← Quay lại trang sách

Chương 6

Louis trở về nhà và thấy mình nhỏ bé hẳn. Chẳng ai nhờ vả anh chẩn bệnh cho bà Norma Crandall; khi anh băng qua con đường ( đèng lộ , anh thầm nhủ và mỉm cười), bà cụ đã đi nằm. Bóng ông Jud mờ mờ ảo ảo đằng sau bức ngăn của hiên nhà rào kín. Có tiếng ghế đu đưa kèn kẹt đầy dễ chịu trên vải dầu cũ. Louis gõ cửa ngoài hiên, khiến cửa cành cạch trên khung. Điếu thuốc lá của ông Crandall lập lòe như chú đom đóm an yên giữa đêm hè. Tiếng phát thanh trầm trầm vắng ra từ radio tường thuật một trận đấu của đội Red Sox, và tất cả gợi lên trong Louis Creed cảm giác được trở về nhà vô cùng kỳ khôi.

“Bác sĩ đấy à,” ông Crandall lên tiếng. “Ta cũng đoán là cháu.”

“Mong rằng ông nghiêm túc về chầu bia,” Louis nói rồi bước vào.

“Ồ. gì chứ bia thì ta chẳng bao giờ nói hai lời,” Crandall thủng thỉnh. “Người dối trá về bia chỉ tổ tạo ra kẻ thù. Cháu ngồi xuống đi, bác sĩ. Ta đã ướp sẵn vài lon phòng hờ rồi.”

Hiên nhà dài và hẹp, trang bị bộ ghế mây và sô-pha. Louis ngồi xuống ghế và ngạc nhiên khi cảm thấy thoải mái vô cùng tận. Bên tay trái của anh là một xô thiếc đựng đá và vài lon bia Black Label. Anh lấy một lon.

“Cảm ơn ông” anh nói rồi khui bia. Hai ngụm đầu tiên tưới lên họng anh tựa thiên đường.

“Rất hân hạnh,” ông Crandall đáp. “Ta hy vọng cháu sẽ có khoảng thời gian vui vẻ ở đây, bác sĩ ạ.”

“Amen,” Louis nói.

“Mà này! Cháu muốn ăn bánh quy hay đồ nhắm, để ta đi lấy. Ta có miếng chuột vừa tới đây.”

“Miếng gì kia ạ?”

“Phô mai chuột [2E] .” Ông Crandall có vẻ hơi ngạc nhiên.

“Cảm ơn ông, nhưng cháu uống bia là được rồi ạ.”

“Thế à, vậy thôi.” Ông Crandall ợ đầy khoan khoái.

“Bà đi nghỉ rồi ạ?” Louis hỏi, tự hỏi tại sao ông lại để cửa ngỏ như thế.

“À. Thỉnh thoảng bà ấy thức. Thỉnh thoảng lại không.”

“Chứng viêm khớp của bà chắc đau lắm phải không ạ?”

“Cháu thấy trường hợp nào không đau chưa?” Ông Crandall hỏi.

Louis lắc đầu.

“Ta đoán bà ấy vẫn chịu đựng được,” ông cụ kể. “Bà ấy ít khi than vãn lắm. Bà Norma nhà ta ấy mà, trông vậy mà không vừa đâu.” Giọng ông tràn ngập tình yêu thương, lớn lao và dung dị. Ngoài Tuyến đường số 15, một chiếc xe bồn chạy ngang, chiếc xe to tướng và dài đến độ trong một thoáng Louis còn chẳng thể trông thấy căn nhà của mình phía bên kia đường. Chữ viết trên thành xe, loáng thoáng trong bóng tối nhập nhoạng là ORINCO.

“Xe gì mà lớn quá,” Louis nhận xét.

“Orinco gần Orrington,” Crandall nói. “Nhà máy phân bón hóa học. Họ đi đi về về suốt. Chưa kể nào xe bồn chở xăng, xe chở rác, cùng công nhân viên lên Bangor hoặc Brewer làm việc rồi trở về nhà vào buổi tối.” Ông lắc đầu. “Đó là điều mà ta không ưng ở Ludlow. Con đường chết toi này đây. Không khi nào được bình yên. Xe cộ chạy rầm rầm cả ngày lẫn đêm. Thỉnh thoảng chúng làm bà Norma nhà ta thức giấc. Khốn thật, lắm lúc đến cả ta cũng mất giấc, dù mỗi lần ngủ là ta ngủ say như chết.”

Dù bản thân cảm thấy khung cảnh kỳ lạ này của Maine tĩnh lặng đến rợn người so với nhịp sống xô bồ ở Chicago, Louis cũng chỉ lắc đầu.

“Rồi có ngày mấy người Ả Rập sẽ đặt dấu chấm hết cho nó, và người dân sẽ trồng được cả tử linh lan ở dải phân cách màu vàng ấy,” ông Crandall trầm ngâm.

“Có khi ông nói đúng,” Louis nghiêng lon bia ra sau và ngạc nhiên khi thấy bia đã cạn.

Ông Crandall cười khà khà. “Cháu làm thêm lon nữa cho vui, bác sĩ ạ.”

Louis lưỡng lự rồi thuận theo, “Dạ vâng, nhưng chỉ một lon nữa thôi. Cháu phải về nhà nữa.”

“Tất nhiên rồi. Chuyển nhà nhọc xác nhỉ?”

“Dạ phải,” Louis đồng tình, và rồi cả hai im lặng trong một lúc lâu. Bầu không khí im lặng đầy dễ chịu, tựa hồ họ đã biết nhau từ lâu. Đây là cảm giác mà Louis từng đọc được trong sách, nhưng phải đến lúc này, anh mới được trải nghiệm lần đầu tiên. Anh tự thấy xấu hổ vì ban nãy đã có những suy nghĩ không phải về việc chẩn đoán bệnh miễn phí.

Một chiếc xe đầu kéo chạy ngang, ánh đèn lấp lánh như sao trời.

“Con đường ấy quả là khủng khiếp,” ông Crandall lại trầm tư, mơ màng, đoạn quay sang Louis. Có một nụ cười kỳ dị khẽ nhếch trên khóe miệng chi chít nếp nhăn của ông. Ông đút một điếu Chesterfield vào khóe miệng rồi dùng móng tay của ngón cái đánh diêm. “Cháu có nhớ con đường đất mà con gái cháu thắc mắc không?”

Trong một thoáng, Louis không tài nào nhớ ra; Ellie đã tíu tít về đủ thứ trên trời dưới biển trước khi chìm vào giấc ngủ. Đoạn anh sực nhớ. Con đường mòn được cắt tỉa gọn gàng, ngoằn ngoèo chạy qua khóm cây băng qua đời.

“Dạ có. Ông đã hứa khi nào có dịp sẽ kể cho con bé nghe.”

“Đúng vậy, khi nào ta sẽ kể,” ông Crandall nói. “Con đường đất chạy vào rừng chừng hai ki-lô-mét rưỡi. Những đứa trẻ sống quanh Tuyến đường số 15 và Đường Giữa giữ lối đi thông thoáng vì chúng sử dụng nơi đó suốt. Trẻ con đến rồi đi… thời nay người ta chuyển nhà nhiều hơn lúc ta còn bé; ngày xưa, chúng ta chọn một mảnh đất cắm dùi rồi an cư nơi đó luôn. Nhưng có vẻ đám trẻ con truyền tai nhau, và cứ đến mùa xuân, một nhóm lại rủ nhau nhổ cỏ mọc ở lối đi ấy. Chúng giữ con đường sạch sẽ suốt cả mùa hè. Chúng biết nó ở đó. Không phải người lớn nào trong thị trấn cũng biết – tất nhiên số người biết cũng nhiều nhưng vẫn có một bộ phận ngoại lệ – song đứa trẻ nào cũng biết. Ta dám cá là thế.”

“Biết cái gì ở đó kia ạ?”

“Nghĩa địa thú cưng,” ông Crandall đáp.

“Nghĩa địa thú cưng,” Louis ngạc nhiên lặp lại.

“Nghe vậy chứ không có gì kỳ cục đâu,” ông cụ nói, phì phèo điếu thuốc và lắc lư trên ghế. “Cơ sự là do con đường này. Nó ngốn quá nhiều thú cưng. Đa số là chó mèo, nhưng không chỉ có thế. Một chiếc xe bồn Orinco từng cán qua con gấu mèo mà mấy đứa trẻ nhà Ryder nuôi. Chuyện xảy ra lâu lắm rồi, Chúa ơi, chắc từ năm ’73 ấy chứ, có khi còn trước đó. Tóm lại là trước khi tiểu bang ra quyết định nuôi gấu mèo hay chồn hôi đã thuần hóa là bất hợp pháp.”

“Tại sao họ lại ra quyết định như vậy ạ?”

“Bệnh dại,” ông Crandall trả lời. “Ở Maine nhiều ca dại lắm. Vài năm trước, một con chó già giống St Bernard to tướng bị dại dưới mạn phía Nam và làm chết bốn người. Vụ việc ấy rúng động cả vùng. Con chó chưa được chích ngừa. Nếu mấy kẻ ấu trĩ kia đem nó đi chích thì đã chẳng xảy ra cơ sự. Tuy nhiên, gấu mèo hoặc chồn hôi lại khó ở chỗ dù ta có đem chúng đi chích ngừa hai lần một năm đi chăng nữa, thì nhiều khi vẫn không hiệu quả. Song con gấu mèo mà mấy cậu bé nhà Ryder nuôi đáng yêu lắm, thế hệ trước hay bảo gấu mèo lành tính. Nó cứ lẫm chẫm đi đến chỗ ta – ôi trời, nó ú na ú nần! – rồi liếm láp mặt ta như chó con vậy. Bố bọn trẻ còn thuê bác sĩ thú y thiến và cắt móng cho nó nữa mà. Việc đấy chắc ngốn bộn tiền!

Ông Ryder làm việc cho IBM ở Bangor. Gia đình họ chuyển đến Colorado năm năm trước… hoặc sáu năm thì phải. Nghĩ cũng lạ, giờ hai cậu con trai nhà ấy đã gần đủ tuổi lái xe rồi đấy. Chúng có tan nát cõi lòng khi chú gấu mèo chết không à? Ta đoán là có. Matty Ryder khóc suốt thời gian dài, đến độ bà mẹ phát hoảng, muốn đưa con đi khám bác sĩ kia mà. Có lẽ giờ cậu bé nguôi ngoai rồi, nhưng chúng mãi không quên. Khi một con thú ngoan bị cán trên đường, trẻ con chẳng bao giờ quên cả.”

Tâm trí Louis bâng quơ nhớ đến cảnh Ellie đang say ngủ ban tối, con bé vừa đặt lưng đã ngủ khì với Church ư ử nằm cuối nệm.

“Con gái cháu có nuôi mèo,” anh kể. “Tên là Winston Churchill. Chúng cháu gọi tắt là Church.”

“Hai hòn có ngúng nguẩy theo bước chân nó không?”

“Ông nói gì kia ạ?” Louis không hiểu ý ông cụ.

“Nó còn sinh sản được hay đã triệt sản rồi?”

“Chưa ạ,” Louis đáp. “Chưa, con mèo chưa triệt sản.”

Thật ra có chút rắc rối liên quan đến vấn đề này lúc họ còn ở Chicago. Rachel muốn đưa Church đi triệt sản; thậm chí cô đã đặt lịch hẹn với bác sĩ thú y. Tuy nhiên, Louis lại hủy hẹn. Đến giờ, ngay bản thân anh cũng chưa thật sự hiểu tại sao. Lý do không đơn giản hay ngớ ngẩn rằng anh đánh đồng bản tính đàn ông của mình với chú mèo mà cô con gái của anh nuôi, thậm chí cũng chẳng phải vì anh căm tức việc đem Church đi thiến chỉ để đảm bảo bà nội trợ mập phệ nhà bên không phải nhọc công vặn chặt nắp thùng rác nhựa nhà mụ ta sao cho Church không hất tung nắp lên rồi lục lọi bên trong – cả hai điều trên chỉ là một phần, còn phần lớn là do anh cảm thấy mơ hồ nhưng mãnh liệt rằng triệt sản chú mèo sẽ phá hủy thứ gì đó trong Church mà bản thân anh cũng trân trọng – rằng nó sẽ dập tắt ánh nhìn ngạo nghễ trong đôi mắt xanh lục của chú mèo ấy. Rốt cuộc, anh viện cớ với Rachel rằng đẳng nào họ cũng sắp chuyển đến vùng quê, vì thế điều đó sẽ chẳng thành vấn đề. Nhưng giờ đây, ông Judson Crandall lại cảnh báo một phần cuộc sống ở vùng quê này bao hàm cả việc xoay xở với Tuyến số 15, con đường lúc nào cũng nườm nượp xe to, thậm chí ông còn hỏi mèo nhà anh đã thiến hay chưa. Thử chút mỉa mai đi, bác sĩ Creed — tốt cho máu lắm.

“Ta khuyên cháu nên thiến nó,” ông Crandall nói, dập điếu thuốc giữa ngón cái và ngón trỏ. “Mèo sau khi thiến ít đi hoang. Chứ nếu nó cứ đi qua đi lại, rồi có ngày vận may cũng hết, và nó sẽ cùng chung số phận với con gấu mèo mà mấy đứa trẻ nhà Ryder nuôi, chú chó giống Cocker Spaniel của cậu bé Timmy Dessler hay con vẹt của bà Bradleigh. Mà con vẹt không bị cán bẹp trên đường đâu, cháu hiểu chứ. Một ngày nọ, nó cứ thế lăn đùng ra chết.”

“Cháu sẽ cân nhắc kỹ lời khuyên của ông,” Louis nói.

“Vậy thì tốt,” ông Crandall nói rồi đứng dậy. “Bia uống được chứ Suy đi tính lại, thôi để ta vào trong lấy một lát ông Ti.”

“Cháu uống hết bia rồi,” Louis nói và đứng dậy. “Cháu cũng phải về đây ạ. Ngày mai là ngày quan trọng “”

“Bắt đầu làm việc ở trường đại học à?”

Louis gật đầu. “Phải hai tuần nữa sinh viên mới quay lại trường, nhưng cháu nghĩ mình nên đến trước, để nắm rõ công việc của mình, ông có nghĩ vậy không?”

“Phải, chứ nếu cháu không biết thuốc thang để đâu thì rách việc đấy.” Ông Crandall chìa tay ra, Louis bắt tay ông, lại ý thức chuyện xương cốt người già dễ đau nhức. “Tối nào qua được thì cứ qua chơi nhé,” ông đề nghị. “Ta cũng muốn cho cháu gặp bà Norma nhà ta. Chắc bà sẽ quý cháu lắm.”

“Có gì cháu qua,” Louis đáp. “Rất vui được gặp ông, ông Jud.”

“Ta cũng thế. Rồi cháu sẽ quen dần. Có khi còn ở đây một thời gian lâu đấy.”

“Cháu mong vậy ạ.”

Louis bước xuống lối đi lát đá lởm chởm đến rìa đường và phải dừng lại để chiếc xe tải cùng một chuỗi năm chiếc ô tô rồng rắn nối đuôi nhau hướng về phía Bucksport chạy ngang qua. Đoạn anh khẽ giơ tay chào rồi băng qua con đường ( đường lộ , anh lại nhắc nhở bản thân) và bước vào căn nhà mới.

Bốn bề tĩnh lặng với những tiếng ngáy khò khò. Ellie có vẻ không cục cựa chút nào, Gage vẫn nằm trong cũi, ngủ cái tướng đặc trưng của cậu bé, thẳng cẳng dang rộng hai tay hai chân, bình sữa ở sát bên. Louis dừng chân nhìn ngắm con, bỗng cõi lòng tràn ngập thương yêu, mãnh liệt đến mức gần như nguy hiểm. Anh nghĩ đơn giản là vì anh đang cảm thấy chênh vênh khi tất cả những nơi chốn Chicago, những gương mặt Chicago quen thuộc giờ đã biến mất, xóa nhòa bởi khoảng cách muốn trùng, tưởng chừng chưa bao giờ tồn tại. Thời nay người ta chuyển nhà nhiều hơn; ngày xưa, những người như ta chọn một mảnh đất cắm dùi rồi an cư nơi đó. Lời ông cụ nói thật chỉ lý.

Anh bước đến chỗ con trai, và vì không có ai ở đó để tận mục sở thị, thậm chí cả Rachel, anh hôn lên ngón tay mình rồi nhẹ nhàng áp tay lên má Gage qua những thanh chắn của chiếc cũi.

Gage nấc lên rồi xoay người sang bên.

“Ngủ ngon nhé, con yêu,” Louis nói.

Anh thay đồ hết sức nhẹ nhàng rồi bước vào chỗ mình nằm trên chiếc giường đôi mà hiện tại mới chỉ là một tấm nệm đặt trên sàn. Anh cảm thấy bao mệt mỏi của ngày hôm nay đã bắt đầu trôi đi. Rachel không cựa người. Đống thùng chưa mở lù lù chiếm chỗ trong phòng đầy ma mị.

Ngay trước lúc ngủ, Louis nhỏm người lên khuỷu tay rồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Căn phòng của hai vợ chồng nằm ở mặt trước căn nhà, thành thử anh có thể nhìn sang nhà ông bà Crandall phía bên kia đường lộ. Quá tối nên không nhìn rõ hình dáng – nếu hôm nay có trăng thì may ra – nhưng anh vẫn thấy đốm lửa đỏ lập lòe từ điều thuốc. Ông cụ vẫn thức, anh thầm nghĩ. Có lẽ ông còn thức thêm một lúc lâu. Người già vốn khó ngủ. Có lẽ họ thức canh.

Canh gì kia chứ ?

Nghĩ đến đây, Louis dần chìm vào giấc ngủ. Anh mơ thấy anh ở Disney World, lái xe van trắng lóa với chữ thập đỏ bên hông. Gage ngồi cạnh anh, và trong mơ, Gage mười tuổi là ít. Church nằm trên bảng điều khiển của chiếc xe, giương đôi mắt xanh rực rỡ nhìn Louis, và trên Đường Chính cạnh ga tàu thập niên 1890, Chuột Mickey đang bắt tay với những đứa trẻ tíu tít xung quanh, găng tay trắng to gộ theo kiểu hoạt hình của chú ta nuốt lấy những bàn tay nhỏ bé, đầy tin tưởng của đám trẻ.