Chương 8
Thứ Bảy tuần đó, sau khi Ellie đi học được một tuần, ngay trước khi sinh viên trở lại trường đại học, ông Jud Crandall băng qua đường và đi thẳng đến bãi cỏ, chỗ cả gia đình Creed đang ngồi. Ellie vừa ngưng đạp xe và đang uống trà đá. Gage bò loanh quanh trên cỏ, săm soi những con bọ, thậm chí còn bỏ vào mồm vài con; cậu bé không quá câu nệ mình lấy protein từ đâu.
“Ông Jud,” Louis lên tiếng rồi đứng dậy. “Để cháu lấy ghế cho ông.”
“Không cần đâu.” Ông cụ mặc quần jean, áo lao động hở cổ và mang đôi ủng màu xanh. Ông nhìn Ellie. “Cháu vẫn muốn biết con đường mòn kia dẫn đến đâu chứ, Ellie?”
“Dạ có!” Ellie hào hứng đứng bật dậy ngay lập tức. Mắt cô bé sáng rỡ, “Bạn George Buck ở trường bảo cháu đó là nghĩa địa cho thú cưng, cháu kể với mẹ thì mẹ bảo phải đợi ông vì ông biết vị trí của nó.”
“Ừ ta biết” ông Jud ôn tồn. “Nếu bố mẹ cháu đồng ý thì ta sẽ dẫn cháu lên đó. Nhưng cháu mang ủng đi. Đất trên đó nhiều chỗ sình lầy lắm.”
Ellie chạy vào nhà.
Ông Jud nhìn theo cô bé với ánh mắt đầy thương yêu. “Cháu có muốn đi cùng không, Louis?”
“Cháu sẽ đi,” Louis đáp. Anh quay sang nhìn Rachel. “Em có muốn đi không, em yêu?”
“Gage thì sao? Em nghĩ phải đi một ki-lô-mét rưỡi ấy chứ.”
“Anh sẽ cho con ngồi vào cái địu Gerrypack.”
Rachel phá lên cười. “Được… nhưng địu trên lưng anh đấy, phu quân của em.”
Chừng mười phút sau, họ lên đường, tất cả đều mang ủng, ngoại trừ Gage. Gage ngồi trong địu Gerrypack và giương mắt quan sát mọi thứ qua vai của Louis. Ellie chạy vụt lên trước hết lần này đến lần khác, lúc thì bắt bướm, lúc thì hái hoa.
Cỏ ở bãi đất sau nhà cao ngang hông, có cả cúc hoàng anh, tựa lời thì thầm cuối hạ báo hiệu với nhân gian mùa thu sắp đến. Nhưng bầu không khí hôm nay chưa thấy hương thu; mặt trời vẫn như trong tháng Tám, dù lịch tháng Tám đã qua từ hai tuần trước. Đến lúc cả nhà lên tới đỉnh ngọn đồi đầu tiên, rồng rắn đi dọc theo con đường đã phạt cỏ, nách áo Louis đẫm màu vì mồ hôi,
Ông Jud dừng chân. Ban đầu Louis cứ tưởng ông cụ đuối sức – nhưng rồi anh trông thấy cảnh tượng trải rộng sau lưng.
“Trên này đẹp đấy chứ,” ông Jud lên tiếng và ngậm một cọng cỏ đuôi mèo giữa răng. Louis thầm nghĩ anh vừa nghe thấy một lời phớt tỉnh điển hình của dân New England.
“Quá sức tráng lệ là đằng khác ạ,” Rachel há hốc, đoạn quay sang Louis với vẻ gần như trách móc. “Cảnh đẹp thế mà anh không kể với em là sao?”
“Vì anh không biết có cảnh như vậy đấy chứ,” Louis đáp và có chút ngượng ngùng. Họ vẫn đang ở trên đất nhà mình; chỉ đơn giản là đến hôm nay, anh mới có thời gian trèo lên ngọn đồi đằng sau nhà.
Ellie đi trước họ từ ban nãy. Cô bé quay trở lại, đôi mắt lấp lánh đầy trầm trồ. Church quấn quanh chân cô bé.
Ngọn đồi không cao, mà thật ra cũng chẳng cần cao làm gì. Phía Đông, khu rừng um tùm che khuất tầm mắt, nhưng phóng ánh nhìn về phía Tây, ta sẽ thấy đất thoải dần, trải dài trong giấc mơ hè vàng óng. Vạn vật hết sức tĩnh lặng, ánh lên trong nắng, tịnh không tiếng động. Thậm chí chẳng có lấy tiếng xe bồn Orinco chạy trên đường cao tốc phá vỡ bầu không khí yên ắng này.
Tất nhiên quang cảnh họ đang chiêm ngưỡng là thung lũng của con sông Penobscot nơi thợ đốn gỗ từng thả cho gỗ trôi về hướng Đông Bắc, xuôi xuống Bangor và Derry. Vị trí này nằm ở phía Nam Bangor và thiên về Bắc Derry. Con sông rộng thênh thang, yên bình róc rách như thể đang chìm sâu trong chiêm bao. Xa xa, Louis loáng thoáng trông thấy Hampden và Winterport, cách đó một đoạn, anh mường tượng mình có thể lần theo Tuyến số 15 song song với dòng sông, ngoằn ngoèo như con rắn đen đúa ngược lên Bucksport. Họ phóng tầm mắt nhìn con sông với hai bờ rậm rạp cây cối, những con đường cùng đồng ruộng trùng trùng. Ngọn tháp hình chóp của Nhà thờ Baptist Bắc Ludlow lấp ló đằng sau những tán du cổ thụ, phía bên phải, anh có thể trông thấy ngôi trường bằng gạch mà Ellie theo học đang nằm sừng sững.
Trên đầu, mây trắng lững lờ giữa trời, là đà bay về phía đường chân trời đang chuyển dần sắc lam. Bốn bề là những cánh đồng cuối hạ, trơ trọi gốc rễ cuối vụ, âm ỉ nhưng vẫn còn nhựa sống, rực rỡ trong sắc vàng cam chói chang.
“ Tráng lệ là từ chính xác,” Louis bần thần thốt lên.
“Ngày xưa người ta gọi nơi này là Đồi Vọng Cảnh,” ông Jud kể. Ông đưa điếu thuốc lên khóe miệng nhưng không châm lửa. “Giờ chỉ còn ít người sử dụng cái tên ấy, chưa kể người trẻ chuyển vào sống trong thị trấn, thành ra nơi này dần rơi vào quên lãng. Ta nghĩ chẳng còn bao nhiêu người từng lên tận đây đâu. Ngọn đồi không cao nên ta dễ có cảm tưởng mình không thể chiêm ngưỡng gì nhiều. Nhưng cháu thấy đấy…” Ông khoát một tay rồi bỏ lửng câu nói.
“Ta có thể bao quát toàn cảnh,” Rachel thầm thì đầy xúc động. Cô quay sang Louis. “Anh yêu, mình sở hữu cả nơi này sao?”
Và trước khi Louis kịp trả lời, ông Jud đã lên tiếng: “Nó là một phần đất, nên đúng là vậy đấy.”
Louis lại thầm nghĩ, hai điều này thật ra không giống nhau.
Trong rừng, khí trời mát mẻ hẳn, nhiệt độ thấp hơn chừng bốn, năm độ C. Con đường mòn vẫn rộng rãi, thỉnh thoảng lại điểm xuyết bằng những khóm hoa trong chậu hoặc trong lon cà phê (đa phần đã héo), mặt đường phủ đầy lá thông khô. Đi chừng bốn trăm mét xuống ngọn đồi thì ông Jud gọi Ellie lại.
“Nơi này mà đi dạo thì rất tuyệt, cháu ạ,” ông hiền từ nói. “Nhưng ta muốn cháu hứa với bố mẹ rằng nếu đi lên đây, cháu không được đi chệch khỏi con đường mòn này.”
“Cháu hứa,” Ellie nhanh nhảu. “Nhưng tại sao ạ?”
Ông liếc nhìn Louis lúc này đang đứng lại nghỉ chân. Dù đi dưới những tán thông cổ thụ và tán vân sam, địu Gage không phải việc nhàn nhã gì. “Cháu có biết mình đang ở đâu không?” Ông hỏi Louis.
Louis ngẫm nghĩ rồi gạt đi những câu trả lời khả dĩ: Ludlow, Bắc Ludlow, đằng sau nhà, giữa Tuyến số 15 và Đường Giữa. Anh lắc đầu.
Ông Jud bèn chĩa ngón tay cái qua vai. “Đằng kia thì đầy nhà cửa, ông nói. “Đó là thị trấn. Còn đằng này thì chẳng có gì ngoài bạt ngàn rừng, kéo dài hơn tám mươi ki-lô-mét là ít. Người ta gọi đây là Rừng Bắc Ludlow, nhưng nó chạy đến tận địa phận Orrington rồi sang cả Rockford. Rừng này trải dài đến khu đất của bang mà ta từng nhắc đến, những khu đất mà thổ dân da đỏ muốn đòi lại. Ta biết nếu nói căn nhà xinh xẻo, ấm cúng, nằm ngay đường lớn, có điện thoại, có đèn đóm, truyền hình cáp của gia đình cháu nằm ở ngay rìa của hoang dã thì hẳn sẽ rất buồn cười, nhưng sự thực là thế đấy.” Ông quay lại nhìn Ellie. “Điều ta muốn căn dặn là cháu không được lang thang vào trong rừng, Ellie ạ. Cháu có thể bị lạc đường và có Chúa mới biết cháu sẽ lưu lạc ở đâu”
“Cháu sẽ không đi lung tung ạ, thưa ông Crandall,” Ellie ngoan ngoãn đáp, thậm chí có vẻ choáng ngợp, nhưng theo Louis thấy, cô bé không sợ hãi. Tuy nhiên, Rachel lại nhìn ông Jud với vẻ mặt e dè, và bản thân anh cũng thấy có chút ngại ngần như thế. Anh đoán có lẽ đây là nỗi sợ rừng thiêng nước độc gần như xuất phát từ bản năng của dân thành phố. Kể từ thời là Hướng Đạo Sinh, tức hai mươi năm trước, Louis chưa cầm la bàn lần nào, và ký ức về cách xác định phương hướng bằng sao Bắc Cực hoặc rêu mọc phía nào của thân cây cũng mờ mịt chẳng thua kém gì ký ức về thắt nút chân chó hoặc nút một vòng một khóa.
Ông Jud nhìn cả gia đình rồi khẽ mỉm cười. “Nói vậy chứ từ năm 1934 chưa có ai đi lạc trong khu rừng này,” ông ôn tồn. “Chí ít là dân địa phương không đi lạc. Người cuối cùng là Will Jeppson. Không mất mát gì nhiều; chỉ có Stanny Bouchard là thiệt. Ta nghĩ cả Bucksport này, chẳng ai bì được với Will khoản nốc rượu như hũ chìm.”
“Ông bảo dân địa phương không đi lạc,” Rachel nhắc lại với giọng nói không bình thản cho lắm, và Louis có thể đi guốc trong bụng cô: Bọn cháu không phải dân địa phương. Chí ít là chưa.
Ông Jud dừng lại rồi gật đầu. “Đúng là cứ hai, ba năm thì lại có một khách du lịch bị lạc, vì họ nghĩ ngay đường chính thế này thì khó lòng mà lạc đường được. Nhưng rồi chúng ta đều tìm thấy họ cả. Cháu đừng lo.”
“Ở đây có nai sừng tấm không ạ?” Thấy Rachel e ngại hỏi, Louis mỉm cười. Nếu Rachel muốn lo, cô ấy sẽ lo tới nơi tới chốn.
“Chà, có thể bắt gặp nai sừng tấm đấy,” ông Jud nói. “Nhưng chúng không gây phiền hà gì cho mình đâu, Rachel ạ. Trong mùa động dục, chúng có thể hơi khó chịu, còn đâu chúng chỉ đứng nhìn mình thôi. Ngoài mùa động dục, chúng chỉ rượt đuổi người vùng Massachusetts. Ta chẳng biết lý do tại sao nhưng đúng là thế đấy.” Louis nghĩ ông cụ đang đùa song không chắc; nhìn ông Jud vô cùng nghiêm túc. “Ta trông thấy mấy lần rồi. Một anh chàng từ Saugus hoặc Milton, hay Weston mắc kẹt trên cây, hét ầm ĩ vì đàn nai sừng tấm con nào con nấy to như nhà xe di động. Xem ra nai sừng tấm có thể đánh hơi thấy mùi Massachusetts trên người đàn ông, đàn bà thì phải. Hoặc có thể nguyên nhân là do quần áo mới của hãng L. L. Bean họ mặc có mùi, ta cũng không rõ. Phải chi có cô cậu sinh viên ngành chăn nuôi nào làm luận văn về chủ đề này thì hay, nhưng chắc còn khuya.”
“Mùa động dục là gì ạ?” Ellie hỏi.
“Không có gì đâu con,” Rachel nói. “Mẹ không muốn con lên đây trừ khi có người lớn đi cùng, Ellie ạ.” Rachel tiến một bước lại gần Louis.
Ông Jud trông có vẻ buồn rầu. “Ta không có ý làm cháu sợ, Rachel ạ. Cả cháu lẫn con gái cháu. Không cần phải sợ hãi khi vào khu rừng này đâu. Con đường mòn này rất ổn; vào mùa xuân thì hơi ruồi muỗi, quanh năm có chút sình lầy – trừ năm ’55, đó là mùa hè khô nhất trong ký ức của ta – nhưng lạy hồn, nơi này không có thường xuân độc hay sồi độc, trong khi đằng sau sân trường thì có, và cháu nhớ tránh xa khỏi chúng nhé, Ellie, nếu cháu không muốn bỏ ra ba tuần trong đời tắm trong tinh bột [4E] .”
Ellie che miệng cười khúc khích.
“Con đường này an toàn lắm,” ông Jud chân thành trấn an Rachel dù trông cô vẫn bản tín bán nghi. “Ta dám cá đến Gage còn lần theo đường mòn này mà đi được kìa, đám trẻ thị trấn đến đây suốt ấy mà, ban nãy ta đã kể rồi đấy. Chúng giữ nơi này sạch đẹp. Không ai bảo chúng cả; bọn trẻ cứ tự làm thế thôi. Ta không muốn phá hỏng chuyện này với Ellie.” Đoạn ông cúi xuống và nháy mắt với cô bé. “Cũng tương tự như những việc khác trong đời, Ellie ạ. Cháu cứ men theo đường mà đi, rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy. Còn nếu đi chệch khỏi đường, đen đủi thì cháu sẽ lạc lúc nào không hay. Và rồi người lớn sẽ phải cử một đội đi tìm cháu.
Họ tiếp tục bước đi. Lưng của Louis bắt đầu nhói đau vì địu cậu con trai. Thỉnh thoảng Gage lại chộp lấy một nắm tóc của bố và hào hứng giật hoặc vui vẻ thúc vào thận của Louis. Muỗi đêm bu quanh mặt và cổ anh, vo ve đến chảy cả nước mắt.
Con đường quanh co chạy xuống, ngoằn ngoèo vòng qua những cây linh sam cổ thụ, đám bụi tua tủa gai. Mặt đường khu vực này cực kỳ lầy lội, đôi ủng của Louis lép nhép trong bùn và nước đọng. Có đoạn, họ phải đạp lên những bụi cỏ to tướng để băng qua sình lầy. Đó là phần kinh khủng nhất. Rồi mọi người bắt đầu leo lên dốc, dần dà cây cối lấy lại vị thế. Lạ chưa, Gage như vừa nặng thêm năm ki-lô-gam, và lạ lùng chẳng kém khi ngày hôm ấy bỗng dưng nóng thêm năm độ. Mồ hôi mẹ mồ hội con thi nhau túa ra trên mặt Louis.
“Anh có mệt không, anh yêu?” Rachel hỏi. “Hay để em bế con cho anh một lát nhé?”
“Không cần đâu, anh ổn mà,” anh nói, thật là thế, dù trống ngực anh đang đập điên cuồng. Anh quen với việc khuyên bệnh nhân tập thể dục hơn là đích thân động tay động chân.
Ông Jud dắt Ellie đi bên cạnh, chiếc quần màu vàng chanh và áo màu đỏ chói chang trong sắc u ám xanh nâu.
“Lou này, ông cụ có thực sự rành đường không? Anh nghĩ sao?” Rachel hạ giọng thì thầm với chút âu lo.
“Hẳn rồi,” Louis đáp.
Ông Jud vui vẻ ngoái ra sau vai: “Gần đến rồi đây… Cháu còn gắng được không, Louis?”
Chúa ơi, Louis thầm cảm thán, ông cụ đã qua tám mươi mà không chảy dù chỉ một giọt mồ hôi.
“Cháu ổn ạ,” anh đáp lại với chút gay gắt. Tự tôn của đấng nam nhi cũng sẽ bảo anh nói câu tương tự ngay cả khi anh sắp nhồi máu cơ tim đến nơi. Anh nhe răng cười, xốc dây buộc địu lên rồi bước tiếp.
Họ lên đến đỉnh ngọn đồi thứ hai, rồi con đường thoại thoải đi xuống qua bụi cây um tùm cao ngang đầu. Con đường hẹp dần, và rồi đằng trước, Louis trông thấy Ellie cùng ông Jud bước qua cổng vòm làm bằng những tấm ván đã dãi nắng dầm mưa. Dòng chữ NGHĨA ĐỊA THÚ CƯNG được viết bằng sơn đen đã bạc màu, phải căng mắt ra mới đọc được. Anh và Rachel ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau rồi bước qua cổng vòm, theo bản năng, vừa bước, tay họ vừa vươn ra nắm lấy nhau, như thể hai vợ chồng đến đây để kết hôn.
Lần thứ hai trong sáng hôm nay, Louis bất ngờ đến độ không khỏi trầm trồ.
Ở đây chẳng có lá thông trải thành thảm mà chỉ là một khoảng đất hết sức tròn trịa, cỏ được cắt tỉa gọn gàng, đường kính rộng khoảng mười hai mét. Ba mặt được bao bọc bởi những bụi cây um tùm, mặt còn lại là đống cây đổ, chồng chất lên nhau trông vừa ma mị vừa nguy hiểm. Người nào cố gắng băng qua hoặc trèo qua chúng tốt nhất nên mang giáp sắt bảo vệ của quý trước khi đánh liều, Louis thầm nghĩ trong bụng. Khoảng đất cắm đầy cọc đánh dấu, rõ ràng những đứa trẻ đã tận dụng bất cứ vật liệu gì có thể xin xỏ hoặc mượn – những thanh gỗ mỏng, gỗ phế liệu, mảnh thiếc đã cũ nát. Nhưng khi đặt chúng trong khung cảnh những bụi rậm lô nhô cùng cây cối không hàng lối đang giành giật không gian sống và ánh sáng mặt trời, cái thô mộc, vụng dại ấy lại càng nhấn mạnh quang cảnh này cân đối ra sao, và rằng bàn tay con người đã tạo ra nơi này như thế nào. Cảnh rừng núi khiến nơi đây mang một vẻ trầm mặc đầy điên rồ, một nét duyên dáng không mang dấu ấn của Thiên Chúa giáo mà đầy tính ngoại giáo.
“Đẹp quá,” Rachel nhận xét, giọng chẳng có chút gì cảm động.
“Wow!” Ellie ré lên.
Louis thả Gage xuống vai và kéo cậu con trai ra khỏi địu để cậu bé được bò xung quanh. Lưng anh thở hắt ra đầy nhẹ nhõm.
Ellie chạy từ tấm bia này sang tấm bia khác, lần nào cũng trầm trồ không thôi. Louis đi theo cô bé trong lúc Rachel canh chừng cậu con trai. Ông Jud ngồi bắt chéo chân, lưng tựa vào tảng đá nhô lên, miệng phì phèo hút thuốc.
Louis để ý dường như nơi này có một trật tự, kiểu mẫu nào đó; các tấm bia được sắp xếp gần như thành hình tròn đồng tâm.
MÈO SMUCKY, một cây cọc làm bằng ván ghi. Chữ viết tay của trẻ con nhưng rất nắn nót. BÉ MÈO RẤT NGOAN. Bên dưới để: 1971 – 1974. Đi quanh vòng tròn bên ngoài, anh trông thấy một thanh gỗ tự nhiên đề tên viết bằng sơn đỏ, nay đã bạc màu nhưng vẫn còn đọc được: BIFFER. Bên dưới là đoạn thơ khiến Louis nhoẻn miệng cười: Biffer, Biffer, ngửi đến mệt phời Cả đời mình, em khiến mọi người cười phớ lớ.
“Biffer là chú chó giống Cocker Spaniel của nhà Dessler,” ông Jud giải thích. Ông đã dùng gót giày đào hố nhỏ trên mặt đất và cẩn trọng gạt tàn thuốc vào bên trong. “Năm ngoái, nó bị xe rác cán qua. Nghe cứ như thơ ấy nhỉ?”
“Dạ phải,” Louis đồng tình.
Vài bia mộ có bày cả hoa, một số còn tươi, đa số đã cũ, vài bông héo quắt. Louis cố căng mắt đọc những câu chữ sơn hay viết trên bia, nhưng quá nửa đã phai màu phần nào hoặc không còn đọc nổi. Có những tấm bia chẳng để gì, và Louis đoán có thể bọn trẻ đã dùng phấn hoặc sáp màu để viết lên.
“Mẹ ơi!” Ellie hét lên. “Ở đây có cá vàng này! Mẹ đến mà xem!”
“Mẹ kiếu nhé,” lời đáp của Rachel khiến Louis liếc nhìn. Cô đứng một mình ở vòng tròn ngoài cùng, trông bứt rứt hơn bao giờ hết. Louis nhủ thầm: Đến cả ở đây mà vợ mình vẫn chạnh lòng. Nguyên nhân tâm trạng cô lúc nào cũng u hoài khi phải chứng kiến cái chết (anh nghĩ bình thường chắc chẳng ai vui vẻ cho nổi) hẳn là từ sau khi chị gái cô qua đời. Chị gái của Rachel mất từ khi còn bé, và việc này để lại vết thương lòng nơi cô, một vết thương mà ngay từ khi mới dựng xây tổ ấm, Louis biết tốt nhất mình không nên đụng vào. Người chị quá cố ấy mang tên Zelda, ra đi vì căn bệnh viêm màng não tủy. Có lẽ trước khi mất, Zelda đã phải vật vã suốt một thời gian dài, đau đớn và khủng khiếp, mà khi đó, Rachel còn ở cái tuổi dễ bị ảnh hưởng tinh thần. Cô ấy không muốn nhớ lại cũng phải thôi.
Louis nháy mắt với vợ, và Rachel mỉm cười cảm kích.
Louis ngước mắt nhìn. Họ đang ở trong một khoảng đất trống tự nhiên. Anh đoán đó là lý do cỏ mọc um tùm như thế; ánh mặt trời vẫn chiếu rọi xuống đây. Tuy nhiên, để cây cối tươi tốt, cần phải tưới nước và chăm sóc cẩn thận. Điều đó có nghĩa các cô cậu bé đã kéo xô nước lên đây, khéo có khi những đôi vai gầy ấy đeo thùng chứa nước nặng hơn cả Gage mà anh địu trên lưng. Một lần nữa, anh không khỏi trầm trồ khi trẻ con có thể duy trì nơi này lâu đến vậy. Trong ký ức anh, được củng cố nhờ những lần lên bờ xuống ruộng với Ellie – trẻ con cả thèm chóng chán, niềm vui thích cháy tựa giấy báo, phừng lên rất nhanh… nóng rẫy… rồi chẳng mấy chốc thì tàn.
Thế mà đám trẻ đã gìn giữ nơi này suốt khoảng thời gian dài; ông Jud nói đúng. Bước qua vòng tròn để tiến về phía vị trí trung tâm, anh càng cảm nhận rõ điều đó. Càng đi sâu vào trong, mộ của thú cưng càng xưa cũ; chữ ghi trên bia mộ càng lúc càng mờ tịt, nhưng những tấm biển còn đọc được cho ta thấy mốc thời gian lùi xa trong quá khứ. Anh thấy một cây cọc để TRIXIE, BỊ CÁNH (CÁN) TRÊN CAO TỐC 15 THÁNG CHÍN, 1968. [5E] Trong cùng vòng tròn ấy có một tấm bảng rộng, phẳng phiu cắm sâu vào đất. Bao lần tuyết hết phủ lại tan đi khiến tấm bảng méo mó, xiêu vẹo sang một bên, nhưng Louis vẫn có thể đọc được dòng chữ TỬNG NHỚ MARTA THỎ CƯNG CHẾC 1 THÁNG BA 1965. Đi sâu thêm một hàng là GEN. PATTON (CHÓ! CƯNG! NHÀ! MÌNH!, dòng chữ nhấn mạnh) mất vào năm 1958; và Polynesia (hẳn là một chú vẹt, nếu Louis nhớ đúng chi tiết trong Bác sĩ Dolittle), cất lên tiếng kêu “Polly muốn ăn bánh” lần cuối vào mùa hè năm 1953. Hai hàng tiếp theo không đọc được chữ, và vẫn cách tâm vòng tròn khoảng xa, chạm khắc thô sơ trên một tảng sa thạch là HANNAH CHÚ CHÓ TUYỆT NHẤT TRẦN ĐỜI 1929 – 1939. Mặc dù sa thạch tương đối mềm – và kết cục là dòng chữ bên trên hiện giờ vô cùng mờ mịt – Louis vẫn không tài nào tưởng nổi số giờ đứa trẻ này đã dùng để khắc chín chữ kia lên đá. Anh thật sự choáng váng trước sự kiên trì khởi phát từ tình yêu thương cũng như nỗi mất mát ấy; đây là điều mà bố mẹ còn chẳng làm cho ông bà, hoặc cho con cái mình nếu chẳng may chúng yểu mệnh.
“Ôi, khu này lâu đời thật,” anh nói với ông Jud lúc này đã tiến lại chỗ anh.
Ông cụ gật đầu. “Lại đây, Louis. Ta muốn cho cháu xem thứ này.”
Họ bước đến dãy bia chỉ cách tâm vòng tròn ba dãy. Nếu ở lớp ngoài, vòng tròn chừng như chỉ là sự ngẫu nhiên gần như bừa phứa, thì ở đây, hình dáng hiện ra rất rõ ràng. Ông Jud dừng chân trước một phiến đá nhỏ đã đổ rạp. Ông cẩn thận khuỵu gối và dựng nó lên.
“Trước từng có chữ,” ông kể. “Ta tự tay khắc đấy, nhưng nó đã mòn hết rồi. Ta đã chôn chú chó đầu tiên ta nuôi tại đây. Spot. Nó già nên qua đời vào năm 1914, năm Thế chiến Thứ nhất nổ ra.”
Sửng sốt trước việc nghĩa địa này còn lâu đời hơn nhiều nghĩa địa chôn cất người đã khuất, Louis bước đến tâm vòng tròn và quan sát thêm vài tấm bia. Chẳng còn tấm bia nào rõ chữ, và đa số đã khỏa lấp phần nào dưới tầng đất rừng. Thậm chí một tấm bia đã bị cỏ phủ xanh, khi anh dựng nó lên lại, có âm thanh đứt lựt phựt, tựa hồ mặt đất đang lên tiếng phản đối. Bọ lạo xạo chạy trên mặt đá anh vừa nhấc. Khẽ rùng mình, anh thầm nghĩ: Bãi tha ma cho động vật à? Mình không chắc mình thích chốn này.
“Khu nghĩa địa này có từ khi nào vậy ạ?”
“Chúa ơi, ta chịu đấy,” ông Jud đáp, hai tay thọc sâu vào túi. “Lúc chú chó Spot nhà ta mất, nơi này đã tồn tại rồi. Ngày ấy ta có nhiều bạn bè. Chúng bạn giúp ta đào hố chôn Spot. Đào đất ở đây vất lắm chứ chẳng dễ – đất cứng khủng khiếp, khó mà lật lên được. Thỉnh thoảng, ta lại giúp bạn của ta.” Ông đây đó bằng ngón tay xương xấu. “Đằng kia là chó của Pete LaVassuer, nếu ta nhớ không lầm, còn dãy đó chôn cất ba chú mèo của Albion Groatley.
“Con mèo già Fritchie cứ hay đuổi bắt bồ câu. Ta, Al Groatley và Carl Hannah đã chôn một con chết do bị chó cắn. Nó nằm ngay kia.” Ông trầm ngâm. “Cả đám đều xuống suối vàng cả rồi, chỉ còn mình ta. Bạn ta mất hết rồi.”
Louis chẳng nói gì, chỉ im lặng nhìn mộ của đám thú cưng, tay thọc vào túi.
“Đất cứng như đá,” ông Jud lặp lại. “Chẳng trồng được gì ngoài xác chết, ta đoán vậy.”
Cách đó một quãng, Gage bắt đầu rấm rứt khóc, Rachel xốc cậu bé lên, bế ngang hông. “Con nó đói rồi,” cô lên tiếng. “Mình nên quay về thôi, Lou ạ.” Em xin anh đấy, ánh mắt cô van nài.
“Hẳn rồi,” anh nói, đáp lại ánh nhìn của cô. Anh đeo Gerrypack lên lưng và xoay người lại để Rachel đặt Gage vào địu. “Ellie! Ellie ơi, con đâu rồi?”
“Con nó kia kìa,” Rachel chỉ tay về phía đống cây đổ. Ellie đang mải mê leo trèo như thể những thân cây ấy là họ hàng hư đốn của khung leo trèo trên trường.
“Ôi, cháu ơi, trèo xuống đây đi!” Ông Jud hốt hoảng gọi cô bé. “Rủi cháu đặt chân sai chỗ, thân cây xê dịch là cháu gãy mắt cá như chơi.”
Ellie nhảy xuống. “Ui da!” Cô bé ré lên và chạy lại phía họ, tay xoa xoa hông. Da cô bé chưa bị rách, nhưng một cành cây khô cứng đã làm rách quần.
“Cháu hiểu ý ta chưa,” ông Jud xoa đầu cô bé. “Ngay cả người hiểu về rừng cũng không dám trèo qua những thân cây bị đổ rạp như này thế này, thà họ đi đường vòng còn hơn. Cây ngã thành đống thế thường có ác ý. Nếu có thể, chúng còn cắn cháu nữa kìa.”
“Thật ạ?” Ellie hỏi.
“Thật đấy,” Louis đáp trước khi ông Jud kịp lên tiếng.
Ông cụ nhấn mạnh. “Cháu thấy đấy, chúng chồng chất như rơm. Chẳng may cháu đạp đúng vị trí, chúng sẽ đổ xuống như tuyết lở.”
Ellie ngước nhìn Louis. “Có đúng thế không bố?”
“Bố nghĩ vậy, con yêu.”
“Eo ôi!” Cô bé quay về phía đống cây đổ và la oai oái: “Chúng bay làm rách quần tao rồi, mấy cái cây đáng ghét!”
Cả ba người lớn phì cười. Đống cây đổ thì không. Nó chỉ im lìm, trắng hếu dưới ánh mặt trời như bao thập kỷ qua. Dưới mắt Louis, nó trông giống những đoạn xương còn sót lại của con quái vật đã chết từ lâu, có lẽ chết dưới lưỡi kiếm của chàng hiệp sĩ trượng nghĩa hào hoa. Hài cốt của con rồng, chất đống, nằm lại nơi đây.
Chợt lúc đó, anh cảm thấy có gì đó thật hoàn hảo về đống cây đổ ấy và cách nó chắn giữa nghĩa địa thú cưng và rừng thiêng nước độc đằng sau, những khoảng rừng bạt ngàn mà ông Jud Crandall về sau thỉnh thoảng lại gọi là “rừng dân da đỏ”. Sự tình cờ ấy sao thật khéo léo, sao thật hoàn mỹ, tạo tác của thiên nhiên có thể đến mức ấy sao? Nó…
Thế rồi Gage tóm lấy tai anh vặn vẹo, bi bô vui vẻ, và Louis quên bẳng về đống cây đổ trong khu rừng đằng sau nghĩa địa thú cưng. Đến lúc về nhà rồi.