Chương 26
Ông Jud châm thuốc bằng que diêm nhà bếp, dập lửa rồi ném nó vào chiếc gạt tàn thiếc dưới đáy sơn hình quảng cáo rượu Jim Beam đã phai màu gần hết.
“Stanley Bouchard là người đã nói với ta về khu chôn cất cổ của người Micmac,” ông lặp lại câu nói với Louis.
Họ đang ở trong bếp. Cả hai chẳng buồn động vào hai cốc bia trên bàn bếp phủ vải dầu ca rô. Đằng sau, thùng dầu hỏa gắn vào tường ùng ục kêu lên ba lần rồi lặng yên. Buổi chiều, Louis dùng bữa qua loa với Steve: bánh mì dài kẹp thịt trong tiệm Hang Gấu vắng tanh vắng ngắt. Từ dạo trước, anh đã phát hiện nếu gọi món mì kẹp, kẹp dài hoặc thịt dài ở Maine, người ta chẳng hiểu anh lảm nhảm điều gì. Nhưng chỉ cần hỏi bánh dài hoặc bánh mì Wop là nhân viên hiểu ngay. Sau khi nạp thức ăn vào người, Louis cảm thấy rõ ràng hơn về việc Church sống dậy, nhìn nhận mọi chuyện một cách lý trí hơn, nhưng anh vẫn căng thẳng khi phải trở về căn nhà tối thui, trống trải nơi con mèo có thể chui rúc ở bất kỳ chỗ nào – thật là thế.
Bà Norma ngồi với hai người bọn họ một lúc, vừa xem ti vi vừa thêu bức tranh tả cảnh mặt trời khuất dần sau hội quán nhỏ của hạt. Thập giá trên xà gồ đỉnh mái nhạt nhòa đổ bóng dưới ánh tà dương. Bà kể bà thêu nó để bán ở hội chợ nhà thờ tuần trước Giáng sinh. Sự kiện ấy lúc nào cũng hoành tráng. Ngón tay bà cứ thế thoăn thoắt đưa mũi kim qua tấm vải, kéo qua vòng sắt. Tối nay, chứng viêm khớp của bà gần như mất dạng. Louis đoán nguyên nhân có thể là thời tiết, tuy lạnh nhưng rất khô. Bà đã bình phục rất tốt sau cơn đau tim, và đêm hôm ấy, tầm mười tuần trước khi cơn đau tim thứ hai khiến bà trút hơi thở cuối cùng, anh có cảm tưởng trông bà bớt hốc hác, thậm chí còn trẻ ra. Vào đêm đó, chừng như anh nhìn thấy hình bóng thiếu nữ ngày xưa nơi bà.
Lúc mười giờ kém mười lăm, bà chúc họ ngủ ngon, và rồi chỉ còn anh ngồi lại với ông Jud chẳng nói chẳng rằng, lặng thinh đưa mắt nhìn theo khói thuốc lá bay lên không trung, như đứa trẻ nhìn cột đèn ba sọc ở tiệm cắt tóc cứ xoay, xoay mãi.
“Stanny B.,” Louis nhẹ nhàng nhắc.
Ông Jud nháy mắt như thể vừa trở về thực tại. “Ồ, ái chà,” ông nói. “Người dân ở Ludlow – ta đoán cả vùng Bucksport, Prospect và Orrington nữa – đều gọi ông ấy là Stanny B.. Năm chú chó Spot nhà ta qua đời – ý ta là năm 1910, lần đầu tiên nó chết – Stanny đã ở bên kia cái dốc cuộc đời và đầu óc nửa khùng nửa dại. Ở vùng này vẫn còn nhiều người biết về khu đất chôn cất của người Micmac, nhưng người kể cho ta nghe là Stanny B., ông ta được bố mình kể lại, và vốn dĩ bố ông ta lại nghe chuyện từ ông cụ thân sinh. Cả nhà ấy vốn là những người Canada gốc.”
Ông Jud phá lên cười rồi hớp ngụm bia.
“Ta vẫn có thể mường tượng lại giọng ông ấy bập bõm thú tiếng Anh bồi. Ông ấy thấy ta ngồi đằng sau chuồng nuôi ngựa ngày xưa tọa lạc trên Tuyến số 15 – trước đây con đường này chỉ là đường Bangor-Bucksport thôi – ngay chỗ nhà máy Orinco bây giờ. Lúc đó, Spot chưa chết nhưng cũng ngắc ngoải rồi, bố ta sai ta đi kiểm tra tình hình thức ăn cho gia cầm do nhà ông Yorky bẩn. Gia đình ta làm gì cần thức ăn cho gia cầm, giống như mấy con bò thì chẳng cần bảng đen, và ta biết lý do bố ta bảo ta đến đó.”
“Ông cụ quyết định cho chú chó ra đi sao?”
“Ông cụ biết ta thương Spot đến mức nào nên mới bảo ta đi nơi khác trong lúc ông ra tay. Ta hỏi mua thức ăn cho gia cầm, trong lúc ông Yorky lấy hàng, ta ra đằng sau ngồi lên tảng đá mài cũ ở đó và khóc như đứt ruột đứt gan.”
Ông Jud chậm rãi lắc đầu, nụ cười vương trên môi.
“Và rồi ông Stanny B. bước đến,” ông kể. “Một nửa số người trong thị trấn nghĩ ông ấy nhu nhược, nửa còn lại nghĩ ông ấy tầm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi. Ông nội ông ta là một người chuyên đánh bẫy thú và mua bán lông thú đầu thế kỷ 19. Ta nghe kể ông của ông Stanny từng lặn lội từ Maritimes xuống Bangor và Derry, nhiều khi đi tít xuống tận Skowhegan để mua da chưa thuộc nữa kìa. Ông ấy đánh chiếc xe ngựa to chất đầy những dải da sống như xe của những tay lang băm rong ruổi quảng cáo thuốc trị bách bệnh thời xưa. Ông ấy để thánh giá đầy trên xe, phần vì ông là Ki tô hữu mộ đạo có cái tật hay rao giảng về lễ Phục sinh khi ngà ngà say – đây là những điều Stanny kể với ta, ông ấy khoái kể về người ông của mình lắm – nhưng đồng thời, ông cũng dán đầy biểu tượng ngoại giáo của dân da đỏ trên xe, vì ông ấy cho rằng mọi người dân da đỏ, không cần biết thuộc bộ tộc nào, đều thuộc về một đại tộc: chi tộc Israel thất lạc được nhắc đến trong Kinh Thánh. Ông bảo ông cụ tin rằng tất cả người da đỏ đều đáng bị đày xuống địa ngục, nhưng ma thuật của họ hiệu nghiệm vì bằng một cách kỳ khôi, khốn nạn nào đấy, họ đều là Ki tô hữu.
“Ông nội của ông Stanny mua da thú từ người Micmac và giữ mối thương thảo rất tốt với họ suốt một thời gian dài sau khi những tay bẫy thú và buôn lông thú khác rửa tay gác kiếm hoặc tìm đường đi miền Tây, bởi ông ra giá đàng hoàng và vì, như Stanny kể, ông ấy thuộc nằm lòng Kinh Thánh, người Micmac thì thích nghe ông đọc kinh như những vị linh mục truyền giáo đọc cho họ nghe ngày xưa.”
Ông lặng im. Louis chờ đợi.
“Người Micmac kể với ông của Stanny B. về khu đất chôn cất họ không dùng nữa vì con quái vật Wendigo đã hủy hoại thổ nhưỡng đất, về Đầm Lầy Tiểu Thần, những bậc đá và toàn bộ phần còn lại. Thời đó, thần thoại về quái vật Wendigo là điều mà người da đỏ nào sống ở miền Bắc cũng biết. Đó là câu chuyện họ truyền tai nhau, ta nghĩ giống như chúng ta kể những câu chuyện Ki-tô giáo vậy. Bà Norma mà nghe được thể nào cũng bảo ta là kẻ báng bổ, nhưng đó là sự thật, Louis ạ. Thỉnh thoảng, nếu mùa đông kéo dài và khắc nghiệt, lương thực thiếu thốn, những người da đỏ ở mạn Bắc chỉ còn nước chết đói hoặc… hoặc túng quá làm liều thôi.”
“Ăn thịt đồng loại ư?” Louis hỏi.
Ông Jud nhún vai. “Có thể. Có thể họ chọn người già nua, ốm yếu, thế là họ cầm cự được bằng món hầm suốt một thời gian. Rồi họ bịa câu chuyện rằng con quái vật Wendigo đã mò vào ngôi làng hoặc khu lều trong lúc họ say ngủ rồi chạm vào người họ. Người ta cho rằng Wendigo chạm vào ai thì kẻ đó sẽ muốn ăn thịt đồng loại.”
Louis gật đầu. “Giải quyết điều cấm kỵ bằng cách biện hộ ma quỷ sai khiến.”
“Phải. Ta đoán vậy. Ta nghĩ người Micmac sinh sống ở khu vực này có lúc đã phải làm như thế, nên họ chôn cất hài cốt của những người họ đã ăn thịt – có thể một, hai người, hoặc có thể là mươi, mười hai người – ở khu đất ấy.”
“Và rồi họ chốt hạ rằng khu đất đã biến chất,” Louis lẩm bẩm.
“Nói tóm lại là, Stanny B. bước ra sau chuồng nuôi để lấy bình rượu,” ông Jud kể tiếp, “lúc đó chưa gì ông ta đã ngà ngà say rồi. Nghe đâu ông nội ông ta để lại gia sản trị giá cả nửa triệu đô la khi qua đời – hoặc chí ít người ta đồn đại như thế – còn Stanny B. chỉ là gã bới đồng nát khu này. Ông ta hỏi ta gặp chuyện gì vậy, thế là ta kể hết. Thấy ta khóc như mưa, ông ta bảo có cách để gỡ gạc, nhưng ta phải can đảm và chắc chắn ta muốn gỡ gạc lại chuyện này.
Ta bảo ta sẵn sàng bất chấp tất cả để Spot khỏe lại, và ta hỏi có phải ông ấy quen bác sĩ thú y nào có thể chữa cho nó hay không. “Ta chẳng biết tay thú y nào cả, Stanny đáp, song ta biết cách để chữa cho chú chó nhà cháu. Cháu về nhà bảo cụ khốt bỏ con chó vào túi thóc nhưng cấm không được chôn! Cháu hãy mang nó đến Nghĩa địa Thú cưng rồi để nó dưới bóng râm gần đống cây đổ khổng lồ kia. Sau đó cứ về nhà báo mọi chuyện đã xong xuôi.
Ta hỏi làm thế thì được gì, Stanny bèn dặn ta tối đó hãy thức đợi ông ấy ném hòn đá vào cửa sổ của ta thì ra ngoài. ‘Lúc đó sẽ là nửa đêm đấy nhé nhóc, nên nếu cháu quên mất Stanny B. này mà ngủ say thì Stanny B. ta cũng sẽ quên cháu, và khi đó xem như vĩnh biệt con chó, tiễn thẳng nó xuống địa ngục!”
Ông Jud nhìn Louis rồi chậm thêm điếu thuốc.
“Mọi chuyện diễn ra đúng như những gì Stanny dựng lên. Khi ta về, bố ta bảo ông đã bắn vào đầu Spot để nó không phải đau đớn nữa. Ta còn chưa kịp mở miệng nói gì về Nghĩa địa Thú cưng thi bố ta bảo có lẽ Spot sẽ muốn ta chôn cất nó ở đó, ta đồng ý. Thế là ta lên đường đến nghĩa địa, tay xách theo xác chú chó trong túi thóc. Bố hỏi ta cần phụ một tay không nhưng ta từ chối, vì ta nhớ lời Stanny B. dặn dò.
Đêm đó, ta nằm thao thức, thời gian tưởng chừng vô tận. Cháu biết trẻ con cảm nhận thời gian ra sao rồi đấy. Ta cứ tưởng mình đã thức đến gần sáng, thế mà đồng hồ chỉ đánh lên báo mười giờ hoặc mười một giờ. Có vài lần ta suýt nữa ngủ gật, nhưng lần nào ta cũng giật nảy mình tỉnh dậy. Gần như có người lắc ta và đánh thức Dậy đi Jud! Dậy đi! Tựa hồ có thứ muốn đảm bảo ta vẫn tỉnh táo.”
Louis nhướn mày khi nghe ông nói vậy, ông Jud chỉ nhún vai ý bảo bản thân ông cũng biết điều đó thật điên rồ.
“Khi đồng hồ trong hành lang tầng dưới báo mười hai giờ, ta ngồi bật dậy, vận sẵn quần áo, ngồi ngay ngắn trên giường trong ánh trăng rót bạc qua cửa sổ. Ta đợi mãi, đồng hồ thi đã gióng mười hai giờ rưỡi, rồi một giờ sáng, thế mà chẳng thấy Stanny B. đâu. Lão Pháp ngu xuẩn ấy đã quên bẵng mình rồi, ta thầm nhủ, ta đang tính thay quần áo thì có hai hòn sỏi đập vào cửa sổ, mạnh đến mức suýt bể kính. Một hòn sỏi làm nứt kính, nhưng đến tận sáng hôm sau ta mới phát hiện, còn mẹ ta phải qua mùa đông năm sau mới thấy, khi đó, bà đinh ninh là do sương giá. Đúng là may cho ta.
Ta vội vàng chạy đến cửa sổ rồi đẩy nó lên. Cửa nghiên ken két và cọt kẹt vào khung, khi ta là con nít và muốn ra ngoài vào lúc nửa đêm là y như rằng cửa lại kêu như bỏ rống…”
Louis phá lên cười dù khi còn là một cậu bé mười tuổi, anh không có lần nào muốn ra khỏi nhà vào đêm hôm khuya khoắt. Nhưng nếu anh muốn ra ngoài, anh dám chắc cửa sổ sẽ kêu ken két muốn điếc lỗ tai, trong khi ban ngày nó đóng mở êm ru.
Ta lo bố mẹ ta tưởng trộm vào nhà, nhưng khi trống ngực bớt đổ dồn, ta có thể nghe thấy bố ta kéo bễ trong phòng ngủ dưới tầng một. Nhìn ra ngoài, ta thấy Stanny B. đứng trong lối đi ở nhà ta, ngước lên và lắc lư như thể gió lớn đang quật tới tấp vào người, dù trời lặng chẳng chút gió máy. Ta nghĩ nếu không say quắc cần câu đến độ thao láo như cú mèo bị tiêu chảy và bất chấp mọi sự trên đời như thế, có lẽ ông ấy sẽ chẳng đến. Và ông ấy rống lên với ta — ta đoán ông ấy cứ tưởng mình đang thì thầm, ‘Có xuống không nhóc, hay đợi ta lên rước xuống?
‘Suỵt, ta nói, thon thót sợ bố ta thức giấc đập cho ta lên bờ xuống ruộng. ‘Cháu bảo gì cơ?’ Stanny nói, lần này còn to hơn lần trước. Nếu bố mẹ ta mà ngủ phía căn nhà quay ra đường, Louis, tức là chỗ ta đang đứng đấy, thì chắc ta đã tiêu đời rồi. Nhưng hai cụ lại dùng buồng ngủ mà hiện tại bà Norma và ta đang dùng, tức là quay ra sông.”
“Cháu cá chắc ông phi hết tốc lực xuống cầu thang phải không ạ?” Louis nói. “Ông còn lon bia nào không, ông Jud?” Anh đã uống quá giới hạn của mình hai lon, nhưng đêm nay là ngoại lệ. Đêm nay, đó gần như là điều bắt buộc.
“Ta còn, ta biết chỗ cất,” ông Jud nói rồi châm điếu thuốc mới. Ông đợi đến khi Louis ạn vị trên ghế trở lại. “Không, ta không dám dùng cầu thang. Cầu thang đi ngang qua phòng ngủ của bố mẹ ta. Ta trèo hàng rào thường xuân xuống, tay thoăn thoắt nhanh hết mức có thể. Nói thật với cháu, ta sợ lắm, nhưng ta nghĩ ta sợ bố ta phát hiện hơn là sợ đi lên Nghĩa địa Thú cưng cùng Stanny B..”
Ông dập điếu thuốc.
“Hai chúng ta đi lên đó, Stanny B. không chỉ ngã một lần mà dúi dụi năm, sáu lần. Có lần suýt nữa một cành cây cắm thẳng qua họng ông ấy. Nhưng ông ta vẫn xách theo cuốc chim và xẻng. Khi chúng ta đến Nghĩa địa Thú cưng, ta cứ tưởng ông ấy sẽ quẳng cho ta cái cuốc chim và xẻng rồi lăn đùng ra khò khò trong lúc ta đào hố.
“Nhưng không, ông ấy như tỉnh rượu ra tí chút. Ông ấy nói với ta nơi cả hai sắp đi, băng qua đống cây đổ và sâu vào trong rừng, ở đó có một khu chôn cất khác. Ta hết nhìn Stanny lúc ấy đang chân nam đá chân xiêu rồi lại nhìn đống cây đổ, đoạn nói, “Làm thế nào mà trèo được, ông Stanny B., mình gãy cổ cho xem.
Ông ấy đáp, ‘Còn lâu ta mới gãy cổ, và cháu cũng vậy. Ta đi được, còn cháu xách con chó theo. Ông ấy nói đúng. Ông ấy lướt qua đống cây đổ ấy đủng đỉnh như lụa, thậm chí còn chẳng cần nhìn xuống dưới, còn ta xách Spot đi hết quãng đường, dù ta nhớ chú chó phải nặng đến mười sáu cân, trong khi đó ta lúc đó chỉ bốn mươi cân. Nhưng ta cũng muốn bảo với cháu, Louis ạ, hôm sau ta ê ẩm và đau nhức hết cả người. Còn cháu thì sao? Hôm nay cháu thấy thế nào?”
Louis chẳng trả lời mà chỉ gật đầu. Bia đang ngấm và anh thấy mừng vì điều đó.
“Chúng ta cứ đi,” ông Jud kể tiếp. “Ta có cảm giác như thể chúng ta sẽ đi mãi mãi. Ngày xưa khu rừng ma mị hơn nhiều. Chẳng biết giống chim gì cứ réo rắt trên cành cây. Động vật loạt soạt di chuyển xung quanh. Ta cứ thế kéo Spot. Sau hồi lâu, một suy nghĩ manh nha trong đầu ta rằng ông Stanny B. đã biến mất, còn kẻ mà ta đang đi theo là người da đỏ, và chẳng mấy chốc nữa, hắn ta quay phắt lại, nhe nhởn cười, đôi mắt đen thăm thẳm, mặt bôi thứ sơn hội hám làm từ mỡ gấu, trên tay cầm cây rìu làm từ phiến đá nhọn hoắt và cán gỗ tần bì cột bằng da sống, hắn sẽ chộp lấy gáy của ta rồi phạt hết tóc — phạt luôn đỉnh hộp sọ của ta. Stanny không lảo đảo hay loạng choạng ngã nữa, ông bước thoăn thoắt và thong dong, ngẩng cao đầu, điều đó lại càng khiến ý tưởng ấy bén rễ trong ta. Nhưng khi chúng ta đi đến rìa Đầm Tiểu Thần, ông quay lại nói chuyện với ta, và ta thấy đó vẫn là Stanny, thật vậy, lý do ông ấy không lảo đảo hay ngã dúi dụi là vì ông ấy đang sợ. Ông ấy sợ đến tỉnh cả rượu.
“Ông ấy kể với ta những gì ta nói với cháu đêm qua, về những kẻ du thủ du thực, về ngọn lửa Thánh Elmo, bảo ta đừng chú ý đến những gì ta thấy hay nghe. Hơn hết, ông ấy dặn ta đừng đáp lại nếu có tiếng nói cất lên với mình. Rồi hai chúng ta bắt đầu băng qua đầm lầy. Đúng là ta đã thấy vài thứ. Ta sẽ không nói với cháu thứ đó là gì, ta chỉ muốn cho cháu biết từ lúc ta lên mười, ta đã lên đấy chừng năm lần và chưa trông thấy nó thêm lần nào nữa. Sau này cũng vậy, Louis ạ, vì chuyến đi lên khu chôn cất người Micmac đêm qua sẽ là chuyển đi cuối cùng của ta.”
Mình không ngồi đực mặt ra đây và tin những điều này đấy chứ? Louis tự nhủ như đang trò chuyện với chính bản thân mình – ba lon bia khiến ngôn từ trôi chảy hơn, chí ít là những gì văng vẳng trong đầu anh. Mình không ngồi đây và tin câu chuyện về mấy ông người Pháp và khu chôn cất của người da đỏ, về con quái vật Wendigo cùng những con thú từ cõi chết sống dậy đấy chứ. Vì Chúa, con mèo bất tỉnh, thế thôi, xe từng khiến nó hôn mê, chủ chẳng có gì to tát. Ông cụ này lần thần nên nói quàng nói riêng.
Có điều lời ông nói chẳng phải quảng xiêng, Louis biết rõ điều đó, ba lon bia không thể nào khắc phục cái “biết” ấy, ba mươi ba lon cũng vậy thôi.
Church đã chết, đó là một điều; giờ nó đã sống lại, đó là điều khác; và có một thứ gì đó khác từ trong cội rễ, sai từ trong căn cơ ở con mèo ấy, đó là điều thứ ba. Có chuyện đã xảy ra. Ông Jud nghĩ mình mang ơn nên mới trả cho anh… nhưng thứ thuốc ở khu đất chôn cất của người Micmac xem chừng không phải thuốc tốt cho lắm, và thứ hiện ẩn chứa trong ánh mắt ông Jud nói cho anh rằng ông cụ biết điều đó. Louis nghĩ về thứ anh đã thấy – hoặc tưởng rằng mình thấy – trong mặt ông Jud đêm hôm trước. Cái vẻ vui tươi, rộn ràng ấy. Anh nhớ mình đã nghĩ ông Jud không tự đưa ra quyết định dẫn Louis và xác con mèo của Ellic lên hành trình đêm ấy mà còn thế lực khác.
Nhưng nếu không phải ông cụ thì là ai? Tâm trí anh hỏi. Và vì chẳng có câu trả lời, Louis gạt phăng câu hỏi khiến anh chộn rộn ấy đi.
“Ta tiến hành chôn Spot rồi dựng ụ đá,” ông Jud nói tiếp, giọng bình thản, “đến lúc ta làm xong, Stanny B. đã say sưa ngủ. Ta phải lắc lầy lắc để ông ta tỉnh dậy đi tiếp, thế mà lúc hai chúng ta bước xuống bốn mươi bốn bậc thang.”
“Bốn mươi lăm,” Louis lẩm bẩm.
Ông Jud gật đầu. “Phải, ta nhầm mất nhỉ? Bốn mươi lăm bậc. Lúc hai chúng ta bước xuống bốn mươi lăm bậc thang, ông ấy bước đi vững vàng như thể đã tỉnh rượu. Chúng ta lội qua đầm lầy, khu rừng, trèo qua đống cây đổ, rồi cuối cùng, chúng ta băng qua đường về đến nhà ta. Ta cứ tưởng đã mười tiếng trôi qua, thế mà trời vẫn còn tối đen như mực.
“Giờ thế nào ạ?’ Ta hỏi Stanny B. ‘Giờ thì cháu đợi xem có chuyện gì xảy ra,’ Stanny đáp rồi bỏ đi, chân nam đá chân chiêu. Ta nghĩ đêm đó, ông ấy ngủ đằng sau chuồng nuôi, và đời lắm chữ ngờ, chú chó Spot nhà ta sống lâu hơn Stanny B. hai năm. Gan ông ta xuống cấp, hủy hoại cơ thể, rốt cuộc vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1912, hai đứa nhóc phát hiện xác ông ta đằng sau chuồng nuôi, khi đó thi thể đã cứng đơ như gỗ.
Còn ta, đêm đó, ta trèo rào thường xuân, chui vào giường và chìm vào giấc ngủ ngay khi đầu vừa chạm gối.
Sáng hôm sau, mãi gần đến chín giờ sáng ta mới tỉnh giấc, lúc đó mẹ gọi ta dậy. Bố ta làm việc ngoài đường ray nên đã ra khỏi nhà từ sáu giờ.” Ông Jud khựng lại trầm ngâm. “Mẹ ta không gọi ta dậy, Louis ạ. Nói đúng hơn là bà ấy gào thét ầm ĩ.”
Ông Jud đi đến tủ lạnh, lấy một chai Miller, dùng tay cầm ngăn kéo dưới hộp đựng bánh mì và máy nướng bánh để khui. Dưới ánh đèn, mặt ông vàng vọt như thứ màu của nicotine. Ông uống ừng ực nửa lon, ợ một tiếng như súng máy rồi liếc về phía hành lang, căn phòng nơi bà Norma đang ngủ. Đoạn ông quay sang nhìn Louis.
“Thật sự với ta, nói về chuyện này rất khó,” ông bộc bạch. “Suốt bao năm qua, nó trở đi trở lại trong tâm trí, song ta chẳng kể với bất cứ ai. Những người khác cũng biết chuyện xảy ra, nhưng tuyệt nhiên không đả động gì. Giống như người ta ngại nhắc về chuyện giường chiếu, ta nghĩ vậy. Giờ ta kể với cháu, Louis ạ, vì cháu đã có một con thú cưng khác. Không hẳn là nguy hiểm, nhưng… khác biệt. Cháu có thấy điều đó không?”
Louis nghĩ lại cảnh tượng Church vụng về nhảy xuống bệ xí, hai chân sau đập vào bồn tắm; anh nghĩ đến đôi mắt mờ đục nhìn chằm chằm trì độn nhưng không hẳn ngu ngốc.
Rốt cuộc anh cũng gật đầu.
“Khi ta xuống tầng dưới, mẹ ta co rúm vào góc giữa thùng đựng đá và quầy bếp. Có một đống trắng bùng nhùng trên sàn – bà đang treo dở tấm rèm. Đứng ngay ngoài cửa bếp là Spot, chú chó của ta. Người ngợm nó toàn đất cát, bùn đất dính đầy trên chân. Mảng lông bụng dơ dáy bẩn thỉu, vón cục và rối bù. Nó cứ đứng yên ở đó – chẳng sủa hay ăng ẳng gì – chỉ đứng đó, nhưng rõ ràng là nó đã dồn mẹ ta vào một góc, dù nó vô tình hay cố ý. Mẹ ta hoảng lắm, Louis ạ. Ta không biết cháu có thân với hai cụ thân sinh không, nhưng ta thì biết rõ một điều: ta hết mực thương yêu bố mẹ ta. Vậy nên khi ta nhận ra mình đã làm một việc khiến mẹ kinh hãi, niềm vui dâng lên lúc ta trông thấy Spot đứng đó chợt bốc hơi. Thậm chí ta còn chẳng thấy bất ngờ khi chú chó ở đó.”
“Cháu hiểu cảm giác ấy” Louis nói. “Sáng nay, khi trông thấy Church, cháu… chừng như đó là một điều…” Anh thoáng lừng khừng. Hết sức tự nhiên? Đó là những từ hiện lên trong tâm trí anh, nhưng những từ này không chính xác. “… Là một điều phải xảy ra.”
“Đúng,” ông Jud đáp. Ông lại châm thêm một điếu thuốc lá. Tay ông khẽ run. “Mẹ trông thấy ta tồng ngồng trong chiếc quần đùi, bèn hét lên với ta, ‘Cho chó của con ăn đi Jud, nó đói rồi kìa, đưa nó ra khỏi đây kẻo nó phá rèm bây giờ!
“Thế là ta bèn lấy chút đồ ăn thừa rồi gọi nó lại, nhưng ban đầu nó không tới, chừng như ban đầu nó không biết tên mình là gì, và suýt chút nữa ta đã nghĩ, ‘Chà, đây chẳng phải Spot, chỉ là một con chó đi lạc trông giống Spot mà thôi…””
“Đúng lắm!” Louis đột ngột thốt lên, đến độ anh tự giật mình.
Ông Jud gật đầu. “Nhưng lần thứ hai, thứ ba ta gọi thì nó bước đến. Nó đi giật cục về phía ta, và lúc ta dẫn nó ra hiên, nó tông đánh rầm vào một bên cửa suýt ngã lăn quay. Được cái nó cũng ăn; ăn lấy ăn để là đằng khác. Khi ấy, ta đã vượt qua nỗi sợ hãi đầu tiên và lờ mờ nắm được chuyện xảy ra. Quỳ gối, ta ôm chầm lấy nó, gặp lại Spot ta vui quá. Chỉ có đúng một giây ta thấy sợ khi ôm nó, và ta nghĩ nó đã gầm gừ thì phải, nhưng có lẽ đây chỉ là tưởng tượng mà thôi. Chỉ đúng một giây. Rồi nó liếm mặt ta, và…”
Ông Jud rùng mình uống nốt phần bia còn lại.
“Louis, lưỡi nó lạnh ngắt. Cảm giác khi Spot liếm chẳng khác nào lấy xác con cá chép chà lên mặt.”
Hai người bọn họ im lặng hồi lâu, đoạn Louis lên tiếng, “Ông kể tiếp đi.”
“Đợi đến lúc nó ăn xong, ta lôi chậu tắm mà gia đình ta dùng cho nó từ dưới hiên sau nhà rồi tắm táp cho Spot sạch sẽ. Spot chúa ghét tắm rửa, thường thì cả bố và ta phải cùng làm mới được, lần nào tắm xong cho nó, hai bố con đều phải cởi áo, quần thì ướt sũng, bố ta chửi ầm lên trong khi Spot nhìn có vẻ xấu hổ, đúng kiểu của mấy chú chó. Vừa tắm xong, thể nào nó cũng lăn lộn trong đất cát rồi chạy vào dây phơi đồ của mẹ ta rồi lắc nguầy nguậy, khiến đất cát dính đẩy lên những tấm trải giường mẹ treo, và y như rằng mẹ ta sẽ hét ầm lên với hai bố con, rằng bà sẽ tống nó cho người khác trước khi bà già hơn.
Nhưng hôm ấy, Spot chỉ ngồi yên trong chậu để ta tắm cho nó. Nó chẳng cục cựa gì. Ta không thích thế chút nào. Như thể… như thể đang rửa cục thịt vậy. Sau khi tắm xong, ta lấy khăn tắm cũ lau khô cho nó. Ta có thể thấy những chỗ dây kẽm gai móc vào thịt nó – những vị trí đó bị tróc hết lông, thịt lún vào. Giống như vết thương cũ đã lành chừng năm năm hoặc hơn, không biết cháu đã từng nhìn thấy chưa.
Louis gật đầu. Trong quá trình làm việc, thỉnh thoảng anh cũng thấy những vết thương như thế. Dù thời gian trôi qua, vết thương cũng không đầy lại, nó gợi cho anh nhớ đến những ngôi mộ và cái thời anh phụ việc tổ chức tang lễ, rằng chẳng bao giờ đủ đất để lấp đầy nó.
“Rồi ta thấy đầu của nó. Có một lỗ trũng, nhưng lông đã mọc lại thành hình tròn màu trắng con con. Nó nằm gần tai.”
“Đó là chỗ bố ông đã bắn nó,” Louis nói.
Ông Jud gật đầu và nói, “Phải.”
“Bắn vào đầu một người hay một con vật không phải cách chắc chắn kết liễu được mạng sống đâu, ông Jud ạ. Vì không biết viên đạn có thể bắn vào bề mặt hộp sọ rồi vòng qua sọ theo hình bán nguyệt, sượt ra phía bên kia mà không xuyên qua não, nhiều người đã tự sát không thành và phải sống kiếp thực vật, cấp thức ăn thông qua ống hoặc bị đạn bắn mà vẫn phăm phăm đi lại, chăng sứt mẻ gì. Bản thân cháu đã từng gặp một trường hợp tự bắn vào đầu ngay trên tai phải, thiệt mạng vì viên đạn vòng qua đầu rồi phả nát tĩnh mạch cảnh ở phía bên kia đầu… ngay cổ. Đường đi của viên đạn trông chẳng khác nào bản đồ đường của hạt.”
Ông Jud mỉm cười gật đầu. “Ta nhớ cũng có lần ta đọc được trường hợp tương tự trong một tờ báo của bà Norma mang tên Star hay Enquirer thì phải. Nhưng nếu bố ta bảo Spot đã chết thì nó chắc chắn đã toi đời, Louis ạ.”
“Dạ vâng,” Louis đáp.
“Chú mèo của con gái cháu có chết không?”
“Cháu nghĩ nó đã chết rồi,” Louis nói.
“Cháu phải khá hơn thế chứ. Cháu là bác sĩ mà.”
“Nghe ông nói chẳng khác nào bảo ‘Cháu phải khá hơn thế chứ, Louis, cháu là thánh thần mà. Cháu không phải thánh thần gì. Lúc đó trời tối thui…”
“Phải, trời tối thui, và đầu nó xoay trên cổ như thể chứa đầy vòng bi, khi cháu nhấc con mèo lên, người nó dính vào băng tuyết, Louis ạ – tiếng động phát ra y như gỡ băng keo khỏi lá thư. Sinh vật sống không như vậy. Chỉ khi nào chết, ta mới không khiến lớp băng dưới chỗ ta nằm tan chảy.”
Đồng hồ điểm mười giờ ba mươi trong một căn phòng khác.
“Bố của ông nói gì khi về nhà và thấy chú chó?” Louis tò mò.
“Lúc đó ta đang ở ngoài lối xe chạy bắn bi trên nền đất, sốt ruột đợi bố ta về. Cảm giác trong lòng ta lúc ấy giống y những lần ta phạm lỗi sai và biết sắp sửa bị ăn đòn. Tầm tám giờ, bố ta bước qua trụ cổng, trên người mặc bộ đồ lao động liền thân và đội mũ sọc… cháu đã từng trông thấy bộ đồ như thế chưa?”
Louis gật đầu, đưa mu bàn tay lên che cái ngáp.
“Chà, khuya rồi,” ông Jud nói. “Để ta kể cho xong”
“Cũng chưa khuya lắm đâu,” Louis nói. “Cháu uống hơi nhiều bia so với tửu lượng thôi. Ông cứ kể đi, ông Jud. Cứ từ từ ạ. Cháu muốn nghe mà.”
“Bố ta có cái cà mèng cũ đựng bữa tối,” ông Jud kể, “lúc bước qua cổng, ông giữ tay cầm, vung vẩy cà mèng, miệng huýt sáo khe khẽ. Trời nhập nhoạng tối nhưng bố vẫn trông thấy ta, ông bèn lên tiếng, ‘Chào con, Judkins!’ như mọi ngày và ông hỏi, ‘Mẹ con…
Ông chưa kịp thốt ra hết câu thì Spot bước ra từ màn đêm, không chạy huỳnh huỵch như ngày trước, sẵn sàng nhảy bổ lên người bố ta vì mừng rỡ khi được gặp chủ, mà chỉ đi từ từ, vẫy đuôi, bố ta đánh rơi cà mèng và lùi lại. Ta không biết ông có định quay đầu bỏ chạy hay không, nhưng lưng của ông đập vào bờ rào bằng cọc, thế rồi ông cứ đứng đó nhìn con chó. Và khi Spot nhảy lên, bố ta chộp lấy chân của nó, như thể ta nắm tay quý cô khi chuẩn bị khiêu vũ cùng nhau. Ông nhìn con chó suốt một lúc lâu rồi quay sang nhìn ta, đoạn ông bảo, ‘Cho nó đi tắm đi, Jud. Nó hôi mùi đất chỗ con chôn xác. Dứt lời, ông đi thẳng vào nhà.”
“Vậy ông làm gì?” Louis hỏi.
“Ta tắm cho nó lần nữa. Nó ngoan ngoãn ngồi trong chậu. Và khi ta vào nhà, mẹ ta đã vào giường dù vẫn chưa đến chín giờ. Bố ta ôn tồn, ‘Chúng ta phải nói chuyện, Judkins.’ Vậy là ta ngồi đối diện bố, lần đầu tiên trong đời, ông trao đổi với ta như một người đàn ông, khi trong nhà thoang thoảng mùi hương của cây kim ngân từ bên kia đường, chỗ nhà cháu hiện tại và mùi hoa hồng dại ngoài vườn nhà ta. Ông Jud Crandall thở dài. “Trước đó ta luôn tưởng được bố nói chuyện như một người đàn ông là điều rất tuyệt vời, song ta đã nhầm. Không hề tuyệt chút nào. Tất cả những điều ta kể đêm nay, Louis ạ – nó tương tự như khi ta nhìn vào chiếc gương được đặt sát tấm gương khác, và cháu có thể trông thấy hình ảnh của cháu phản chiếu xuống hành lang đầy gương. Ta tự hỏi câu chuyện này đã được truyền qua bao đời rồi nhỉ? Một câu chuyện bình mới rượu cũ, chỉ có những cái tên là khác? Giống như tình dục, người ta biết nhưng chẳng ai nhắc?”
“Bố của ông biết mọi chuyện rồi ư?”
“Phải. ‘Ai đưa con lên đó, Jud?’ Bố hỏi nên ta kể lại. Ông chỉ gật gù như thể lường được trước tất cả. Ta đoán có lẽ là thể thật, dù về sau ta phát hiện vào thời điểm đó, có khoảng sáu hoặc tám người ở Ludlow có thể đưa ta đến khu đất ấy. Nhưng ta nghĩ bố ta biết chỉ kẻ loạn óc như Stanny B. mới đem chuyện đó kể với ta.”
“Ông có hỏi tại sao bố ông không đưa ông đến đó không, ông Jud?”
“Có,” ông Jud đáp. “Trong cuộc nói chuyện dài ấy, ta có hỏi. Bố ta bảo nơi đó hết sức tệ hại, và thường thì nó chẳng giúp ích được gì cho những khổ chủ vừa mất đi thú cưng hoặc cho chính những con vật ấy. Ông ấy hỏi liệu ta có thích Spot như bây giờ không, và cháu biết không, Louis, ta chật vật mãi chẳng trả lời được câu hỏi ấy… và quan trọng là ta phải nói rõ với cháu cảm nhận của ta về điều này, bởi không sớm thì muộn, rồi cháu sẽ hỏi tại sao ta dẫn cháu lên đó, mang theo xác chú mèo của con gái cháu nếu đó là điều không nên làm, đúng không?”
Louis gật đầu. Ellie sẽ nghĩ gì về Church khi con bé trở về? Điều đó cứ day dứt trong đầu anh suốt buổi chiều hôm ấy, khi anh và Steve Masterton chơi bóng racquet.
“Có lẽ ta làm vậy vì trẻ con cần biết đôi khi cái chết lại tốt hơn, ông Jud khó nhọc nói. “Đó là điều mà cô bé Ellie nhà cháu chưa hiểu, và ta có cảm giác con bé chưa hiểu vì vợ cháu chưa hiểu. Giờ thì cháu cứ thẳng thắn, nếu ta sai thì cứ nói, chúng ta sẽ dừng chủ đề này lại!”
Louis toan mở miệng rồi lại thôi.
Ông Jud nói tiếp, hết sức từ tốn, như thể ông đang nhẩn nha đi qua từng từ một, giống như họ đã di chuyển từ gò đất này sang gò đất khác trong Đầm Tiểu Thần đêm qua.
“Bao năm qua, ta đã nhiều lần chứng kiến việc này xảy ra,” ông ôn tồn. “Hình như ta kể cho cháu nghe Lester Morgan chôn con bò thượng hạng ở đó rồi đúng không. Một con bò giống Black Angus mang tên Hanratty. Cái tên cho bò rõ ngớ ngẩn nhỉ? Nó chết vì bị viêm loét gì đó trong người và Lester đã kéo nó lên tận đó bằng xe kéo. Ta không rõ ông ta làm thế bằng cách nào – hay trèo qua được đống cây đổ ra sao, nhưng người ta hay nói có chí thì nên đấy thôi. Ít nhất là đúng ở khu chôn cất ấy.
Chà, Hanratty đã sống dậy, nhưng hai tuần sau, Lester bắn chết nó. Con bò ấy như thành tinh. Nhưng nó là con vật duy nhất ta nghe nói gặp tình trạng này. Đa phần chúng chỉ… hơi ngu si… hơi chậm chạp… hơi…”
“Hơi thuộc về cõi âm?”
“Phải,” ông Jud nói. “Hơi cõi âm. Hơi kỳ lạ. Như thể chúng đã ở… đâu đó… rồi quay lại… nhưng không hoàn toàn. Con gái cháu sẽ không biết chuyện đó, Louis ạ. Nó không tin con mèo bị xe tông chết rồi sống dậy. Vì vậy có thể nói ta không thể dạy đứa trẻ bài học trừ khi đứa trẻ biết có thứ phải học. Trừ khi…”
“Trừ khi đôi lúc ta có thể,” Louis nói, tự nhủ với bản thân nhiều hơn là đáp lại ông Jud.
“Phải,” ông Jud đồng ý. “Thỉnh thoảng ta có thể. Con bé sẽ phát hiện có sự sai lệch và rằng ngày xưa, Church tuyệt hơn bây giờ. Có thể rồi cô bé sẽ ngộ ra được đôi phần về bản chất của cái chết, là nơi đau đớn dừng lại và kỷ niệm đẹp bắt đầu. Không phải cáo chung của sự sống mà là cáo chung của đớn đau. Cháu không giải thích cho bé những điều đó được; bản thân nó sẽ tự ngộ ra.
Và nếu giống ta, cô bé sẽ tiếp tục yêu thương thú cưng của mình. Nó sẽ không trở nên hung dữ hay cắn phá gì cả. Cô bé sẽ tiếp tục yêu thương nó… nhưng rồi cô bé sẽ rút ra kết luận cho bản thân… và cô bé sẽ thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng, nó cũng thực sự chết.”
“Đó là lý do ông đưa cháu lên đó,” Louis nói. Anh cảm thấy tốt hơn rồi. Anh đã có lời giải thích. Nó có hơi lan man, dựa vào lý lẽ của các đầu mút thần kinh hơn là lý lẽ của lý trí, nhưng dưới tình hình này, anh nhận ra anh có thể chấp nhận nó. Và điều đó nghĩa là anh có thể quên nét biểu cảm anh tưởng mình đã thoáng trông thấy trên mặt ông Jud tối qua – niềm vui sướng đen tối ấy. “Dạ rồi, vậy..
Bất thình lình, gần như khiến anh phát hoảng, ông Jud đưa hai tay lên bưng mặt. Trong một khắc, Louis còn tưởng ông bất ngờ lên cơn đau, nên anh dợm đứng dậy lo lắng, nhưng rồi thấy ngực ông phập phồng mãnh liệt, anh nhận ra ông cụ đang chật vật kìm nước mắt.
“Đó là lý do nhưng cũng chẳng phải,” ông nói bằng giọng nghẹn ngào, đè nén. “Ta làm vậy với lý do giống như Stanny B., và lý do giống như Lester Morgan. Lester đưa Linda Lavesque lên đó sau khi con chó của bà ấy bị xe cán trên đường. Ông ấy vẫn đưa bà ấy lên đó dù chính tay ông đã phải giải phóng con bò chết toi của mình khỏi chuỗi khổ sở vì nó cứ rượt đuổi con nít trên cánh đồng như lên cơn điên. Thế mà ông ấy vẫn làm, thế mà ông ấy vẫn làm đấy, Louis ạ,” ông Jud gần như rên rỉ, “và ta biết giải thích thế nào về điều khốn nạn ấy?”
“Ông Jud, ông đang nói gì vậy?” Louis thảng thốt.
“Lý do Lester và Stanny hành động như vậy cũng giống với lý do ta hành động. Chúng ta làm điều đó vì nó chi phối chúng ta. Chúng ta làm vậy vì nơi chôn cất ấy là một nơi bí mật, ta muốn san sẻ bí mật, chỉ cần tìm được một lý do có vẻ đủ tốt, thế là…” ông Jud buông tay khỏi mặt rồi nhìn thẳng vào Louis với đôi mắt trải bao thăng trầm, phờ phạc đến không tưởng. “Thế là ta cứ vậy mà làm thôi. Ta bịa ra lý do… tưởng chừng lý do ấy là tốt… nhưng đa phần ta làm vậy vì ta muốn. Hoặc vì ta phải làm thế. Bố ta không đưa ta lên đó vì ông đã từng nghe về nó nhưng chưa bao giờ đích thân đến đấy. Còn Stanny B. thì đã đến đó rồi… nên mới dẫn ta đi… và bảy mươi năm trôi qua… bất chợt mọi thứ đổ dồn…”
Ông Jud lắc đầu, húng hắng ho khan vào lòng bàn tay.
“Cháu nghe này,” ông nói. “Cháu nghe này, Louis. Con bò của Lester là con vật duy nhất ta biết đã phát cuồng. Hình như con chó nhỏ của bà Lavesque cũng cắn ông giao thư một lần, và ta cũng có nghe thêm vài chuyện… những con vật ấy hư hơn… nhưng Spot lúc nào cũng ngoan. Nó lúc nào cũng có mùi đất dù tắm rửa bao lần, nó lúc nào cũng có mùi đất nhưng nó ngoan lắm. Về sau đó, mẹ ta chẳng lần nào chạm vào nó nữa, nhưng nó vẫn là một con chó ngoan. Tuy nhiên, Louis, nếu đêm này cháu định mang con mèo ra ngoài và giết chết nó, ta cũng sẽ chẳng nói gì.
Nơi đó… bất thình lình nó chi phối ta… và ta sẽ tự huyễn hoặc bằng lý do thơm tho nhất trần đời… nhưng cũng có thể là ta sai, Louis ạ. Tất cả những điều ta muốn nói chỉ có vậy. Lester cũng có thể đã sai. Stanny B. cũng có thể đã sai. Khốn thật, bản thân ta cũng chẳng phải Chúa. Nhưng đưa kẻ đã chết sống dậy… điều đó cũng gần sát với việc giả vờ làm Chúa rồi đấy chứ?”
Louis hấp háy miệng rồi đóng lại. Bởi điều anh toan thốt lên sao thật sai trái, sai trái và độc ác: Ông Jud, cháu không trải qua từng đó chuyện để rồi lại phải xuống tay giết con mèo chết toi ấy.
Ông Jud uống cạn bia rồi cẩn trọng đặt chúng bên cạnh những lon bia rỗng. “Ta nghĩ hết rồi đấy,” ông nói. “Ta nói xong rồi.”
“Cháu có thể hỏi ông thêm một câu không?” Louis hỏi.
“Chắc là có,” ông đáp.
Louis bèn cất tiếng: “Đã có ai chôn con người ở đó chưa ạ?”
Tay ông Jud co giật mạnh, hất đổ hai chai bia khỏi bàn, một trong số đó vỡ tan.
“Lạy Chúa trên ngai Ngài,” ông thảng thốt nói với Louis. “ Không! Ai lại làm trò đó kia chứ? Thậm chí đó cũng chẳng phải chuyện nên nói ra miệng nữa kìa, Louis!”
“Cháu tò mò ấy mà,” Louis ngột ngạt phân bua.
“Có những thứ tò mò chỉ tổ rước họa vào thân,” ông Jud Crandall nói, và trong mắt Louis Creed, lần đầu tiên anh thấy ông trông thật già và hom hem; đứng gần cái mồ ông mới đào tức thì.
Và sau đó, khi đã về nhà, anh chợt nhận ra thêm một điều về vẻ mặt của ông Jud lúc đó.
Trông ông như thể đang nói dối.