← Quay lại trang sách

Chương 22

Bữa tiệc Lễ Tạ ơn mà ông Jud và bà Norma tổ chức hết sức tuyệt vời. Dùng bữa xong, Louis về nhà, căng da bụng, chùng da mắt. Anh lên lầu vào phòng ngủ, tận hưởng bầu không khí yên tĩnh một chút, cởi giày và nằm xuống giường. Lúc đó chưa tới ba giờ, không gian bên ngoài tắm trong ánh mặt trời hanh hao sắc đông.

Mình sẽ chợp mắt một lát, anh nghĩ rồi chìm vào giấc ngủ.

Chuông điện thoại trong phòng ngủ đánh thức anh dậy. Anh mò lấy ống nghe, cố xua đi cơn ngái ngủ, mất phương hướng khi nhận ra trời gần như tối hẳn. Anh có thể nghe thấy tiếng gió rít quanh góc nhà và tiếng thì thầm lách tách của lò sưởi.

“A lô,” anh lên tiếng. Hẳn đầu dây bên kia là Rachel gọi từ Chicago để chúc anh Lễ Tạ ơn vui vẻ. Cô sẽ chuyển máy cho Ellie để con gái nói chuyện với anh, sau đó Gage sẽ giành máy và bi ba bi bô, làm thế nào mà anh lại ngủ hết buổi chiều trong khi anh định xem trận bóng bầu dục kia chứ…

Nhưng người gọi không phải Rachel mà là ông Jud.

“Louis? Ta e cháu gặp chút rắc rối.”

Anh vội bật dậy khỏi giường, gạt khỏi đầu cơn buồn ngủ. “Ông Jud ạ? Rắc rối gì kia?”

“Chà, có xác một con mèo trên bãi cỏ nhà ta,” ông Jud nói. “Ta nghĩ đó có thể là mèo của con gái cháu.”

“Mèo Church sao?” Louis hỏi. Bụng anh bỗng chùng xuống. “Ông có chắc không, ông Jud?”

“Không, ta không dám chắc một trăm phần trăm,” ông đáp, “nhưng trông giống lắm.”

“Ôi. Ôi khốn thật. Cháu qua ngay.

“Được, Louis.”

Cúp máy xong, anh thần người ngồi đó một lúc. Đoạn anh vào nhà vệ sinh, sau đó mang giày rồi xuống lầu.

Chà, chắc gì đó là Church. Ông Jud cũng bảo ông không chắc một trăm phần trăm kia mà. Chúa ơi, con mèo thậm chí còn chẳng buồn leo lên lầu trừ khi có người bế nó lên… nó băng qua đường làm gì kia chứ.

Nhưng trong lòng, anh cảm thấy chắc chắn con mèo bị chết là Church… và nếu tối nay, Rachel gọi điện thoại, mà chắc chắn vợ anh sẽ làm thế, anh biết nói ra sao với Ellie đây?

Thật điên rồ, anh nghe văng vẳng trong tai những lời chính anh đã nói với Rachel: Anh biết mọi thứ – nghiêm túc là mọi thứ — có thể xảy ra với sinh vật sống. Là bác sĩ nên anh hiểu điều đó… Em có muốn là người giải thích với con chuyện gì đã xảy ra nếu chú mèo nó nuôi bị xe cán trên đường không? Nhưng thành thật mà nói, đời nào anh lại nghĩ Church sẽ gặp chuyện đâu kia chứ.

Anh nhớ một trong những người cùng chơi bài poker với anh, Wickes Sullivan, từng hỏi làm thế nào anh có thể nổi hứng với vợ mình mà không nổi hứng khi hằng ngày đều nhìn thấy phụ nữ khỏa thân. Louis bèn giải thích với anh này rằng sự thật chẳng như những gì người ta tưởng tượng – một nữ bệnh nhân bước vào để xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung hay hỏi cách tự khám ngực không đột ngột trút bỏ xiêm y rồi làm dáng như thần Vệ nữ đứng trên vỏ sò. Bác sĩ trông thấy khuôn ngực, âm hộ, đùi. Còn lại được che bằng khăn, có y tá đứng trực, cốt yếu là để bảo vệ danh tiếng của bác sĩ. Nhưng Wicky không tin. Vòng một là vòng một, cửa mình là cửa mình, Wicky quan niệm như thế. Một là anh có thể nổi hứng mọi lúc, hai anh chẳng bao giờ ham muốn. Louis chỉ biết đáp lại rằng ngực vợ mình là thứ khác biệt.

Giống như mỗi người, gia đình là điều rất khác biệt, anh thầm nhủ trong đầu. Church không thể nào mất mạng vì chú mèo ấy nằm trong vòng tròn ma thuật mang tên gia đình. Điều anh không thể khiến Wicky hiểu là bác sĩ cũng vui vẻ và mù quáng phân loại mọi thứ trong đời như người bình thường. Ngực chẳng là ngực trừ khi đó là ngực vợ mình. Trong phòng khám, ngực của một phụ nữ khác không phải là ngực mà chỉ là một ca bệnh. Ta có thể đứng trước cử tọa trong hội thảo khoa, trình bày số liệu trẻ em mắc ung thư máu cho đến khi chán chê mê mỏi, nhưng ta sẽ không tin nếu chính con mình phải chịu căn bệnh nghiệt ngã ấy. Con tôi ư? Chú mèo của con tôi ư? Bác sĩ, anh đùa tôi đấy à? Từ từ, bình tĩnh nào. Từng bước một.

Nhưng chẳng dễ dàng gì khi anh nhớ Ellie đã hoảng loạn ra sao lúc nghĩ đến chuyện rồi một ngày, Church sẽ chết.

Con mèo ngu ngốc khốn khiếp, việc gì nhà mình phải nuôi mèo kia chứ.

Nhưng nó có đi loanh quanh để tìm bạn tình nữa đâu. Đáng lý ra điều đó phải giúp nó giữ được mạng.

“Church?” Anh gọi, nhưng chỉ có tiếng lò sưởi lách tách đốt tiền. Trường kỷ trong phòng khách vốn là nơi Church suốt ngày nằm ườn giờ trống không. Chú mèo cũng không nằm trên lò sưởi. Louis gõ lanh canh đĩa đựng thức ăn của nó, một điều chắc chắn sẽ khiến Church chạy tới nếu nó nghe thấy, nhưng lần này chẳng thấy bóng dáng con mèo nào chạy lại… và anh e rằng mai này cũng thế.

Anh lưỡng lự mặc áo, đội mũ rồi bước đến cửa. Đoạn anh vòng lại. Thuận theo những gì linh tính mách bảo, anh mở tủ bếp dưới bồn rửa chén rồi ngồi xổm xuống. Có hai loại túi nhựa bên trong – loại túi nhỏ màu trắng cho thùng rác trong nhà và túi lớn màu xanh chuyên đựng rác. Louis lấy túi cỡ to. Từ ngày bị thiến, Church mập lên rất nhiều.

Anh nhét túi nhựa vào túi áo khoác, khó chịu khi ngón tay chạm phải chiếc túi trơn lạnh. Đoạn anh bước ra cửa rồi băng qua đường sang nhà ông Jud.

Lúc đó khoảng năm giờ ba mươi phút. Bóng chiều nhập nhoạng. Khung cảnh khoác lên mình vẻ chết chóc thật lạ lẫm. Chút ánh tà dương vương vấn tựa sợi chỉ mảnh màu cam vắt ngang chân trời bên kia sông. Gió thốc thẳng xuống Tuyến số 15, khiến má Louis tê rần và thổi bay hơi thở trắng xóa của anh. Cảm giác đơn côi cứa vào lòng làm anh run rẩy. Nó bạo liệt quá, thuyết phục quá. Chẳng có cách nào cụ thể hóa nó bằng ẩn dụ. Cảm giác ấy vô diện. Đơn giản là anh cảm thấy nó, dù không tài nào bắt được hình tướng.

Anh trông thấy ông Jud bên kia đường, mặc áo khoác len thô xỏ khuyu to sụ màu xanh, mặt khuất trong chiếc mũ vành lông thú. Đứng trên bãi cỏ đóng băng, trông ông tựa bức tượng, tựa một thứ vô hồn trong không gian chạng vạng, im lìm tiếng chim hót này.

Louis toan bước qua đường, và lúc ấy, ông Jud động đậy — ông vẫy tay gọi anh. Ông hét gì đó mà anh không thể nghe rõ do tiếng gió gào thét dữ dội. Anh lùi lại, bất chợt nhận ra tiếng gió đã sâu và bén hơn. Giây sau, tiếng còi hơi inh ỏi hụ lên, một chiếc xe tải Orinco rầm rập chạy qua, gần đến độ áo quần anh lật phật. Suýt chút nữa thì anh đã bước thẳng ra trước chiếc xe ấy.

Lần này, anh cẩn trọng nhìn ngó trước sau rồi mới băng qua. Chỉ có ánh đèn hậu của chiếc xe bồn ban nãy dần tan biến vào ngày tàn.

“Ta cứ tưởng chiếc Orinco ấy sẽ tông phải cháu,” ông Jud nói. “Đi đứng cẩn thận chứ, Louis.” Dù gần đến vậy, Louis cũng không thể trông thấy khuôn mặt của ông Jud, cảm giác khó chịu cứ bám riết lấy anh, rằng đây có thể là bất cứ ai… bất cứ người nào.

“Bà Norma đâu ạ?” Anh hỏi, vẫn chưa nhìn xuống đống lông bùi nhùi nằm dưới chân ông Jud.

“Bà ấy đi dự buổi Lễ Tạ ơn ở nhà thờ rồi,” ông đáp. “Ta đoán bà ấy sẽ ở lại dùng bữa luôn, nhưng ta nghĩ chắc bà ấy chẳng bỏ bụng gì đâu.” Trời lại nổi gió, hất chiếc mũ ra sau trong chốc lát, Louis trông thấy đó quả là ông Jud – nhưng còn có thể là ai kia chứ? “Các bà ấy kiếm cớ để tụm năm tụm ba với nhau ấy mà,” ông Jud nói. “Trưa họ đã tổ chức một bữa linh đình rồi nên chắc họ chỉ ăn thêm dăm ba chiếc sandwich thôi. Tầm tám giờ bà ấy mới về.”

Louis quỳ xuống nhìn con mèo. Xin đừng để nó là Church, anh tha thiết cầu nguyện trong đầu khi dùng bao tay khẽ lật nó lại. Xin hãy để nó là mèo người khác, xin hãy để ông Jud nhầm lẫn.

Nhưng tất nhiên, đó là Church. Chú mèo không bị cán bẹp hay dị dạng, như thể bị chiếc xe bồn hoặc xe đầu kéo chạy trên đường Tuyến số 15 tông phải (chiếc xe Orinco ấy chạy lung tung ngoài đường làm gì vào ngày Lễ Tạ ơn vậy? Anh bâng quơ nghĩ). Mắt Church he hé, mờ như hai hòn bi màu xanh. Máu chảy ra từ khóe miệng đang mở. Không quá nhiều máu nhưng đủ để nhuốm màu vạt lông trắng trên ngực nó.

“Mèo nhà cháu phải không, Louis?”

“Vâng,” anh đáp rồi thở dài.

Lần đầu tiên, anh nhận ra mình thương Church – có lẽ tình thương ấy không mãnh liệt như Ellie, nhưng theo cách riêng của anh. Vài tuần sau khi bị thiến, Church đổi tính hẳn, mập ra, đi đứng chậm chạp, chỉ loanh quanh luẩn quẩn bên giường của Ellie, trường kỷ và đĩa đựng thức ăn, chẳng bước ra khỏi nhà. Nhưng giờ đây, khi chú mèo đã lìa đời, Louis lại trông thấy bóng hình Church ngày xưa. Cái miệng nhỏ xíu đầy máu, tua tủa răng sắc như dao, đông cứng trong tư thế nhe ra. Đôi mắt trông thật phẫn nộ. Như thể sau quãng đời ngắn ngủi, ngu xuẩn, bình lặng của một con mèo bị thiến, Church đã tìm lại được bản chất thật sự của mình trong cái chết.

“Phải, là Church,” anh nói. “Cháu mà biết phải báo tin này với Ellie ra sao, chắc cháu đâm đầu xuống đất mất.”

Chợt anh nảy ra ý tưởng. Anh sẽ chôn Church ở Nghĩa địa Thú cưng mà không cắm bia mộ hay làm mấy trò ngớ ngẩn tương tự. Tối nay, anh sẽ không nói gì với Ellie về Church qua điện thoại; rồi ngày mai, anh giả vờ nhắc dạo này bỗng dưng anh chẳng thấy Church đâu; hôm sau nữa, anh sẽ bảo có lẽ Church đã đi mất. Thỉnh thoảng, mèo làm thế mà. Ellie sẽ buồn, chắc chắn rồi, nhưng không có bất cứ cáo chung nào… không có điệp khúc liên tu bất tận khi Rachel rầu rĩ không chịu đối mặt với cái chết… mà chỉ phai nhạt dần..

Đồ hèn, một phần tâm trí anh lên tiếng.

Phải… không có gì phải bàn cãi. Nhưng ai muốn đưa mình vào thế khó kia chứ?

“Cô bé thương chú mèo lắm phải không?” Ông Jud hỏi.

“Vâng,” Louis bần thần. Anh nhẹ nhàng xoay đầu Church. Người chú mèo đã bắt đầu cứng lại, nhưng đầu lại quay dễ hơn bình thường. Cổ nó bị gãy rồi. Phải. Với chi tiết này, anh nghĩ mình có thể tái hiện chuyện đã xảy ra. Church đang băng qua đường – vì lý do gì thì chỉ có Chúa mới biết – thì xe ô tô hoặc xe tải tông trúng làm nó gãy cổ và bị hất văng vào bãi cỏ nhà ông Jud Crandall. Hoặc có thể cổ chú mèo bị gãy khi nó đập người xuống nền đất đóng băng. Điều đó chẳng quan trọng. Dù kịch bản nào chăng nữa, kết cục vẫn không thay đổi. Church đã mất mạng.

Anh ngước nhìn ông Jud, toan nói với ông kết luận anh vừa rút ra, nhưng ông cụ đang đưa mắt nhìn về ánh tà dương màu cam héo úa nơi chân trời. Mũ ngả ra sau, khuôn mặt ông trông thật trầm tư, nghiêm nghị… thậm chí có phần khắc nghiệt.

Louis lôi túi nhựa màu xanh rồi giở nó ra, giữ thật chặt để gió không cuốn đi mất. Chừng như âm thanh loạt soạt của chiếc túi đưa ông Jud trở về với thực tại.

“Ừ, ta đoán hẳn cô bé thương nó lắm,” ông Jud ôn tồn. Cách ông dùng thì hiện tại có gì đó thật lạ kỳ… không gian lúc này, với tà dương dần tàn, với cái rét căm và gió phần phật khiến anh cảm thấy thật lạ kỳ và ma mị.

Heathcliff đang đứng trên đồng hoang đây, Louis thầm nghĩ, mặt nhăn lại vì lạnh. Chuẩn bị bỏ chú mèo gia đình anh ta nuôi vào túi rác. Ối chà.

Anh nắm lấy đuôi của Church, căng miệng túi rác rồi nhấc xác con mèo lên. Anh không tài nào giấu được nét mặt ghê tởm và đau lòng khi nghe cơ thể của chú mèo phát ra tiếng roạt roạt lúc anh kéo nó khỏi mặt băng mà nó bị đông cứng. Chú mèo nặng không tưởng, tựa hồ cái chết đã thẩm thấu vào nó như quả tạ thực sự. Chúa ơi, nó nặng chẳng thua gì xô cát.

Ông Jud giữ đầu kia của chiếc túi để Louis thả Church vào trong, anh mừng vì mình không còn phải cảm nhận sức nặng kỳ lạ, khó chịu ấy.

“Giờ cháu định làm gì với nó?” Ông Jud hỏi. Khuôn mặt ông trông như tạc vào trong chiếc mũ. Nhưng đôi mắt đau đáu nhìn thẳng vào Louis.

“Chắc cháu để tạm cái xác trong ga ra,” Louis nói. “Sáng mai cháu đem chôn.”

“Ở Nghĩa địa Thú cưng à?”

Louis nhún vai. “Cháu định vậy.”

“Cháu có báo với Ellie không?”

“Cháu… cháu phải suy nghĩ thêm về việc đó.”

Ông Jud lặng thinh hồi lâu, đoạn ông lên tiếng như rút ra được quyết định. “Đợi ở đây một, hai phút nhé, Louis.”

Ông quay đi, không hề nghĩ Louis sẽ chẳng muốn đứng đợi dù chỉ một phút trong cái rét cắt da cắt thịt tối nay. Từng bước ông đi đều chắc chắn, uyển chuyển, một điều xưa nay hiếm ở độ tuổi của ông. Mà đằng nào Louis cũng chẳng biết nói gì. Anh cảm thấy anh chẳng còn là anh nữa. Anh cứ ngẩn ra nhìn ông bỏ đi, tương đối bằng lòng khi đứng đây.

Anh ngửa mặt thẳng vào cơn gió sau khi cửa đóng cạch lại, túi rác đựng xác Church cứ thế loạt soạt giữa hai chân.

Bằng lòng.

Phải, anh bằng lòng. Lần đầu tiên kể từ khi họ chuyển đến Maine, anh mới cảm thấy anh đang đứng đúng nơi dành cho anh, rằng anh đang ở nhà. Một mình đứng ở đây, trong không gian tranh tối tranh sáng ma mị, đứng ngay rìa mùa đông, anh thấy không vui nhưng vẫn phấn khích lạ lùng và cảm thấy đủ đầy – đủ đầy theo cách anh chưa bao giờ cảm nhận được hoặc không nhớ từ hồi còn bé, đã có bao giờ mình có cảm giác này hay chưa.

Sắp sửa có chuyện xảy ra rồi, Bubba. Tôi đoán đó là một chuyện rất kỳ quặc.

Ngửa đầu ra sau, anh nhìn những vì tinh tú của mùa đông lạnh lẽo trên bầu trời tối dần.

Anh chẳng rõ mình đã đứng như thế bao lâu, dù chắc hẳn không lâu lắm nếu xét theo phút. Đoạn một ánh đèn lập lòe trên hiên nhà ông Jud, lại gần cửa chắn ở hiện rồi di chuyển xuống bậc tam cấp. Ông Jud đang cầm trên tay cây đèn pin cỡ lớn. Tay kia, ông cầm một thứ mà ban đầu Louis cứ tưởng là chữ X khổng lồ… nhưng hóa ra là cuốc chim và xẻng.

Ông đưa xẻng cho Louis, anh bèn nhận lấy bằng tay còn lại.

“Ông Jud, ông định làm gì thể? Đêm hôm khuya khoắt, sao mình chôn nó được?”

“Được chứ. Và chúng ta sẽ làm vậy.” Khuôn mặt của ông Jud khuất sau ánh đèn pin sáng lóa.

“Ông Jud, trời tối rồi, trễ nữa. Lại còn lạnh…”

“Đi nào,” ông Jud giục. “Làm cho xong.

Louis lắc đầu, toan can ngăn nhưng mấp máy mãi mới được – những lý lẽ, những giải thích. Chúng thật vô nghĩa trước tiếng gió rít ù ù, trước hằng hà sa số tinh tú lấp ló giữa trời đêm.

“Ta có thể đợi đến sáng mai khi thấy đường…”

“Cô bé có thương chú mèo không?”

“Có, nhưng….”

Giọng ông Jud nhẹ nhàng và đầy lý tính: “Thế cháu có thương con bé không?”

“Tất nhiên là thương, con bé là con cháu…”

“Vậy thì đi thôi.”

Louis đành cất bước.

Buổi tối hôm ấy, trên suốt đoạn đường đi đến Nghĩa địa Thú cưng, có lẽ chừng hai hay ba lần gì đó Louis cố bắt chuyện với ông Jud, song ông không trả lời. Anh bèn thôi. Cảm giác bằng lòng ấy quả là kỳ cục trong trường hợp này nhưng lại là sự thật không thể chối cãi, cứ bám riết lấy anh. Tưởng chừng nó đến từ mọi nơi. Cả việc cơ tay anh đau rần vì một tay cầm xác Church, tay kia cầm xẻng cũng là một phần cảm giác ấy. Gió lạnh căm, cửa vào những mảng da không có gì che chắn, cũng là một phần; gió không ngừng lùa qua những cành cây. Khi họ đến rừng, xung quanh không có tuyết. Ánh đèn pin nhấp nhô của ông Jud là một phần, tỏa sáng như ngọn đuốc ban sơ càng lúc càng dấn sâu vào rừng. Anh cảm thấy có một bí mật đang hiện diện, áp đảo, không thể phủ nhận, như có sức hút. Một bí mật đen tối.

Bóng cây thưa dần, để lộ một khoảng không gian. Tuyết ánh lên nhạt nhòa.

“Nghỉ ở đây đi,” ông Jud nói, và Louis đặt túi xuống. Anh quệt tay lau mồ hôi trên trán. Nghỉ ở đây? Nhưng họ đến nơi rồi mà. Anh có thể trông thấy bia mộ hiện ra dưới ánh đèn pin chiếu tới chiếu lui vô định của ông Jud khi ông cụ ngôi lên lớp tuyết mỏng và vùi mặt vào hai cánh tay.

“Ông Jud? Ông ổn chứ?”

“Ta ổn. Ta cần lấy lại sức chút thôi.”

Louis ngồi xuống bên cạnh rồi hít thở thật sâu năm, sáu lần.

“Ông biết không,” anh lên tiếng, “có lẽ cả sáu năm nay, cháu mới cảm thấy khoan khoái thế này. Cháu biết lời cháu nói thật điên rồ, khi cháu phải chôn chú mèo mà con gái cháu nuôi, nhưng sự thật là thế, ông Jud ạ. Cháu cảm thấy thoải mái lắm.”

Ông Jud cũng hít thở sâu một, hai lần. “Ừ, ta hiểu,” ông nói. “Thỉnh thoảng lại thế. Ta chẳng thể lựa thời điểm để cảm thấy khoan khoái, ngược lại cũng vậy. Và một phần nguyên nhân là ở nơi chốn nữa, nhưng tốt nhất cháu đừng tin tưởng nó. Heroin giúp con nghiện cảm thấy khoan khoái khi tiêm chúng vào tay, nhưng nó chỉ đầu độc chứ chẳng lợi lộc gì. Đầu độc cả cơ thể, đầu độc cả tâm trí. Nơi này có thể như vậy đấy, Louis ạ, và cháu không được phép quên điều đó. Ta cầu với Chúa điều ta đang làm là đúng. Ta nghĩ vậy, nhưng ta không chắc. Thỉnh thoảng, đầu óc ta lại mụ mẫm. Ta nghĩ chắc ta sắp đến tuổi lú lẫn rồi.”

“Cháu không hiểu ông đang nói gì.”

“Nơi này có sức mạnh, Louis ạ. Ở đây thì không nhiều, nhưng. nơi chúng ta sắp đến thì có.”

“Ông Jud…”

“Đi thôi,” ông Jud nói rồi đứng dậy. Ánh đèn pin chiếu đến đống cây đổ. Ông Jud bước đến đó. Bất chợt, Louis nhớ lại lần anh mộng du. Pascow đã nói gì trong giấc mơ đi kèm ấy nhỉ?

Đừng vượt qua đấy, bất kể anh cảm thấy cần thiết đến mức độ nào, bác sĩ ạ. Ranh giới ấy không được phép phá vỡ.

Nhưng đêm nay, chừng như giấc mơ ấy, lời cảnh báo hoặc bất kể nó là gì xa xôi như thể đã xảy ra cách đây nhiều năm chứ chẳng phải vài tháng. Louis cảm thấy khoan khoái, bừng sức sống, sẵn sàng đối mặt với mọi điều, lâng lâng hứng khởi. Anh chợt cảm thấy lúc này thật giống một giấc mơ.

Đoạn ông Jud quay về phía anh, chiếc mũ như bao quanh một khoảng trống, và trong thoáng chốc, Louis tưởng chừng Pascow đang đứng trước mặt anh, ánh đèn chiếu ngược lên hộp sọ nhe nhởn cười, lẩm bẩm, bọc bằng lông thú, làm nỗi sợ trào dâng trong anh như làn nước lạnh ngắt.

“Ông Jud,” anh lên tiếng, “chúng ta không thể trèo qua đó được. Chẳng may ta gãy chân rồi lúc muốn tìm đường quay lại, ta lạnh cóng đến chết mất.”

“Cứ đi theo ta,” ông Jud nói. “Đi theo ta và đừng nhìn xuống. Đừng chần chừ và đừng nhìn xuống. Ta biết đường đi, nhưng phải hành động nhanh và dứt khoát.”

Louis bắt đầu thầm nhủ có lẽ đây chỉ là mơ, đơn giản là anh ngủ giấc chiều chưa dậy mà thôi. Nếu mình đang thức, anh nghĩ, còn lâu mình mới mò đến đống cây đổ, giống như mình sẽ không đời nào xin quốc cần câu rồi đi nhảy dù. Nhưng mình sẽ làm. Mình thực sự nghĩ mình sẽ làm thế. Vì vậy… hẳn là mình đang nằm mơ. Đúng không?

Ông Jud đi chếch sang trái, rời khỏi khoảng giữa đống cây đó. Ánh đèn pin chiếu sáng choang trên đống

(xương)

cây đổ và những khúc gỗ cũ lổn nhổn. Vòng tròn ánh sáng chiếu từ đèn pin nhỏ dần và sáng hơn khi họ lại gần. Không buồn dừng lại dù chỉ một chút, cũng chẳng liếc quanh để chắc chắn mình đang đi đúng hướng, ông Jud bước lên. Ông không bò toài, cũng không khom người trèo như người ta trèo lên ngọn đồi mấp mô hoặc dốc cát. Ông cứ thế đi lên như thể đang leo bậc thang. Một người leo thang không thèm nhìn xuống vì anh ta biết rõ từng bậc thang ở đâu. Ông Jud bước như nắm trong lòng bàn tay bước tiếp theo sẽ ở vị trí nào.

Louis bắt chước ông.

Anh không nhìn xuống, cũng chẳng lựa tìm chỗ đặt chân. Anh chắc chắn đến lạ kỳ rằng đống cây đổ này không thể hại anh trừ khi anh cho phép. Tất nhiên, suy nghĩ này rõ là xem trời bằng vung; như thái độ tự cao tự đại ấu trĩ của kẻ cho rằng dù có xỉn quắc cần câu, chỉ cần đeo mặt dây chuyền Thánh Christopher thì lái xe vẫn an toàn.

Thế mà nó hiệu quả.

Không có cành cây cũ nào bị gãy dưới sức nặng của anh, cũng chẳng có cú hụt chân xuống hố đầy những miếng gỗ nhọn hoắt, trắng hếu do chịu nắng mưa, mảnh nào mảnh nấy sắc lẹm, chỉ chờ chực để cứa, để đâm, để xẻo. Giày anh mang (giày lười Hush Puppy; không khuyến khích dùng khi leo trèo lên những đống cây đổ) không hề bị trượt trên rêu khô lâu đời mọc um tùm trên rất nhiều cây đổ. Anh không nghiêng tới trước cũng chẳng ngả về sau. Gió cứ thế gào rú qua những hàng linh sam xung quanh.

Trong thoáng chốc, anh thấy ông Jud đứng ngay trên đỉnh đống cây đổ, đoạn ông bắt đầu đi xuống, bắp chân khuất khỏi tầm mắt, rồi tới đùi, hông và eo. Ánh sáng cứ thế nhảy nhót trên những cành cây tua tủa phía bên kia của… của ranh giới. Phải, nó là thế thì cứ gọi là thế, việc gì lại giả vờ không phải? Đó chính là ranh giới.

Louis bước lên đỉnh và chững lại, chân phải anh đạp lên một cây cổ thụ bị đổ nghiêng góc ba mươi lăm độ, chân trái đạp lên thứ gì đó đàn hồi hơn – đống linh sam cũ chồng lên nhau thì phải? Anh không nhìn xuống mà chỉ chuyền túi rác nặng trịch đựng xác mèo Church từ tay phải sang tay trái, đổi chỗ cho cái xẻng nhẹ hơn. Anh ngước mặt thẳng vào hướng gió, cảm nhận nó phần phật thổi qua, tưởng chừng liên tu bất tận, khiến tóc tai anh dựng ngược. Lạnh quá, sạch quá… bất biến quá.

Nhẹ nhàng di chuyển, gần như thong dong, anh bước xuống. Một cành cây to cỡ cổ tay gãy đánh rắc dưới chân, nhưng anh chẳng buồn quan tâm – và bàn chân anh đặt xuống được đỡ bằng cành cây lớn hơn chừng mười phân bên dưới. Thậm chí Louis còn không lảo đảo. Anh thầm nghĩ có lẽ giờ anh đã hiểu cách chỉ huy đại đội hành quân dọc theo chiến hào giữa làn lửa đạn xối xả, vừa đi vừa thì thầm bài ca quân hành “Tipperary”. Thật điên rồ, nhưng cái điên rồ ấy khiến anh phấn khởi khủng khiếp.

Anh đi xuống, nhìn thẳng vào vòng tròn sáng trưng của đèn pin. Ông Jud đứng đó đợi anh. Đoạn khi anh đến cuối dốc, cơn phấn khởi lóe lên trong anh như dầu đổ vào than hồng.

“Đến nơi rồi!” Anh hét lên. Anh đặt xẻng xuống rồi vỗ vai ông Jud. Anh nhớ lại cảm giác hồi còn bé anh từng nhận lời thách đố bước qua cầu đường sắt; anh nhớ mình từng trèo lên tít ngọn cây táo đung đưa trong gió như đầu cột buồm. Đã hơn hai mươi năm nay, anh không cảm thấy trẻ trung và tràn trề nhựa sống tự trong tâm khảm thế này, “Ông Jud, ta đến nơi rồi!”

“Chứ cháu tưởng ta không đến được à?” Ông Jud hỏi.

Louis mở miệng toan nói gì đó – Cháu tưởng ta không đến được Cháu thấy chúng ta đúng là phúc khi không mất mạng! – nhưng rồi anh im bặt. Anh không thắc mắc chút nào, kể từ lúc ông Jud tiến lại đống cây đổ. Và anh không hề nghĩ đến chuyện phải leo lên quay về.

“Dạ không” anh đáp.

“Đi thôi. Vẫn còn một đoạn nữa. Chắc gần năm ki-lô-mét.”

Họ bước tiếp. Hóa ra vẫn còn đường. Có chỗ đường rất rộng, dù ánh đèn pin di chuyển chỉ chiếu được chút ít; chủ yếu là cảm giác không gian thoáng hơn, cây cối dạt sang hai bên. Một, hai lần gì đó, Louis ngẩng đầu nhìn sao trời lấp lánh giữa tán cây đen đúa. Lúc nọ, có một thứ vụt qua con đường trước mặt, ánh đèn pin chiếu vào đôi mắt xanh – nhưng chỉ trong thoáng chốc rồi mất hẳn.

Con đường cũng có lúc hẹp dần, đến độ bụi cây cào những ngón tay cứng quèo vào vai áo khoác của Louis. Anh đổi tay xách túi và xẻng thường xuyên hơn, cơn đau vai không ngừng nhức nhối. Anh như đắm chìm trong nhịp bước, gần như bị thôi miên. Phải, ở đây có sức mạnh, anh cảm nhận được điều đó. Anh nhớ lại hồi còn là cậu học sinh cuối cấp, anh đã cùng cô bạn gái của mình và vài cặp khác mò đến một nơi đồng không mông quạnh rồi âu yếm nhau ở cuối con đường đất gần trạm xăng. Lúc sau, cô bạn gái của Louis đòi về nhà hoặc chí ít là chuyển sang địa điểm khác vì cô bị nhức răng (nói đúng hơn là những cái răng bị trám, tức gần hết hàm). Louis cũng mừng vì có thể rời khỏi chỗ đó. Không khí xung quanh trạm xăng khiến anh cảm thấy căng thẳng và tỉnh táo. Hiện tại, cảm giác cũng giống vậy, song mạnh hơn. Mạnh hơn nhưng không hề khó chịu chút nào. Nó…

Ông Jud dừng dưới chân con dốc dài, Louis chạy lại chỗ ông.

Ông quay sang anh. “Chúng ta gần đến đích rồi,” ông trầm tĩnh nói. “Chỗ tiếp theo cũng tương tự đống cây đổ – ta phải bước thật đều và thong dong. Cứ đi theo ta và đừng nhìn xuống dưới. Cháu cảm nhận được chúng ta đang đi xuống dốc chứ?”

“Vâng”

“Đây là rìa địa phận người Micmac đặt tên là Đầm Tiểu Thần. Những người buôn lông thú đi qua gọi nơi này là Đầm Lầy Tử Thi, và hầu hết ai từng đi đến đây mà thoát ra được không bao giờ xớ rớ trở lại.”

“Có cát lún ạ?”

“Ồ, cát lún đầy ra đấy! Các dòng chảy cứ ùng ục qua những lớp chất cát thạch anh còn sót lại từ sông băng. Chúng ta gọi đó là cát silica nhưng có lẽ có cái tên phù hợp hơn.”

Ông Jud nhìn anh, và trong phút chốc, Louis nghĩ anh nhác thấy ánh nhìn sáng quốc và không hài lòng trong mắt ông cụ. Ánh mắt mạnh mẽ, rần rật, tựa hồ không khí quanh trạm xăng vào đêm anh còn là học sinh. Louis cảm thấy nó vô cùng khó chịu.

Đoạn ông Jud dịch chuyển đèn pin và ánh nhìn ấy biến mất.

“Có rất nhiều thứ kỳ cục dưới này, Louis ạ. Không khí nặng nề hơn… mang nhiều điện tích hơn… hoặc gì đó.”

Louis giật mình.

“Sao thế?”

“Dạ không,” Louis nói.

“Có khi ta sẽ trông thấy lửa Thánh Elmo, dân thủy thủ hay gọi đấy là lửa ma trơi. Nó có hình dáng quái gở lắm, nhưng chẳng là gì đâu. Nếu nhìn thấy hình thù gì và bị làm phiền, cháu cứ quay sang hướng khác. Có thể còn nghe cả những âm thanh như tiếng nói, nhưng chỉ là tiếng của những kẻ du thủ du thực dưới mạn Nam phía Prospect. Âm thanh vang đến đây. Ngộ nhỉ?”

“Du thủ du thực?” Louis ngờ vực. “Thời điểm này trong năm sao?”

“Ồ, ừ,” ông Jud đáp nhưng giọng của ông bình thản và không tiết lộ cảm xúc gì. Louis chợt cồn cào mong muốn có thể nhìn thấy khuôn mặt ông cụ. Cái nhìn ấy…

“Ông Jud, chúng ta đang đi đâu vậy? Rốt cuộc chúng ta làm gì ở chốn xa xôi này?”

“Ta sẽ nói cho cháu biết khi chúng ta đến nơi,” ông Jud quay đi. “Cẩn thận mấy bụi cỏ đấy.”

Họ bắt đầu đi tiếp, bước từ gò này sang gò khác. Louis không cần lần mò để đặt chân xuống mà chân anh như tự động di chuyển, anh chẳng phải cất công. Anh chỉ trượt chân đúng một lần, giày trái đâm thủng lớp băng mỏng, nhúng vào làn nước đọng lạnh lẽo, hơi nhớt ở phía dưới. Anh rút chân lên thật nhanh rồi bước tiếp, đi theo ánh đèn pin nhảy múa của ông Jud. Ánh đèn ấy là đà bay qua rừng, khơi gợi trong anh ký ức về những câu chuyện hải tặc anh thích mê thuở nhỏ. Những kẻ xấu xa đi chôn những đồng tiền vàng vào những đêm không trăng… và tất nhiên một trong số họ sẽ bị đẩy ngã vào hố chôn, ngay trên rương báu, xơi kẹo đồng ngay tim, vì đám hải tặc tin rằng – hoặc chí ít đó là điều mà tác giả của những câu chuyện khủng khiếp ấy tuyên bố – rằng hồn ma đồng đội của bọn chúng sẽ ở đó canh giữ kho báu.

Có điều thứ chúng ta đi chôn không phải kho báu mà chỉ là chú mèo bị thiến mà con gái mình nuôi.

Anh cố nén cơn cười khùng khục chực trào.

Anh không nghe thấy “âm thanh như tiếng nói” nào, cũng không thấy ngọn lửa Thánh Elmo, nhưng sau khi bước qua năm, sáu bụi cây, anh nhìn xuống thì thấy bàn chân, bắp chân, đầu gối và đùi dưới biến mất trong làn sương bao phủ mặt đất, vừa mịn màng, vừa trắng toát lại vừa mờ đục. Tựa hồ bước qua đống tuyết nhẹ nhất thế giới.

Bầu không khí như phảng phất ánh sáng và ấm áp hơn, anh dám thề như thế. Anh có thể trông thấy ông Jud ở phía trước, di chuyển đều đều, cái đầu cùn của cuốc chim quặp qua vai. Cây cuốc lại càng củng cố ảo ảnh về một người đàn ông dự tính chôn kho báu.

Cảm giác hứng khởi điên rồ ấy cứ âm ỉ, bỗng dưng anh tự hỏi nhỡ đâu Rachel đang gọi về nhà thì sao, nếu chuông điện thoại cứ reo vang, phát ra những âm thanh buồn tẻ, khô khốc trong nhà thì sao. Nếu…

Suýt chút nữa anh tông vào lưng ông Jud. Ông cụ dừng ngay giữa đường. Đầu ông nghiêng sang bên. Miệng ông mím lại, căng thẳng.

“Ông Jud? Sao…”

“Suỵt!”

Louis im bặt, lo lắng nhìn quanh. Ở đây, màn sương trên đất đã mỏng đi, nhưng anh vẫn không nhìn thấy được đôi giày dưới chân mình. Đoạn anh nghe thấy tiếng bụi cây loạt soạt, cành cây răng rắc. Có thứ đang bước ra – và thứ này rất lớn.

Anh mở miệng toan hỏi ông Jud liệu đó có phải nai sừng tấm hay không (thật ra gấu mới là suy nghĩ lướt qua đầu anh) nhưng rồi anh ngậm miệng. Ông Jud đã bảo Âm thanh vang đến đây .

Anh bất giác bắt chước ông Jud nghiêng đầu sang bên rồi lắng tai nghe. Tiếng động ban đầu tưởng xa nhưng hóa ra lại rất gần; nó lùi xa rồi tiến về phía họ đầy đáng ngại. Louis cảm thấy mồ hôi túa ra trên trán, chảy xuống hai gò má nứt nẻ. Anh chuyển túi rác đựng xác Church từ tay này sang tay kia. Lòng bàn tay anh mướt mồ hôi, bịch rác màu xanh giờ thật nhớt nhúa, chỉ chực trượt khỏi nắm tay. Càng lúc, thứ ngoài kia càng gần, tưởng chừng Louis sẽ trông thấy nó hiện hình bất cứ lúc nào, đứng trên hai chân, và thậm chí có lẽ sẽ chắn hết trời sao bằng thân hình đồ sộ, khổng lồ đến khó tin.

Gấu không còn là thứ anh nghĩ đến trong đầu.

Giờ anh chẳng biết anh đang nghĩ gì nữa.

Đoạn nó lại lùi xa rồi biến mất.

Louis mở miệng, câu hỏi Ban nãy là gì ạ? trên đầu lưỡi. Đoạn tiếng cười chói tai, man dại vang lên từ màn đêm, lúc gầm gừ lúc rít rẻ thành những chu kỳ điên loạn, đinh tai nhức óc, rợn người. Louis cảm thấy mọi khớp trên người đông cứng, chẳng hiểu sao người anh nặng như đá, đến độ nếu anh quay lưng chạy, cơ thể sẽ lún xuống mất dạng dưới lớp đất lầy lội.

Tiếng cười lại vang lên, vỡ tan thành những tiếng khanh khách khô khốc, tựa hồ đống đá bở vụn dọc đường đứt gãy; nó biến thành tiếng thét, rồi lại giảm tông xuống tiếng cười khùng khục vang từ trong bụng, chuyển sang tiếng rên rỉ trước khi tắt hẳn.

Đâu đó có tiếng nước tong tỏng, trên đầu họ là tiếng gió thốc đều đều bi ai, giống như một dòng sông lững lờ trôi giữa trời. Còn Đầm Tiểu Thần rất yên tĩnh.

Cả người Louis bỗng run lên bần bật. Anh bắt đầu nổi da gà – đặc biệt là ở phần bụng dưới. Phải, nổi da gà là từ chính xác; da anh chừng như đang chuyển động trên cơ thể. Miệng khô khốc. Tưởng chừng chẳng còn chút nước bọt nào bên trong. Thế mà cảm giác phấn khởi ấy vẫn còn đó, cơn điên cuồng không thể nào rũ bỏ.

“Cái quái gì vậy ạ?” Anh khàn khàn thì thầm với ông Jud.

Ông Jud quay sang nhìn anh, trong ánh đèn mờ mịt, Louis thấy ông cụ phải già đến 120 tuổi. Trong mắt ông không còn dấu tích của thứ ánh sáng kỳ lạ nhảy nhót kia nữa. Khuôn mặt ông rệu rã, sợ hãi tột cùng. Nhưng khi lên tiếng, giọng ông vẫn rất vững vàng. “Một gã du thủ du thực thôi,” ông nói. “Đi nào. Gần đến rồi.”

Họ lại đi tiếp. Các bụi cây thành khoảng đất cứng trở lại. Suốt một khoảng thời gian, Louis cảm thấy không gian thoáng hẳn, dù ánh sáng mờ mờ bao bọc bốn bề đã phai dần, giờ thì anh chỉ trông thấy lưng của ông Jud ở phía trước cách anh gần một mét. Lớp cỏ cũn cỡn cứng lại do sương giá dưới chân. Chúng vỡ rào rạo như thủy tinh theo từng bước chân của họ. Rồi họ lại bước vào rặng cây. Anh có thể ngửi thấy mùi cây linh sam dễ chịu và cảm nhận lá linh sam châm chích. Thỉnh thoảng nhành cây lại quẹt qua người.

Louis hoàn toàn mất cảm giác về thời gian và phương hướng, nhưng họ đi bộ thêm một quãng không xa thì ông Jud dừng chân quay sang anh.

“Có bậc thang,” ông nói. “Cắt vào đá. Bốn nươi hai hay bốn mươi tư bậc gì đấy, ta không nhớ rõ. Cứ đi theo ta. Lên đến đỉnh là tới nơi.”

Ông bắt đầu leo và Louis một lần nữa bước theo.

Bậc đá rộng rãi nhưng cảm giác mặt đất rơi lại phía sau khiến anh không yên trong dạ. Thỉnh thoảng, giày của anh nghiến phải sỏi hoặc mảnh đá dăm.

… Mười hai… mười ba… mười bốn…

Gió càng lúc càng rát buốt, lạnh căm, chẳng mấy chốc mặt anh tê đi. Chúng ta đang đứng cao hơn cả hàng cây sao? Anh tự hỏi. Ngước nhìn, anh trông thấy hằng hà sa số tinh tú, những chấm sáng lạnh lẽo trong màn đêm bít bùng. Chưa bao giờ trong đời, những vì sao lại khiến anh cảm thấy mình nhỏ nhoi, bé bỏng và vô nghĩa đến vậy. Anh tự hỏi câu hỏi xưa cũ – liệu ngoài kia có tồn tại trí thông minh nào hay không? – và thay vì choáng ngợp trước sự kỳ vĩ, suy nghĩ ấy đem đến cảm giác lạnh lẽo, tựa như anh vừa hỏi cảm giác ăn một đống bọ lúc nhúc sẽ ra sao.

… Hai mươi sáu… hai mươi bảy… hai mươi tám…

Mà ai đã đục đẽo những bậc thang này nhỉ? Người da đỏ. Người Micmac? Những người da đỏ ấy có thủ theo dụng cụ không? Mình phải hỏi ông Jud mới được. “Người da đỏ thủ theo dụng cụ” làm anh nghĩ tới “động vật phủ lớp lông dày,” anh liên tưởng đến thứ đã tiến lại gần họ trong rừng. Hụt chân, anh cào bàn tay mang găng của mình dọc theo tường đá phía bên tay trái để giữ thăng bằng. Bức tường lạnh ngắt, lởm chởm, sứt mẻ và chằng chịt vết. Như da khô sắp mục, anh nghĩ.

“Cháu ổn chứ, Louis?” Ông Jud thì thầm.

“Cháu ổn,” anh nói, dù hụt hơi và cơ bắp nhói đau vì sức nặng của Church trong túi.

… Bốn mươi hai… bốn mươi ba… bốn mươi bốn…

“Bốn mươi lăm,” ông Jud nói. “Hóa ra là ta nhầm. Chắc phải mười hai năm ta không lên đây rồi. Ta cứ nghĩ ta chẳng còn lý do gì phải đến nơi này lần nữa. Đây… cháu lên đi.”

Ông nắm lấy cánh tay Louis rồi đỡ anh lên bậc thang cuối.

“Tới nơi rồi,” ông Jud ôn tồn.

Louis nhìn quanh. Giờ thì anh có thể thấy khá rõ; ánh sao tuy mờ ảo nhưng vừa đủ. Họ đang đứng trên một bề mặt lởm chởm đất đá nhô thẳng lên từ mặt đất như cái lưỡi đen thui. Nhìn theo hướng ngược lại, anh trông thấy ngọn cây linh sam mà họ đã băng qua để đến bậc đá. Rõ ràng, họ đã trèo lên đỉnh quả núi kỳ cục bằng phẳng, dạng địa hình dị thường hay xuất hiện ở Arizona hoặc New Mexico. Phần đỉnh bằng trên ngọn núi, hoặc đồi, xói mòn nặng, hoặc bất kể thứ là gì này phủ đầy cỏ, không có lấy một cái cây nên mặt trời đã làm tan chảy lớp tuyết nơi đây. Quay lại chỗ ông Jud, Louis trông thấy cỏ khô rạp xuống trước cơn gió ù ù thổi, khuôn mặt tê tái, anh thấy hóa ra đây là đồi chứ không phải địa hình núi đỉnh bằng đơn lẻ. Trước mặt bọn họ, đất nhô lên lần nữa, dẫn vào rừng. Nhưng phần đỉnh này phẳng một cách rõ ràng, rất lạ thường khi xét tới việc New England chủ yếu là đối thấp và thoải…

Người da đỏ thủ theo dụng cụ, tâm trí anh chợt vang lên.

“Đi thôi,” ông Jud gọi và dẫn anh đi chừng 23 mét vào rặng cây. Gió thổi rất mạnh nhưng không gian thoáng đãng. Louis loáng thoáng trông thấy đường nét rất nhiều thứ dưới cái tối tăm của tán cây – đây là những cây linh sam lâu năm nhất và cao lớn nhất anh từng thấy. Vừa cao, vừa đơn độc, nơi này gợi trong anh cảm giác trống rỗng – nhưng là sự trống rỗng đầy rộn ràng.

Hóa ra những đường nét tối tăm này là những ụ đá.

“Người Micmac đã san phẳng đỉnh đồi nơi đây,” ông Jud nói. “Không ai biết họ làm cách nào, cũng như chẳng ai biết người Maya xây kim tự tháp ra sao. Bản thân người Micmac bây giờ cũng đã quên, tương tự như người Maya.”

“Tại sao? Tại sao họ làm vậy ạ?”

“Đây là nơi họ chôn cất,” ông Jud nói. “Ta mang cháu đến đây để cháu chôn mèo của Ellie. Người Micmac không phân biệt đối xử đâu. Họ chôn thú cưng ngay cạnh chủ.”

Điều này khiến Louis liên tưởng đến người Ai Cập, những người rất không lạ gì chuyện này: họ giết thú hoàng gia nuôi, để linh hồn những con thú có thể hầu cận linh hồn chủ nhân ở thế giới bên kia. Anh nhớ mình từng đọc về việc họ đã giết hơn 10.000 thú cưng và gia súc khi ái nữ của pharaoh qua đời – trong đó có 600 con heo và 2000 con công. Đàn heo được ướp tinh dầu hoa hồng, hương nước hoa ưa thích của ái nữ này trước khi bị cắt cổ.

Họ xây dựng cả kim tự tháp. Chẳng ai biết chắc kim tự tháp của người Maya có mục đích gì – nhiều người bảo chúng dùng để định hướng và đo thời gian giống Stonehenge – nhưng chúng ta thừa biết từ xưa đến nay, kim tự tháp Ai Cập từng là tượng đài vĩ đại của cái chết, là những khu nghĩa địa nhất thế giới. Ramses II yên nghỉ tại đây. Ông Rất Ngoan, Louis nghĩ rồi không nhịn nổi mà cười nắc nẻ.

Ông Jud nhìn anh với vẻ mặt chẳng hề bất ngờ.

“Đi chôn con mèo nhà cháu đi,” ông nói. “Ta sẽ làm điếu thuốc. Ta cũng muốn giúp, nhưng việc này cháu phải tự làm. Của ai người nấy chôn. Ở đây vốn thế.”

“Ông Jud, tất cả những điều này có nghĩa là gì? Sao ông lại đưa cháu đến đây?”

“Vì cháu đã cứu mạng bà Norma,” ông Jud nói, và dù ông cụ nói đầy chân thành – Louis cũng tin ông hết lòng với mình – chẳng hiểu sao anh chợt bị lấn át bởi cảm giác choáng ngợp rằng ông đang nói dối… hoặc ông bị lừa gạt và chuyển sự lừa dối ấy sang Louis. Anh nhớ nhìn anh đã trông thấy, hay tưởng anh đã trông thấy, trong mắt ông Jud.

Nhưng tít tắp trên dậy, những điều ấy chẳng còn quan trọng. Tâm trí anh thả hồn vào ngọn gió và và thổi xung quanh thành dòng sông chảy mãi, khiến tóc anh bay khỏi lông mày và tại.

Ông Jud ngồi tựa lưng vào thân cây, tay khum lại quẹt diêm và chăm một điểu Chesterfield.

“Cháu có muốn nghỉ một chút rồi mới bắt đầu không?”

“Thôi, cháu ổn,” Louis đáp. Anh có thể thắc mắc thêm với ông, nhưng anh chẳng buồn làm thế. Anh cảm giác điều anh làm vừa sai nhưng lại vừa đúng và anh quyết định bằng lòng với điều đó… chỉ ít là lúc này. Chỉ có một điều anh cần biết. “Cháu có đào huyệt cho chú mèo được không đây? Đất có vẻ nông?” Louis hếch cằm về phía tảng đá nhô lên khỏi mắt đất ở rìa bậc đá.

Ông Jud chậm rãi gật đầu. “Ái chà,” ông nói. “Đúng là đất có hơi nông. Nhưng đất đủ sâu để cỏ mọc thì thường đủ sâu để chôn cất thi thể, Louis ạ. Và người ta đã chôn cất ở chốn này bao đời nay rồi. Song ta nói trước là làm cũng vất đấy.”

Thật vậy. Đất cứng như đá; chỉ lát sau, anh nhận ra anh cần dùng cuốc chim mới đào được huyệt vừa với Church. Thế là anh luân phiên dùng cả hai, đầu tiên anh lấy cuốc chim để làm tơi lớp đất đá cứng, sau đó dùng xẻng để đào phần đất này ra. Tay anh bắt đầu đau. Người nóng dần, anh cảm nhận được khát khao mãnh liệt, nung nấu rằng mình phải làm thật tốt. Anh bắt đầu ngân nga trong miệng, một hành động thỉnh thoảng anh lại làm khi khâu vết thương. Đôi lúc cuốc chim đập phải phiến đá cứng đến độ tóe lửa, cơn rung truyền đến cán gỗ khiến hai tay anh run lên bần bật. Anh cảm thấy lòng bàn tay mình phồng rộp nhưng chẳng thèm quan tâm, mặc dù tâm lý chung của các bác sĩ là rất cẩn trọng với đôi tay của mình. Trên cao, bốn bề xung quanh, gió cứ thế ca vang, ngân nga giai điệu ba nốt.

Điểm xuyết cho âm thanh này là tiếng đá lộp cộp thả xuống. Anh nhìn qua vai thì trông thấy ông Jud đang khom người nhấc những tảng đá lớn mà anh đã đào rồi xếp chúng thành đống.

“Để đắp thành ụ đá,” ông nói khi thấy Louis nhìn mình.

“À vâng” Louis nói rồi tiếp tục công việc.

Anh đào huyệt rộng sáu mươi phân và dài chín mươi phân – mỗi một con mèo mà đào mồ hoành tráng thế này đấy, anh thầm nhủ trong đầu – và đến khi nó sâu gần tám mươi phân, lần nào cuốc chim đập xuống cũng tóe lửa, anh ném cả cuốc cả xẻng sang một bên rồi hỏi ông Jud như thế này đã được chưa.

Ông Jud đứng dậy nhìn qua. “Ta thấy được rồi đấy,” ông nhận xét. “Với cả quan trọng là cháu nghĩ gì.”

“Giờ ông có thể nói cháu nghe ý nghĩa của hành động này được chưa?”

Ông Jud khẽ mỉm cười. “Người Micmac tin rằng ngọn đồi này có ma thuật,” ông nói. “Họ tin rằng cả cánh rừng, bắt đầu từ vùng đầm lầy phía Bắc và phía Đông ẩn chứa ma thuật. Họ xây dựng nơi này, chôn cất thi thể, giữa nơi hoang vu thăm thẳm. Những bộ tộc khác không bén mảng đến đây, người Penobscot bảo khu rừng đầy u linh. Về sau, những người bẫy thú lấy lông cũng rỉ tai nhau như thế. Ta đoán nhiều người trong số họ đã nhìn thấy ma trơi trong Đầm Tiểu Thần và tưởng mình đã gặp ma.”

Nhìn ông Jud mỉm cười, Louis nghĩ trong đầu mình, Đây không phải là điều ông nghĩ.

“Thời gian trôi qua, đến cả người Micmac cũng chẳng đặt chân tới đây nữa. Một người trong bộ lạc kể rằng anh ta trông thấy quái vật ăn thịt người Wendigo ở đây và rằng đất đã mất chất. Họ tổ chức bữa yên tiệc linh đình, nhảy nhót say sưa… thời tóc còn xanh, ta nghe kể như vậy đấy, Louis ạ, nhưng người kể ta nghe là ông Stanny B. nát rượu – ấy là biệt danh chúng ta gọi Stanley Bouchard — và ông này có tật hề không biết thì sẽ thêm mắm dặm muối.”

Louis chỉ biết Wendigo là ác quỷ phương Bắc nên anh hỏi: “Ông có nghĩ đất đã biến chất không ạ?”

Ông Jud mỉm cười, hoặc chỉ ít đôi môi ông xếch lên. “Ta nghĩ đây là nơi nguy hiểm” ông khẽ nói. “Nhưng với chó mèo hay chuột lang nuôi làm thú cưng thì không. Cháu chôn chủ mèo đi, Louis.”

Louis hạ túi rác xuống hố rồi chậm rãi xúc đất lấp. Anh thấy lạnh và mệt lử. Tiếng đất đập lên túi nhựa khiến lòng anh nặng nề, và dù không hối tiếc vì đã lên tận đây, cảm giác hứng khởi kia dần phai, anh thầm ước chuyến đi này chóng đến hồi kết thúc. Trở về nhà sẽ là quãng đường dài đây.

Tiếng đất loạt soạt một hồi rồi nghẹt lại và tắt hẳn – giờ chỉ còn tiếng trầm trầm khi đất ngày một bồi đắp. Anh dùng lưỡi xẻng hất phần đất cuối cùng vào huyệt ( Chẳng bao giờ là đủ, anh thầm nhủ, nhớ lại người cậu làm dịch vụ lễ tang từng bảo với anh cả nghìn năm trước, rằng chẳng bao giờ có thể lấp đầy huyệt) rồi quay sang ông Jud.

“Ụ đá nữa,” ông Jud ngắn gọn.

“Ông Jud này, cháu mệt rồi và…”

“Là mèo của Ellie đấy,” ông Jud nói, nhỏ nhẹ nhưng không khoan nhượng. “Con bé cũng sẽ muốn cháu làm đến nơi đến chốn.”

Louis thở dài. “Có lẽ vậy ạ,” anh đáp.

Anh tốn thêm mười phút để xếp ụ đá mà ông Jud đưa từng hòn một cho. Sau khi hoàn thành, trên mộ Church đã có ụ đá nhỏ hình chóp, đúng là tuy mệt nhưng Louis cũng cảm thấy đôi chút hài lòng. Trông nó phù hợp khi cao chót vót cùng những thứ xung quanh trong ánh sao. Anh đoán có lẽ Ellie sẽ chẳng bao giờ thấy cảnh tượng này – nghĩ tới việc đưa con qua khu đầm lầy với cát lún đã đủ khiến Rachel bạc tóc – nhưng sau khi chiêm ngưỡng, anh cảm nhận nó rất tuyệt vời.

“Đa phần các ụ đá đều bị đổ,” anh nói với ông Jud, vừa đứng dậy vừa phủi bụi trên đầu gối. Giờ thì anh đã thấy rõ hơn, và ở vài chỗ, anh có thể nhìn ra những đống đá lổn nhổn. Nhưng ông Jud đảm bảo anh dựng ụ đá bằng chính những hòn đá lấy từ cái huyệt mà anh tự tay đào.

“Ái chà,” ông Jud bảo. “Ta nói rồi: nơi này cổ xưa mà.”

“Chúng ta xong chưa ạ?”

“Ái chà.” Ông vỗ vai Louis. “Cháu làm tốt lắm, Louis ạ. Ta biết cháu làm được mà. Mình về thôi.”

“Ông Jud..” Anh toan nói, nhưng ông Jud chỉ nhặt cuốc chim lên rồi bước thẳng xuống bậc thang. Louis cầm xẻng, phải sải chân chạy mới đuổi kịp rồi điều chỉnh nhịp thở để đi bộ. Có một lần, anh quay đầu nhìn lại, nhưng ụ đá đánh dấu ngôi mộ của mèo Winston Churchill con gái anh nuôi đã nhạt nhòa vào bóng tối, chẳng nhìn ra.

Chúng ta lại tua ngược bộ phim, một lúc lâu sau đó, Louis mệt mỏi nghĩ khi họ bước ra khỏi khu rừng và đi vào khoảng đất nhìn xuống căn nhà của anh. Anh không biết bao lâu đã trôi qua; ban chiều, khi nằm xuống chợp mắt, anh cởi đồng hồ nên giờ hẳn nó vẫn đang chễm chệ trên bệ cửa sổ cạnh giường. Anh chỉ biết người mệt lử, hết năng lượng và kiệt sức. Bao lâu nay, chưa khi nào anh đuổi thế này. Lần cuối cùng anh ra bã như vậy là ngày hè mười sáu hay mười bảy năm trước, khi anh còn là cậu học sinh trung học tham gia đội dọn dẹp rác.

Họ đi ngược trở lại con đường ban nãy, nhưng anh chỉ nhớ chút ít về cuốc đi này. Anh hụt chân khi bước qua đống cây đổ, anh nhớ là thể: chới với về phía trước và chợt nghĩ về Peter Pan – ôi Chúa ơi, mình đánh mất những suy nghĩ vui tươi rồi, giờ thì mình phải đi xuống – đúng lúc ấy, ông Jud vươn tay ra, rắn chắc và chai sần, chốc sau, họ nặng nhọc bước qua nơi Smucky, Trixie, Marta Thỏ Cưng đến con đường mòn anh từng đi cùng ông Jud và cả gia đình.

Dù đầu óc mệt mỏi, anh mơ hồ nghĩ ngợi về giấc mơ Victor Pascow, lần anh mộng du, nhưng anh không tìm được bất cứ mối liên kết nào giữa lần anh đi bộ đêm đó và đêm nay. Anh cũng nhận ra chuyến phiêu lưu vừa rồi rất nguy hiểm – không phải nguy hiểm theo kiểu cường điệu như trong tiểu thuyết của Wilkie Collins mà là nguy hiểm thực sự. Anh đã làm hai tay mình phồng rộp trong trạng thái gần như mộng du, nhưng đó chưa là gì. Ban nãy khi leo lên đống cây đổ, anh đã có thể mất mạng nếu bất cẩn. Cả anh và ông Jud. Không thể xem hành động ấy là tỉnh táo được. Sức cùng lực kiệt, anh quy chụp nguyên nhân là vì anh bối rối và đau buồn trước cái chết của chú mèo mà cả gia đình vô cùng yêu thương.

Đi mãi, đi mãi, cuối cùng họ cũng về tới nhà.

Họ bước đến căn nhà cùng nhau, chẳng ai nói gì rồi dừng ngay lối chạy xe vào nhà Louis. Gió không ngừng thét gào, rên rỉ. Louis lặng thỉnh đưa cho ông Jud cây cuốc chim.

“Ta phải về đây,” ông Jud lên tiếng. “Louella Bisson hoặc Ruthie Perks sẽ đưa bà Norma về nhà và thể nào bà ấy cũng thắc mắc khi không thấy ta cho mà xem.”

“Ông có biết mấy giờ rồi không ạ?” Louis hỏi. Anh ngạc nhiên khi bà Norma chưa về nhà; cơ bắp rã rời làm anh cứ đinh ninh hẳn đã là nửa đêm.

“Ô, có chứ,” ông Jud nói. “Ta mang theo đồng hồ suốt, khi nào không mặc đồ mới bỏ ra thôi.”

Ông lấy đồng hồ từ túi quần ra rồi gạt nắp lên.

“Tám giờ ba mươi rồi,” ông nói rồi đóng nắp.

“Tám giờ ba mươi sao?” Louis ngẩn ngơ hỏi lại. “Mới sớm vậy thôi ạ?”

“Chứ cháu tưởng mấy giờ rồi?” Ông Jud hỏi.

“Cháu nghĩ trễ hơn, Louis nói.

“Mai gặp nhé, Louis,” ông cụ nói rồi dợm bước bỏ đi.

“Ông Jud?”

Ông quay lại nhìn Louis với chút thắc mắc.

“Ông Jud, chúng ta vừa làm gì tối nay vậy?”

“Sao, chúng ta chôn chú mèo của con gái cháu.”

“Chỉ có vậy thôi sao?”

“Chỉ vậy thôi,” ông Jud nói. “Cháu là người tốt, Louis ạ, có điều cháu thắc mắc quá nhiều. Thỉnh thoảng con người phải làm những thứ xem là đúng đắn. Ý ta là đúng đắn theo con tim mình. Và nếu họ làm thế mà lại thấy không đúng, thấy băn khoăn và cảm giác không yên, nhưng không phải trong dạ mà là trong đầu, họ nghĩ mình đã làm sai. Cháu hiểu ý ta không?”

“Vâng,” Louis đáp, thầm nghĩ có khi ông Jud đọc được tâm trí anh khi hai người bọn họ đi xuống đồi, băng qua khu đất và tiến về phía ánh đèn tỏa ra từ trong nhà.

“Điều họ không nghĩ đến là có lẽ họ nên đặt câu hỏi về những cảm giác nghi ngờ kia trước khi nghi ngờ con tim mình,” ông Jud ôn tồn, nhìn anh thật lung. “Cháu nghĩ sao, Louis?”

“Cháu nghĩ” anh từ tốn lựa chọn từ ngữ, “chắc là ông nói đúng”

“Và những điều trong tim một người thì có nói ra cũng chẳng được tích sự gì, có phải không?”

“Chà...”

“Không” ông Jud tự chốt hạ như thể Louis cũng đồng tình với ông. “Chẳng được tích sự gì.” Và giọng nói điềm tĩnh của ông quyết đoán và dứt khoát vô cùng, đến độ Louis rùng mình. Đoạn ông nói tiếp: “Ấy là những điều bí mật. Người ta hay bảo phụ nữ giỏi giữ bí mật, mà ta đoán có lẽ họ cũng giữ mồm giữ miệng đấy, nhưng phụ nữ nào sõi sự đời đều sẽ nói với cháu rằng cô ta chưa bao giờ thật sự nhìn thấu được trái tim của đàn ông. Đất trong tim đàn ông cứng như sỏi đá, Louis ạ – như đất ở khu chôn cất của người Micmac xưa. Sát tầng đá gốc. Người ta trồng thứ gì có thể… rồi chăm bón nó.”

“Ông Jud…”

“Đừng thắc mắc, Louis ạ. Điều gì đã làm thì hãy chấp nhận và cứ thuận theo trái tim mình thôi.”

“Nhưng…”

“Đừng nhưng nhị gì cả. Điều gì đã làm thì hãy chấp nhận, Louis, và cứ thuận theo trái tim mình thôi. Lần này chúng ta đã làm điều đúng đắn… chí ít là vậy, ta cầu với Chúa hành động của ta là đúng. Nếu là dịp khác, biết đâu nó lại sai – sai đến không thể cứu chữa.”

“Ông có thể trả lời một câu thôi được không?”

“Chà, vậy để xem câu hỏi là gì rồi ta tính.”

“Làm thế nào ông biết đến nơi đó?” Câu hỏi này chợt hiện lên trong đầu Louis trên đường về cùng với nghi ngờ rằng bản thân ông Jud cũng có dây mơ rễ má với người Micmac – dù trông bề ngoài thì không như vậy; nhìn ông hẳn ai cũng nghĩ tổ tiên ông là dân da trắng từ gốc đến ngọn.

“Sao cháu hỏi thế, ta biết từ Stanny B.,” ông đáp đầy ngạc nhiên.

“Ông ấy kể với ông sao?”

“Không,” ông Jud nói. “Đó không phải nơi cháu có thể tùy tiện rêu rao với người khác. Ta chôn chú chó Spot của ta ở đó năm ta lên mười. Spot đuổi theo con thỏ và đạp phải dây kẽm gai gỉ sét. Vết thương nhiễm trùng nên nó mất mạng”

Anh thấy có gì đó lấn cấn, không khớp với câu chuyện mà ông cụ từng kể anh nghe, nhưng anh chẳng còn sức để phân tích xem vướng mắc ở chỗ nào. Ông Jud không nói thêm gì nữa mà chỉ nhìn anh với đôi mắt khó dò của người lão niên.

“Chúc ông ngủ ngon, ông Jud,” Louis nói.

“Chúc cháu ngủ ngon.”

Ông cụ bước qua đường, với cuốc chim và xẻng cầm trên tay.

“Cảm ơn ông!” Louis bất giác hô vang.

Bỗng dưng trong nhà, chuông điện thoại reo lên.

Louis vội chạy thật nhanh, nhăn mặt vì cơn đau nhói lên ở đùi trên và phần lưng dưới, nhưng đến lúc anh vào trong căn bếp ấm áp, điện thoại cũng đã reo sáu, bảy hồi chuông. Chuông ngừng reo đúng lúc anh đặt tay lên. Anh vẫn nhấc điện thoại và nói a lô, nhưng đầu dây bên kia chỉ phát ra tiếng tút.

Là Rachel, anh thầm nghĩ, mình phải gọi lại mới được.

Nhưng bỗng dưng anh thấy nhọc quá, nào là phải bấm số, rồi phải giả lả nói chuyện với mẹ cô – hoặc tệ hơn, với ông bố vẫy cuốn séc trước mặt anh – rồi mới được chuyển máy cho Rachel… và sau đó là Ellie. Chắc hẳn giờ này Ellie vẫn còn thức; Chicago sớm hơn một tiếng đồng hồ. Thể nào Ellie cũng hỏi anh tình hình Church ra sao.

Tuyệt lắm, nó vẫn khỏe con ạ. Nó bị chiếc xe tải Oricon tông vào. Chẳng hiểu sao bố cứ đinh ninh thủ phạm là xe tải Orinco. Chứ nếu là thứ khác thì lại thiếu vắng mạch kịch tính, con hiểu ý bố không. Con không hiểu à? Thôi bỏ qua đi. Xe tải khiến nó v?