vous amener à moi, de dix en dix années.
Attentifs à mon oeuvre, et pour moi c’est assez!
Tăng lên mãi, cứ mỗi năm, lớp lớp,
Bạn đến tôi, chăm chú đọc thơ tôi.
Hậu sinh hỡi, thanh niên tôi yêu mến,
Được vậy chăng, mãn nguyện với tôi rồi!
Theo Băng Tâm, một nữ sĩ chuyên giữ mục nhi đồng trên nhiều tờ báo Trung Hoa, thì hạng độc giả trung thành nhất và dễ thương nhất là hạng độc giả tí hon. Bà nói không gì cảm động bằng nhận được thư của các em giục viết tiếp truyện những nàng Tiên áo đỏ, áo xanh, hoặc yêu cầu cho em bé trong truyện tìm được cha mẹ, cho tên bạo chúa chết phắt đi, “sống chi cho uổng cơm”… Nhìn những hàng chữ nguệch ngoạc, đọc những lời ngây thơ, bà tưởng tượng hàng ngàn cặp mắt long lanh, hàng ngàn nụ cười hồn nhiên bao vây bà, hàng ngàn cái miệng xinh xinh, hé ra như để uống lời bà hàng ngàn cặp đôi đỏ chót nũng nịu với bà. Nhà văn ta đã ai được cái vui đó chưa nhỉ?
Bốn năm trước, tại quận Chợ-Mới (Long-Xuyên) không có tiệm sách. Đồng bào miền đó có gởi mua sách chỗ khác không? Không. Đã mất công mà lỡ mua phải một cuốn không vừa ý thì thêm uổng tiền. Từ khi có người mở tiệm sách ở nơi đó, số sách bán được gần bằng một phần tư số sách bán tại châu thành Long Xuyên.
Vậy sách phải đi tìm độc giả chứ độc giả ít khi tìm sách và hiện nay mức tiêu thụ sách ở nước ta còn có thể tăng lên được nhiều. Sự giao thông đã dễ dàng, các nhà phát hành nên đặt thêm đại lý ở mỗi quận, mỗi chợ.
Các nhà xuất bản nên nghiên cứu vấn đề gây sự ham đọc sách trong đại chúng và tôi ước ao Chính phủ xúc tiến công việc truyền bá văn hóa như là lập một kế hoạch, định:
- Bước thứ nhứt: nội trong một hay hai năm, bất kỳ người Việt nào từ 15 đến 60 tuổi cũng phải biết đọc, biết viết.
- Bước thứ nhì: mở những lớp tối, lập thư viện để phổ thông những tri thức cần thiết trong quần chúng ; đồng thời hướng dẫn khuyến khích sự tự học trong mọi từng lớp, trong giới công chức trước hết, lại khuyến khích sự trứ tác, nhất là công việc soạn một bộ tự điển Việt Nam, một bộ Bách khoa tự điển, và một cuốn Ngữ pháp.
Nhà xuất bản lại nên hợp tác với nhà sách và nhà văn để điều tra xem độc giả mua một cuốn sách vì lẽ gì, hầu quảng cáo có nhiều kết quả, mà bán sách được mạnh.
Ông R. Basch, trong cuốn L’auteur et son éditeur, kể chuyện rằng một nhà xuất bản Đức, tên là Eugène Diederich bỏ vào mỗi cuốn sách một tấm bưu thiếp yêu cầu độc giả gởi tấm ấy về nhà xuất bản và cho biết lý do đã mua cuốn ấy. Rồi Diederich thu thập những câu đáp, lập thành bản thống kê dưới đây
Chúng ta chưa thể tin kết quả của cuộc thí nghiệm ấy – độc giả Đức không phải là độc giả Việt Nam, độc giả thời trước khác độc giả bây giờ, và lại còn tùy loại sách nữa – song ít nhất Diederich cũng biết rằng độc giả mua sách vì rất nhiều lý do và hiểu được tâm lý đại chúng thì quảng cáo tất có kết quả hơn, sách bán chắc dễ hơn.
Văn học của ta sắp bước vào một kỷ nguyên mới, chúng ta sắp có một lớp độc giả mới. Chiến tranh đã ngưng được một năm, vấn đề xây dựng và giáo hóa thành khẩn thiết nhất. Chẳng bao lâu nữa, toàn dân sẽ biết đọc, biết viết[68]. Từ trước tới nay độc giả phần đông ở trong giai cấp tiểu tư sản ; rồi đây những độc giả thợ thuyền và nông dân sẽ đông hơn hết nên văn nhân không thể quên họ.
Một số văn nhân như Triều Sơn, trong cuốn “Con đường văn nghệ mới” đã trông thấy viễn ảnh đó và khuyên các văn nghệ sĩ, nhất là các thi nhân, kịch gia, tiểu thuyết gia, phải đi sát đại chúng “Con đường mới” đó rất khó theo, phải lăn lóc với đại chúng rồi văn mới đi sát đại chúng được, nên lý thuyết đã nhiều người nói mà thực hành thì chưa ai làm. Tuy nhiên ai cũng phải nhận rằng lịch sử nghệ thuật sẽ là lịch sử của đại chúng và “số phận văn chương ràng buộc với số phận giai cấp đại chúng.”
Chú thích:
[67] Như Tư Mã Thiên. Ông soạn bộ Sử ký và định chôn sâu nó trong núi cho người đời sau đào lên đọc.
[68] Vì chiến tranh hiện nay (1969) công viejc xây dựng văn hóa lại phải trễ cả chục năm rồi và không biết còn trễ trong bao nhiêu năm nữa.