Chương 32
Bà đi không phải là do đau tim mà là do tắc mạch máu não bất ngờ và có lẽ là không đau đớn. Chiều hôm đó, khi Louis gọi điện cho Steve Masterton để báo tình hình, Steve trấn an bảo cứ để anh ấy lo công việc trên trường.
“Thỉnh thoảng Chúa trời trêu ngươi chúng ta,” Steve nói, “và thỉnh thoảng Người chĩa thẳng mặt bảo ta về chầu trời.”
Rachel không muốn đả động đến việc này, cũng không cho phép Louis bàn với cô.
Ellie không quá đau buồn mà thay vào đó, cô bé bị sốc và cảm thấy hứng thú – Louis thấy đó là phản ứng một đứa bé năm tuổi khỏe mạnh, bình thường. Cô bé muốn biết bà Crandall qua đời mở mắt hay nhắm mắt. Louis nói anh không rõ.
Không có gì lạ khi ông Jud chịu đả kích lớn, bởi suy cho cùng, bà là người bạn đời đầu gối tay ấp với ông suốt gần sáu mươi năm trời. Louis thấy ông cụ — và vào ngày hôm ấy, trông ông hao mòn đúng nghĩa một cụ già 84 tuổi – cô độc ngồi ở bàn bếp, hút một điếu Chesterfield, uống một chai bia, đôi mắt hờ hững nhìn vào phòng khách.
Khi Louis bước vào, ông ngước lên và nói, “Chà, bà ấy đi rồi, Louis ạ.” Lời ông thốt lên mạch lạc, trần trụi đến độ Louis cảm thấy thật ra thông tin ấy chưa ngắt toàn bộ mạch – tâm trí ông thấm thía độ sát thương của thông tin ấy. Đoạn miệng ông Jud mấp máy, đưa một tay lên che mắt. Louis bước đến chỗ ông cụ, vòng tay quanh người ông, để rồi ông ngả vào anh, nước mắt tuôn rơi. Đấy, nó đã ngắt hết các mạch rồi. Ông Jud hiểu rất rõ vợ ông đã qua đời.
“Tốt lắm,” Louis vỗ về. “Tốt lắm, ông Jud, cháu nghĩ bà sẽ muốn ông rơi lệ. Có khi bà sẽ giận nếu ông không khóc ấy chứ.” Bản thân anh cũng rơm rớm. Ông Jud siết chặt anh trong vòng tay, và Louis đáp lại cái ôm ấy.
Ông Jud cứ thế giàn giụa trong mười phút, và rồi cơn bão cũng qua đi. Louis chăm chú lắng nghe những gì ông cụ nói — anh nghe với tư cách một bác sĩ, đồng thời là một bằng hữu. Anh nghe xem ông cụ có bị lẩn thẩn trong lời nói hay không; anh nghe xem ông Jud có nắm được rõ thời gian hay không (không cần phải hỏi ông về địa điểm; đằng nào cũng chẳng nghĩa lý gì, vì với ông Jud Crandall, địa điểm luôn là ở Ludlow, Maine); và trên tất cả, anh lắng tai nghe xem có lần nào ông nhắc đến tên bà Norma mà dùng thì hiện tại không. Sau một hồi, anh nhận thấy tinh thần của ông Jud vẫn còn minh mẫn. Louis biết nhiều trường hợp các cặp vợ chồng già sẽ theo người bạn đời của mình về miền cực lạc, có khi chỉ sau một tháng, một tuần hoặc thậm chí một hôm. Anh đoán nguyên nhân là do cú đả kích quá lớn, hay đâu đó sâu trong lòng họ trỗi dậy thôi thúc muốn đuổi theo người kia (trước khi xảy ra biến cố với Church, anh chẳng bao giờ nghĩ như thế; anh nhận thấy nhiều suy nghĩ của anh về phương diện tâm linh và siêu nhiên đã âm thầm trải qua quá trình biến đổi gốc rễ). Kết luận mà anh đưa ra là ông Jud đang đau lòng trước mất mát, nhưng chí ít hiện tại, ông vẫn trụ vững. Ở ông, anh không cảm nhận được sự mong manh gần đất xa trời như bà Norma vào đêm giao thừa, lúc bốn người bọn họ ngồi trong phòng khách nhà Creed uống cocktail trứng sữa.
Ông Jud lấy bia cho anh từ trong tủ lạnh, mặt ông vẫn đỏ ửng và sưng lên vì khóc.
“Thế này hơi sớm,” ông lên tiếng, “nhưng đâu đó trên quả đất, đã đến lúc làm một chai rồi, và tùy trường hợp mà…”
“Ông nói vậy được rồi,” Louis ôn tồn rồi khui bia. Đoạn anh nhìn ông Jud. “Mình uống vì bà chứ ạ?”
“Ta nghĩ nên làm thế,” ông Jud nói. “Cháu mà gặp bà ấy lúc còn là thiếu nữ mười sáu trăng tròn, đi nhà thờ về, áo khoác không cài nút, bên trong là chiếc áo trắng tinh tươm… thể nào cháu cũng ngẩn ngơ say đắm. Nếu muốn, bà ấy còn có thể quyến rũ được ác quỷ bỏ rượu ấy chứ. Tạ ơn Chúa, may mà bà ấy không bắt ta làm thế.”
Louis gật đầu, khẽ nâng chai bia. “Vì bà Norma,” anh nói.
Ông Jud cụng chai với anh. Nước mắt lại một lần nữa ứa ra từ mắt ông, nhưng nụ cười heo hắt cũng hiện lên trên khuôn mặt. Ông gật đầu. “Mong bà ấy yên nghỉ nơi suối vàng và không bị chứng viêm cơ hành hạ nữa.”
“Amen,” Louis nói, đoạn cả hai nhấp ngụm bia.
Đó là lần duy nhất Louis thấy ông Jud ngà ngà say, dẫu vậy, ông không để bản thân túy lúy hoặc xỉn đến độ chẳng biết trời trăng mây gió gì. Ông chìm vào hồi tưởng; dòng chảy vô tận của ký ức và chuyện kể, rực rỡ, sắc nét, thỉnh thoảng lại thắt ngực, tuôn trào từ ông. Nhưng đan xen giữa những câu chuyện quá khứ, ông Jud đối diện với hiện tại theo cách mà Louis chẳng biết làm gì ngoài ngưỡng mộ; giả sử Rachel bất thình lình lăn đùng ra tắc tử sau khi ăn bưởi và ngũ cốc buổi sáng thì chẳng rõ anh có thể chấp nhận thực tại phũ phàng tốt bằng một nửa ông hay không.
Ông Jud gọi cho Nhà Tang lễ Brookings-Smith, cái gì thu xếp được qua điện thoại, ông đều thống nhất với họ; còn bao nhiêu, ông hẹn hôm sau đến bàn bạc nốt. Phải, ông sẽ ướp xác bà; ông muốn thi thể của bà diện chiếc váy mà ông chọn; phải, ông muốn lựa cả đồ lót; không, ông không muốn nhà xác cung cấp loại giày đặc biệt cột dây phía sau. Bên anh có nhân viên nào gội đầu cho bà nhà tôi không? Ông hỏi. Bà ấy gội đầu lần cuối vào tối thứ Hai, nên khi qua đời, đầu của bà đang bẩn. Đoạn ông lắng nghe, còn Louis, vốn có cậu làm công việc mà người trong ngành gọi là “cái nghề câm lặng”, biết người tổ chức tang lễ vừa nói với ông Jud rằng dịch vụ tắm rửa lần cuối là một phần trong gói sản phẩm. Ông Jud gật đầu rồi cảm ơn người ở đầu dây bên kia, đoạn lại im lặng lắng nghe. Phải , ông đáp, tôi muốn bà ấy được trang điểm, nhưng chỉ một lớp nhẹ nhàng thôi. “Bà ấy đã mất rồi, và ai cũng biết điều đó,” ông nói, châm điếu thuốc Chesterfield. “Không cần phải bôi son trát phấn dày cui.” Quan tài sẽ được đóng kín trong lễ tang, mở vào khung thời gian thăm viếng trước đó một ngày, ông bình tĩnh đưa ra các yêu cầu của mình với trưởng nhà xác. Ông muốn bà được chôn cất ở Nghĩa trang Mount Hope, hai ông bà đã mua mộ phần tại đây vào năm 1951. Có sẵn giấy tờ, ông đọc cho nhân viên dịch vụ lễ tang số hiệu mộ phần để công cuộc chuẩn bị được thực thi ngay: H-101. Mộ phần của ông là H-102, về sau ông kể với Louis như thế.
Xong xuôi, ông nhìn Louis và nói: “Theo những gì ta thấy, nghĩa trang đẹp nhất thế giới nằm ngay ở Bangor. Nếu muốn, cháu cứ khui thêm chai bia đi. Mọi chuyện sẽ tốn thời gian đấy.”
Louis toan từ chối – chưa gì anh đã thấy hơi chuếnh choáng rồi − thì một hình ảnh gớm ghiếc không mời mà hiện lên trước mắt anh: cảnh tượng ông Jud khiêng kiệu điệu bà Norma băng qua rừng. Tiến về phía khu đất chôn cất của người Micmac phía bên kia Nghĩa địa Thú cưng.
Suy nghĩ ấy như cú tát trời giáng vào mặt anh. Không nói gì, anh đứng dậy lấy thêm một chai bia từ tủ lạnh. Ông Jud gật đầu với anh rồi lại quay số điện thoại. Đến ba giờ chiều, khi Louis về nhà ăn sandwich và một bát xúp, ông Jud đã sắp xếp hòm hòm việc tổ chức đám tang cho vợ mình; ông thoăn thoắt sắp xếp hết việc này đến việc kia như người đang lên kế hoạch bữa tiệc tối hoành tráng. Ông gọi cho Giáo hội Giám lý Bắc Ludlow, nơi tổ chức lễ tang, và Văn phòng Quản lý Nghĩa trang ở Mount Hope; đằng nào phía nhân viên dịch vụ tang lễ của Brookings-Smith cũng sẽ thực hiện hai cuộc gọi này, nhưng ông Jud gọi trước như phép lịch sự. Trong lúc tang gia bối rối, ít người nào nghĩ được thế… hoặc nếu có chăng nữa, họ cũng chẳng còn lòng dạ nào mà gọi. Vì thế, Louis lại càng lúc càng khâm phục ông cụ. Sau đó, ông gọi điện thoại cho vài người họ hàng còn sống bên phía bà Norma và phía ông, lật qua cuốn sổ danh bạ bìa da cũ mèm, tả tơi để tìm số. Giữa các cuộc gọi, ông uống bia và hồi tưởng lại quá khứ.
Louis cảm thấy dâng trào trong anh niềm ngưỡng mộ dành cho ông cụ… và yêu thương chăng?
Phải, cõi lòng anh cất tiếng; có cả tình yêu thương.
Tối đó, khi Ellie mặc bộ đồ ngủ và bước xuống lầu để bố mẹ thơm chúc ngủ ngon, cô bé thắc mắc với Louis rằng bà Crandall có lên thiên đường hay không. Cô bé hạ giọng gần như thì thầm, như thể cô bé hiểu tốt hơn hết phải phòng hờ tai vách mạch rừng. Rachel ở trong bếp làm bánh nhồi thịt gà để ngày mai mang sang cho ông Jud.
Phía bên kia đường, đèn đuốc nhà ông Crandall bật sáng choang. Xe ô tô đậu đầy trên lối chạy xe nhà ông Jud và kín mép đường cao tốc phía nhà ông đến cả ba chục mét về cả hai phía. Khung thời gian thăm viếng chính thức là ngày mai, tại nhà xác, nhưng tối nay, mọi người đến để tỏ lòng chia buồn sâu sắc với ông Jud, để ôn lại chuyện xưa cùng ông và để tiễn bà Norma về nơi xa – điều mà buổi chiều hôm ấy, ông Jud gọi với cái tên “thủ tục đi trước”. Giữa căn nhà của ông và nhà của anh, cơn gió tháng Hai buốt giá cứ hun hút thổi. Con đường phủ lớp băng mỏng. Khoảng thời gian khắc nghiệt nhất của mùa đông xứ Maine đang quét qua nơi đây.
“Chà, bố cũng không biết nữa, con yêu,” Louis nói rồi nhấc Ellie vào lòng mình. Trên ti vi đang chiếu cảnh đấu súng. Một người đàn ông lảo đảo ngã vật xuống mà hai bố con chẳng mảy may đoái hoài. Louis ý thức một cách khó chịu rằng có lẽ Ellie có thể kể vanh vách về Ronald McDonald, Người nhện, nhân vật Burger King, trong khi chỉ biết loáng thoáng về Moses, Chúa Jesus và Thánh Paul. Cô bé là con gái của người mẹ vốn là dân Do Thái nhưng không mộ đạo và người cha là tín hữu Giám lý nhưng đã bỏ đạo, nên anh đoán những điều cô bé hình dung về đời sống tâm linh chắc hẳn vô cùng mờ nhạt; nó chẳng phải chuyện hoang đường, chẳng phải giấc mơ nữa mà là mơ trong mơ. Quá muộn để xây dựng điều đó rồi, anh bâng quơ nghĩ. Con bé mới lên năm, nhưng chưa gì đã muộn rồi. Lạy Chúa, nhoáng cái mà quá muộn.
Song con gái đang nhìn anh, nên anh phải nói gì đó.
“Con người có rất nhiều niềm tin về việc sau khi chết thì điều gì sẽ xảy ra,” anh ôn tồn. “Nhiều người nghĩ chúng ta lên thiên đường hoặc xuống địa ngục. Có người cho rằng chúng ta lại được tái sinh thành trẻ con…”
“Dạ, là đầu chai . Như nhân vật Audrey Rose trong bộ phim chiếu trên ti vi.”
“Con có xem phim đấy bao giờ đâu!” Anh trộm nghĩ Rachel sẽ lên cơn tắc mạch máu não nếu cô tưởng Ellie đã xem bộ phim Audrey Rose máu me ấy.
“Marie kể với con ở trường” Ellie nói. Theo lời Ellie, Marie là cô bạn thân nhất quả đất của con bé, một cô bé suy dinh dưỡng, nhỏ thỏ, bẩn thỉu, lúc nào trống cũng như thể sắp sửa bị chốc lở, hắc lào hoặc thậm chí là mắc bệnh Scurvy. Cả Louis và Rachel ủng hộ tình bạn của hai cô bé hết mức có thể, nhưng lần nọ, Rachel từng thú thật với Louis rằng sau khi Marie ra về, cô lúc nào cũng sốt ruột muốn kiểm tra xem đầu Ellie có xuất hiện trứng chấy hay chấy rận không. Nghe đến đấy, Louis phá lên cười gật gù.
“Thế nào mà mẹ của Marie lại cho con bé xem tất tần tật những chương trình đó vậy.” Trong lời vợ anh có hàm ý chê trách nhưng Louis quyết định lờ đi.
“Chà, là đầu thai chứ không phải đầu chai, nhưng bố thấy con hiểu sơ sơ rồi đó. Tín đồ công giáo tin vào thiên đường địa ngục, nhưng họ cũng tin tồn tại một nơi được gọi là lâm bộ và một nơi mang tên luyện ngục. Còn đạo Phật lại tin vào cõi niết bàn…”
Có bóng người trên tường phòng ăn. Là Rachel. Cô cũng đang lắng tai nghe.
Louis chậm rãi giải thích tiếp.
“Có lẽ còn rất nhiều quan niệm khác. Nhưng Ellie à, tóm lại là chẳng ai biết chính xác. Người ta rêu rao rằng mình biết, nhưng khi họ nói vậy, ý của họ là họ tin vì đức tin của họ. Con có biết đức tin là gì không?”
“Dạ…”
“Giờ bố con mình đang ngồi trên chiếc ghế này,” Louis giải thích. “Con có nghĩ ngày mai ghế của bố vẫn còn ở đây không?”
“Dạ có chứ.”
“Thế là con có đức tin rằng cái ghế sẽ vẫn ở đây. Và sự thật đúng là thế, bố cũng chung niềm tin ấy. Đức tin là việc tin tưởng vào một thứ nào đó sẽ ra sao. Con hiểu không?”
“Dạ hiểu,” Ellie gật đầu khẳng định.
“Nhưng chúng ta không biết mai mốt nó còn ở đây không. Nhỡ đâu có một tên trộm cuồng ghế lẻn vào nhà mình cuỗm nó đi thì sao, đúng không?”
Ellie khúc khích. Louis mỉm cười.
“Đơn giản là bố con mình có niềm tin rằng điều đó sẽ không xảy ra. Đức tin là thứ rất vĩ đại, và những người sùng đạo muốn chúng ta nghĩ rằng đức tin và việc biết điều gì đó là một thứ, nhưng bản thân bố không cho là vậy. Vì có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Chúng ta chỉ biết rằng: khi ta chết, một trong hai điều xảy ra. Linh hồn và suy nghĩ của chúng ta sống sót sau khi trải nghiệm cái chết hoặc không. Trong trường hợp thứ nhất, điều đó sẽ mở ra vô vàn khả năng trong tầm tư duy của con người. Còn trong trường hợp sau, tất cả là dấu chấm hết. Cái kết.”
“Giống như đi ngủ ạ?”
Anh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói, “Bố nghĩ chắc là giống gây mê hơn.”
“Vậy bố có đức tin vào trường hợp nào ạ?”
Cải bóng trên tường chuyển động rồi lại đứng yên.
Từ lúc trưởng thành, gần hết cuộc đời mình – anh đoán cụ thể là từ những năm đại học – anh tin rằng chết là hết. Anh đã có mặt lúc rất nhiều bệnh nhân trút hơi thở cuối cùng, nhưng chưa lần nào anh cảm nhận viên đạn linh hồn xuyên qua anh đến… một nơi nào đó; phải chăng tới khi chứng kiến cái chết của Victor Pascow, suy nghĩ ấy mới bén rễ trong lòng anh? Anh đồng tình với giáo viên bộ môn Tâm lý học I của mình rằng các trải nghiệm cận tử đăng trên tạp chí học thuật rồi được các tờ báo đại chúng thêm mắm dặm muối khả năng cao chỉ là chút lực tàn của tâm trí để chống lại cái chết đang về vập ập đến; với sức sáng tạo vô hạn, tâm trí cố ngăn mình không phát rồ đến tận phút cuối cùng bằng cách dựng nên ảo giác về bất tử. Tương tự, anh cũng đồng tình với một cậu bạn chung ký túc xá trong buổi thảo luận bất chợt thâu đêm suốt sáng lúc Louis học năm hai ở Chicago, rằng thật đáng ngờ khi Kinh Thánh chỉ chứa những điều kỳ diệu gần như chẳng còn tồn tại vào thời hiện đại (ban đầu, cậu ta dùng từ “hoàn toàn biến mất” nhưng bị ép phải nhún nhường lùi một bước khi phe đối ngược tuyên bố đầy tự tin rằng trên đời này vẫn có khối điều kỳ dị diễn ra; những sự lạ đời nho nhỏ trong một thế giới dần dà đã biến thành một nơi sạch sẽ, sáng choang đèn điện – ví dụ như Tấm vải liệm Turin chẳng hạn, bao năm nay, người ta cố gắng lý giải nó mà vẫn bó tay đấy thôi). “Kinh Thánh bảo Chúa đưa Lazarus từ cõi chết trở về,” về sau, khi trở thành một bác sĩ sản khoa đức cao vọng trọng ở Dearborn, Michigan, cậu bạn này bèn trình bày. “Tớ chấp nhận chuyện đó. Nếu phải nuốt trôi điều này, tớ sẽ làm thế. Dù gì tớ cũng đã phải chấp nhận khái niệm một trong hai bào thai của cặp sinh đôi nuốt bào thai còn lại khi còn trong bụng mẹ, như thể chưa sinh ra đã ăn thịt đồng loại, để rồi hai mươi, ba mươi năm sau, anh ta phát hiện có răng trong tinh hoàn hoặc có tóc trong phổi của mình và nhận ra mình đã ăn tươi nuốt sống kẻ khác, chuyện như thế mà tớ còn tin thì tớ nghĩ tớ có thể chấp nhận tất cả mọi điều. Nhưng trước hết hãy đưa giấy chứng tử ra hẵng tính, các cậu hiểu ý tớ không? Tớ không thắc mắc việc ông ta bước ra từ trong mồ, tuy nhiên, tớ muốn thấy giấy chứng tử rồi mới tính. Tớ thích Thomas vì ông ta nói chỉ tin Chúa sống dậy khi thấy dấu đinh trong bàn tay Ngài và đặt bàn tay nơi sườn Ngài. Tớ thấy ông này mới là vị bác sĩ thực thụ trong số bọn họ chứ không phải Luke.”
Không, thực ra anh chẳng tin vào chuyện còn giữ được linh hồn và suy nghĩ tồn tại sau khi chết. Chí ít là cho đến vụ việc của Church.
“Bố tin rằng chúng ta sẽ đi tiếp,” anh chậm rãi giải thích với con gái. “Nhưng việc đó ra sao thì bố không có ý kiến. Có thể mỗi người mỗi khác. Có thể con sẽ có trải nghiệm như những gì con tin tưởng suốt cuộc đời mình. Nhưng bố tin rằng chúng ta sẽ đi tiếp, và bố tin bà Crandall đang ở một nơi mà bà có thể hạnh phúc.”
“Bố có đức tin vào điều đó,” Ellie nói. Đó không phải là một câu hỏi. Trông cô bé có vẻ trầm trổ.
Louis mỉm cười, có phần hài lòng và đôi chút ngượng ngùng. “Bố nghĩ vậy. Và bố có đức tin vào việc đã đến lúc con phải đi ngủ rồi đấy. Chừng mười phút trước.”
Anh trao cho cô con gái hai nụ hôn, một trên môi và một trên mũi.
“Bố có nghĩ động vật cũng đi tiếp không ạ?”
“Có,” anh đáp mà không nghĩ, và trong thoáng chốc, suýt chút nữa anh tỉnh nói thêm: Nhất là mèo . Những từ ấy chớm mấp máy trên đầu môi anh, khiến làn da anh xám xịt, lạnh ngắt.
“Dạ,” cô bé nói rồi tuột xuống. “Con đi thơm mẹ.”
“Con đi đi.”
Anh nhìn theo con gái. Đứng ở cửa phòng ăn, cô bé quay lại và cất tiếng, “Hôm đó con cư xử ngốc nghếch về Church quá phải không bố? Con khóc bù lu bù loa.”
“Không đâu con yêu” anh nhẹ nhàng. “Bố không thấy con ngốc nghếch chút nào.”
“Nếu bây giờ nó chết, con có thể chấp nhận,” cô nói, và rồi chừng như cô bé bần thần ngẫm lại suy nghĩ mình vừa thốt lên, vẻ mặt thoáng giật mình. Đoạn cô nhắc lại như thể tỏ ý đồng tình với bản thân: “Chắc chắn là vậy.” Đoạn cô bé đi tìm Rachel.
Một lúc sau, khi đã yên vị trên giường, Rachel nói: “Em đã nghe thấy những gì anh nói với con.”
“Và em không ưng?” Louis hỏi. Anh quyết định tốt hơn hết là nên làm rõ vấn đề này, nếu đó là điều Rachel mong muốn.
“Không” Rachel đáp, lưỡng lự không giống như mọi khi. “Không, Louis ạ, không phải thế. Chỉ là… em sợ. Anh biết em mà. Khi em sợ, em cứ xù lông nhím lên.”
Lục lại ký ức, Louis nhớ trước giờ, anh chưa từng nghe Rachel nói một cách dụng công như thế, bỗng dưng, anh cảm thấy dè chừng hơn hẳn so với ban nãy anh nói chuyện với Ellie. Anh có cảm giác mình đang dấn thân vào bãi mìn.
“Em sợ điều gì? Sợ chết sao?”
“Không phải sợ cho em,” cô giãi bày. “Giờ em chẳng mấy khi nghĩ về việc đó nữa… Nhưng ngày em còn bé, nó thường trực trong đầu em. Em mất ngủ rất nhiều. Nằm mơ thấy quái vật nhào ra ăn thịt em trên giường, và tất cả những con quái vật ấy có vẻ ngoài giống Zelda, chị gái em.”
Đến rồi, Louis nghĩ. Xuất hiện rồi; cuối cùng cũng đến lúc này, sau bao thời gian hai vợ chồng bên nhau, cuối cùng phút giây này đã tới.
“Em ít khi nhắc đến chị ấy,” anh nói.
Rachel mỉm cười, đưa tay chạm vào mặt anh. “Anh dịu dàng quá, Louis ạ. Em không bao giờ nói về chị ấy mới phải. Em cố không bao giờ nghĩ đến.”
“Anh luôn nghĩ em có lý do riêng của mình.”
“Phải. Cả ngày trước và bây giờ cũng thế.”
Cô dừng lại ngẫm nghĩ.
“Anh chỉ biết chị ấy qua đời vì… viêm màng não tủy…
“Viêm màng não tủy,” cô nhắc lại, để rồi anh thấy mắt cô ầng ậng nước. “Trong nhà em chẳng còn trưng bức hình nào của chị ấy nữa rồi.”
“Có một bức hình chụp một cô bé trong phòng bố em…”
“Trong phòng làm việc của ông. Phải. Em quên mất bức đó. Với lại hình như mẹ em vẫn cất một bức trong ví thì phải. Chị ấy lớn hơn em hai tuổi. Chị mắc bệnh… và chỉ vò võ trong phòng ngủ đằng sau… bức bách trong bốn bức tường như một bí mật bẩn thỉu, Louis ạ, chị gái em chết dần chết mòn ở đó, để rồi trút hơi thở cuối cùng trong phòng ngủ đằng sau, và chị ấy chẳng là gì, ngoài một bí mật bẩn thỉu!”
Bất thình lình, Rachel òa lên khóc, trong những tiếng khóc càng lúc càng to, tông giọng càng lúc càng cao, Louis nhận thấy rất có khả năng cô sắp sửa lên cơn hoảng loạn nên cảnh giác cao độ. Anh vươn tay chộp lấy vai cô, nhưng ngay khi anh vừa chạm vào, cô đã giật lại. Anh có thể cảm nhận lớp vải lụa của chiếc váy ngủ dưới đầu ngón tay mình.
“Rachel – em yêu – đừng vậy mà…”
Cô chật vật kìm nén tiếng khóc. “Đừng ngăn em,” cô nói. “Đừng cản em, Louis. Em chỉ đủ sức nói về chuyện này một lần thôi, về sau, em không muốn nhắc lại lần nào nữa. Có lẽ với tình hình này, em sẽ thao thức cả đêm.”
“Nó khủng khiếp đến vậy sao?” Anh hỏi dù đã biết câu trả lời. Nó lý giải rất nhiều thứ, thậm chí cả những điều trước nay anh chưa liên kết được hoặc chỉ loáng thoáng nghi ngờ chợt ùn ùn dâng lên trong tâm trí. Anh nhận ra cô chưa bao giờ đi viếng đám tang nào cùng anh, ngay cả đám tang của Al Locke, cậu sinh viên y khoa thiệt mạng khi chiếc xe cậu lái va chạm với một xe chở rác. Al hay đến chung cư của họ chơi, và Rachel rất quý cậu này. Nhưng vào ngày tổ chức tang lễ, cô lại không đến.
Ngày hôm đó cô ấy bị ốm, chợt Louis nhớ ra. Bị cảm cúm hay gì đó. Trông có vẻ nghiêm trọng. Nhưng hôm sau, cô ấy đã ổn ngay.
Phải nói là sau khi tang lễ kết thúc, vợ mình đã khỏe lại mới đúng, anh sửa. Anh nhớ lúc đó mình nghĩ khéo có khi căn bệnh của cô từ tinh thần mà ra.
“Khủng khiếp lắm. Tệ hơn rất nhiều so với những gì anh có thể tưởng tượng. Louis, cả nhà em đã phải chứng kiến chị ấy chết dần chết mòn qua từng ngày mà chỉ biết bất lực. Lúc nào cũng phải chịu đau đớn. Cơ thể như quắt lại… như tự rúm ró vào… vai gù lên, mặt chảy sệ đến độ chẳng khác nào mặt nạ. Tay co quắp như chân chim. Thỉnh thoảng em phải cho chị ấy ăn. Em ghét lắm, nhưng em vẫn làm mà không cằn nhằn gì. Khi cơn đau chuyển nặng, họ bắt đầu cho chị ấy dùng thuốc, ban đầu nhẹ rồi dần dà chuyển sang những loại sẽ khiến chị ấy thành con nghiện nếu còn sống. Nhưng tất nhiên mọi người đều biết chị ấy chẳng còn sống được bao lâu. Em đoán đó là lý do mọi người xem chị ấy như… như bí mật. Vì nhà em muốn chị ấy chết, Louis, nhà em ước gì chị ấy chết, không phải để chị ấy không chịu đau đớn nữa, mà là để nhà em không chịu đau đớn nữa, là vì chị càng lúc càng giống quái vật, càng lúc càng trở thành một con quái vật… ôi Chúa ơi em biết những lời đó nghe thật tệ hại…”
Cô đưa tay bưng mặt.
Louis nhẹ nhàng chạm vào cô. “Rachel, nghe chẳng có gì tệ hại cả.”
“Có mà!” Cô ré lên. “Có mà!”
“Những lời đó nghe đúng sự thật thôi,” anh nói. “Người bị bệnh lâu năm thường trở thành con quái vật ngang ngược, khó ưa. Bệnh nhân chịu đau đớn lâu dài mà như thánh hiền chỉ là hư cấu lãng mạn thôi. Đến lúc bệnh nhân nằm liệt giường bắt đầu bị thối loét ở mông, người đó sẽ cắt, sẽ xẻ nhỏ, sẽ lan truyền nỗi khổ sở cho mọi người xung quanh. Họ bức bách quá rồi, nhưng điều đó chẳng giúp được những người trong cuộc.”
Cô nhìn anh, ngạc nhiên… gần như hy vọng. Và rồi nghi ngờ lại lẩn lút xuất hiện trên gương mặt cô. “Anh đang bịa em.”
Anh mỉm cười nghiêm túc. “Em muốn anh đưa em xem sách giáo khoa không? Cả số liệu thống kê tự sát nữa? Em muốn xem thử không? Ở những gia đình có bệnh nhân mắc chứng nan y chăm sóc tại nhà, số liệu tự sát vọt thẳng đến tầng bình lưu trong sáu tháng sau khi bệnh nhân qua đời.”
“Tự sát ư”
“Họ uống thuốc, hoặc dùng ống xả thải, hoặc bắn vỡ sọ não. Cảm giác căm ghét… mệt mỏi… kinh tởm… buồn bã…” Anh nhún vai rồi áp hai bàn tay siết thành nắm đấm vào nhau. “Những người còn ở lại bắt đầu cảm thấy mình như kẻ sát nhân. Nên họ kết liễu mạng sống.”
Sự nhẹ nhõm rối bời, đầy tổn thương dần manh nha trên khuôn mặt sưng húp của Rachel. “Chị ấy lúc nào cũng đòi hỏi… nanh nọc. Thỉnh thoảng còn cố tình tè ra giường. Thấy vậy, mẹ em hỏi chị có cần ai dìu đến nhà vệ sinh không… về sau, khi chị không ngồi dậy được nữa, mẹ em hỏi chị ấy có muốn dùng bộ gắn vào giường không. nhưng lần nào Zelda cũng bảo không… rồi cố tình tè ra giường để mẹ em hoặc cả hai mẹ con em phải thay khăn trải giường. chị ấy bảo mình không cố ý, nhưng nụ cười hiện lên trên mặt chị, Louis ạ. Nó rành rành ra đấy. Căn phòng lúc nào cũng khai mùi nước tiểu và mùi thuốc… chị ấy có mấy hộp thuốc có mùi y như Kẹo Ngậm Ho Cherry Dại Smith Brothers và cái mùi ấy ám cả không gian… có những đêm em tỉnh giấc… đến tận giờ em vẫn tỉnh giấc mà tưởng mình ngửi thấy mùi Kẹo Ngậm Ho Cherry Dại… và em tự hỏi… nếu em chưa tỉnh ngủ hẳn, có lẽ em sẽ tự hỏi ‘Zelda chết chưa? Chết chưa?… Em tự hỏi…”
Rachel nấc lên từng hồi. Louis nắm lấy tay vợ, cô cuống cuồng siết lấy tay anh thật chặt, thật thống thiết.
“Lúc nhà em thay đồ cho chị, ai cũng thấy tấm lưng cong vẹo, biến dạng của chị ấy. Lúc sắp sửa ra đi, Louis, lúc sắp sửa ra đi, chừng như… chừng như mông chị chạy lên giữa lưng.”
Giờ thì đôi mắt đẫm lệ của Rachel chứa đựng đầy vẻ hãi hùng, bàng hoàng của đứa trẻ nhớ lại cơn ác mộng ghê gớm liên tục xuất hiện.
“Có những lúc chị dùng… dùng tay chạm vào em… những ngón tay co quắp… khi đó em thiếu điều gào thét cấm chị ấy làm vậy, có lần em làm đổ xúp lên tay mình khi chị giơ tay sờ vào mặt em, vì thế em bị bỏng, và em đã hét ầm lên… em còn khóc nữa, nhưng chưa hết, em có thể thấy nụ cười hiện lên trong mắt chị.
Càng về cuối, thuốc càng mất tác dụng. Lúc đó, chị ấy thét gào mãi không thôi, cả nhà em chẳng còn nhớ con người chị ngày xưa ra sao nữa, kể cả mẹ. Chị chỉ còn là cái thứ kinh tởm, nanh nọc, suốt ngày gào rú trong phòng ngủ đằng sau… bí mật bẩn thỉu của nhà em.”
Rachel nuốt nước bọt. Họng cô kêu đánh ực.
“Bố mẹ em vắng nhà vào hôm chị ấy… chị ấy… anh hiểu không, cái hôm.”
Rachel chật vật bóp nặn từng chữ.
“Lúc chị ấy chết , bố mẹ em vắng nhà. Bố mẹ ra ngoài nhưng em ở nhà với chị. Khi đó đang là Lễ Vượt qua nên bố mẹ em ra ngoài một lát để gặp bạn bè. Chỉ vài phút thôi. Em ngồi trong nhà bếp đọc tạp chí. À nói đúng hơn là mắt em đang hướng vào nó. Em đợi đến giờ cho chị ấy uống thêm thuốc, vì chị ấy đang hét ầm ĩ. Gần như ngay khi bố mẹ em vừa ra khỏi nhà, chị ấy cứ thế gào thét. Thét kiểu đấy thì em làm sao đọc tạp chí nổi. Và rồi… ừm, chuyện là… à ừm… Zelda ngừng hét. Louis, khi đó em mới tám tuổi thôi… đêm nào em cũng gặp ác mộng. một suy nghĩ chớm lên trong đầu em, rằng chị ấy ghét em vì lưng em thẳng, vì em không phải chịu cơn đau triền miên, vì em có thể đi lại, vì em có thể sống tiếp… em rơi vào tưởng tượng chị ấy muốn giết em. Chỉ có điều, Louis ạ, cho đến tận đêm nay, em nghĩ đó chẳng phải là tưởng tượng của em đâu. Đến giờ, em vẫn nghĩ ngày đó, chị ấy căm hận em. Chắc chị sẽ không giết em, nhưng nếu bằng cách nào đó có thể chiếm đoạt cơ thể em… đẩy em ra khỏi cơ thể này như trong truyện cổ tích… em nghĩ chị ấy sẽ xuống tay làm ngay. Nhưng khi chị ấy ngừng hét, em bước vào kiểm tra tình hình… xem chị ấy có bị ngã hay trượt khỏi gối hay không. Lúc bước vào trong nhìn, em tưởng chị ấy nuốt phải lưỡi mình vì chị ấy đang sắp sửa chết nghẹn. Louis…” Giọng của Rachel lại rít lên, đầy nước mắt, giống trẻ con đến đáng sợ, như thể cô đang thoái triển, sống lại ký ức năm xưa. “Louis, lúc đó em chẳng biết phải làm gì! Em mới tám tuổi thôi!”
“Phải, làm sao mà em biết được,” Louis nói. Anh quay sang ôm cô vào lòng, và Rachel quýnh quáng níu lấy anh như kẻ bơi kém vừa bị lật thuyền ngay giữa hồ nước mênh mông. “Có ai trách cứ em về chuyện đó không?”
“Không,” cô nói, “không ai mắng mỏ em gì cả. Nhưng cũng chẳng có ai khiến khoảng thời gian ấy dễ thở hơn. Không ai có thể quay ngược thời gian và ngăn nó không xảy ra, Louis. Hóa ra không phải chị ấy nuốt phải lưỡi mình. Chị ấy bắt đầu phát ra âm thanh, nói sao nhỉ — Gaaaaaa — giống vậy đấy..
Vừa hoảng loạn vừa kể lại từ đầu chí cuối cái ngày oan nghiệt ấy, cô bắt chước xuất sắc tiếng động mà người chị Zelda kêu lên, để rồi tâm trí Louis chợt lóe lên hình ảnh của Victor Pascow. Anh siết chặt vợ vào lòng.
“… và nước bọt, nước bọt nhoe nhoét chảy xuống cằm chị ấy…”
“Rachel, thế đủ rồi,” anh nói, giọng không khỏi run run. “Anh ý thức được các triệu chứng mà.”
“Em đang giải thích,” cô bướng bỉnh nói. “Em đang giải thích lý do em không thể viếng đám tang của bà Norma tội nghiệp, lý do vợ chồng mình to tiếng với nhau hôm nọ…”
“Suỵt, chuyện qua rồi.”
“Với em thì chưa,” cô nói. “Em còn nhớ như in, Louis ạ. Em nhớ nó chẳng kém gì nhớ cảnh tượng Zelda chị gái em ngạt thở đến chết trên giường vào ngày 14 tháng 4 năm 1963.”
Cả căn phòng lặng im như tờ suốt một lúc lâu.
“Em lật chị ấy áp bụng xuống rồi vỗ lưng,” mãi lúc sau, Rachel mới kể tiếp. “Em chỉ biết làm thế. Chân chị ấy giãy giụa lên xuống… hai cẳng chân cong quèo… em nhớ mình đã nghe thấy tiếng như tiếng đánh rắm… em cứ tưởng là chị ấy hay em vừa đánh rắm, nhưng không phải, mà là tiếng phần áo dưới cánh tay em bị bục chỉ khi em lật người chị ấy. Thế rồi chị ấy bắt đầu… bắt đầu co giật… em nhìn thấy mặt chị thấy quay tới quay lui, úp vào gối, và em đã thầm nhủ, ổ, chị ấy đang bị ngạt thở, Zelda đang ngạt thở kìa, bố mẹ về nhà sẽ bảo em đã bóp ngạt chị ấy, giết chết chị ấy, bố mẹ sẽ bảo con ghét chị ấy lắm mà, Rachel, mà đúng thật là thế, và rồi họ sẽ nói con muốn chị con chết chứ gì, điều này cũng đúng. Bởi vì, Louis ạ, anh biết không, suy nghĩ đầu tiên vụt qua tâm trí em khi chị ấy bắt đầu co giật trên giường, em vẫn nhớ như in, suy nghĩ đầu tiên là Ôi tốt quá, đợi mãi, Zelda ngạt thở rồi, chuyện này sắp kết thúc rồi. Thế là em lật người chị ấy lại, và mặt chị ấy đen thui, Louis, mắt thì lồi ra, cổ thì sưng vù lên. Rồi chị ấy chết. Em lùi ra khỏi phòng. Chắc em muốn lùi ra khỏi cửa nhưng chẳng may tông vào tường làm một bức tranh rơi xuống, đó là bức tranh từ tác phẩm Phù thủy xứ Oz mà trước khi ngã bệnh, Zelda rất thích, hồi chị ấy còn nhỏ, bức tranh Phù thủy Oz Vĩ đại và Ghê gớm, nhưng Zelda lúc nào cũng gọi nhân vật này là Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm, chị ấy không phát âm được rõ chữ, nghe cứ như Elmer Fudd [15E] . Mẹ em đóng khung bức tranh ấy vì… vì Zelda thích nó nhất… Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm… thế mà nó rơi xuống sàn đánh choang, mặt kính bể tan tành, còn em chỉ biết la thất thanh vì em hiểu chị ấy đã chết, và em đã nghĩ… hẳn khi đó em đã nghĩ hồn ma chị ấy đang về bắt em, và em biết hồn ma đó căm ghét em chẳng thua gì chị, nhưng hồn ma thì không mắc kẹt trên giường, nên em cứ thế mà hét… vừa chạy ra khỏi nhà, em vừa hét “Zelda chết rồi! Zelda chết rồi! Zelda chết rồi!” Thế là hàng xóm ló ra… họ đến xem có chuyện gì… họ thấy em chạy xuống đường với chiếc áo rách toạc phần nách… em hét thất thanh ‘Zelda chết rồi!’ Louis, em đoán có lẽ người ta tưởng em khóc nhưng em nghĩ… em nghĩ có khi em đã cười, Louis ạ. Có lẽ em đã cười ha hả.
“Nếu em làm thế thì anh nghiêng mình giơ tay chào,” Louis nói.
“Anh nói thế chứ chẳng phải vậy,” Rachel khẳng định chắc nịch, như một người đã ngẫm đi ngẫm lại, ngẫm tới ngẫm lui một vấn đề. Anh để nó qua. Anh nghĩ rồi có sẽ có thể rũ bỏ được ký ức khủng khiếp, hình tởm đã ám ảnh suốt khoảng thời gian dài này — chỉ ít là phần lớn — nhưng phần này thì không. Không bao giờ có thể quên đi hoàn toàn, Louis Creed chẳng phải nhà tâm thần học, song anh biết có những thứ người ta cố gắng vùi lập trong đời, và rằng con người lúc nào cũng bị thôi thúc tìm đến những thứ này, lôi chúng ra, bất chấp chúng khiến họ rớm máu. Đêm nay, Rachel đã lôi gần như toàn bộ ra ngoài, tựa cái rằng sau gớm ghiếc, thổi rửa hôi hãm, thân răng đen đúa, dậy thần kinh bị nhiễm trùng, chân rằng thối hoằng. Nó rời ra rồi. Cứ mặc tế bào độc hại cuối cùng ở đó; nếu Chúa nhân từ, nó sẽ không tác oai tác quái, ngoại trừ trong những giấc mơ sâu thẳm nhất. Riêng việc có đủ sức loại bỏ được phần lớn những gánh nặng ấy như vừa rồi đã là một điều vô tiền khoáng hậu – nó không chỉ cất lên sự can đảm của cô mà còn thánh thót ca vang nó, Louis nhìn vợ đầy bồi hồi. Anh những muốn reo hò chúc mừng cô.
Đoạn anh đứng dậy bật đèn. “Có,” anh nói. “Anh nghiêng mình trước em. Và nếu anh cần thêm một lý do để… để căm ghét bố mẹ em thì anh có rồi đấy. Lý ra không bao giờ được để em ở nhà một mình với chị gái, Rachel ạ. Không bao giờ.
Như một đứa trẻ — đứa trẻ tám tuổi vốn là cô ngày xưa, khi biến cố kinh khủng, rợn người ấy ập xuống – cô gắt lên với anh: “Lou à, đó là mùa Lễ Vượt qua…”
“Có là Ngày Phán xét đi chăng nữa thì anh cũng không quan tâm,” Louis chợt gằn giọng khiến cô bất giác rụt lại. Anh nhớ lại hai sinh viên y vốn đến bệnh xá làm tình nguyện viên, đen đủi thế nào lại trực đúng buổi sáng Pascow được khiêng vào trong tình trạng hấp hối. Một trong hai người – một phụ nữ nhỏ con mà cứng cỏi mang tên Carla Shavers đã quay lại vào ngày hôm sau và làm việc hăng say đến độ ngay cả Charlton còn phải trầm trồ. Riêng người còn lại thì bỏ của chạy lấy người. Louis không lấy làm ngạc nhiên và cũng không trách cô gái ấy.
Lúc đó y tá ở đâu? Đáng lý họ phải sắp xếp một y tá chính quy thăm nom… họ đi ra ngoài, họ thản nhiên đi ra ngoài và để một đứa trẻ tám tuổi ở nhà với người chị gái có thể ra đi bất cứ lúc nào và đầu óc khả năng cao đã phát điên. Vì sao họ lại làm thế? Vì đó là mùa Lễ Vượt qua. Và vì buổi sáng hôm ấy, bà Dory Goldman trang nhã không chịu nổi thứ mùi xú uế đó nữa nên phải tìm cách ra khỏi nhà dù chỉ một lát. Vì thế Rachel phải nhận nhiệm vụ. Đúng chưa, thưa quý vị và các bạn? Rachel phải nhận nhiệm vụ. Miệng còn hôi sữa, tóc tết thành bím, áo cảnh. Rachel đã phải nhận nhiệm vụ khốn kiếp ấy. Rachel ở nhà và cắn răng chịu đựng thứ mùi hôi tanh đó. Hằng năm, họ đưa cô đến Camp Sunset ở Vermont trong sáu tuần làm gì nếu không phải để chịu đựng mùi thối từ cô chị điên loạn đang chết dần chết mòn ấy? Mười bộ áo sơ mi kèm áo len cho Gage, sáu chiếc váy mới cho Ellie, và tôi sẽ chi trả tiền học y cho cậu nếu cậu tránh xa con gái tôi… nhưng cuốn sổ séc tiền nghìn bạc vạn kia đâu khi con gái ông bị căn bệnh viêm màng não tủy, còn cô con gái út thì phải ở nhà một mình với chị gái, lão khốn nạn kia? Mẹ kiếp, các người không kiếm được y tá nào ư?
Louis ngồi dậy, rời khỏi giường.
“Anh đi đâu thế?” Rachel chột dạ hỏi.
“Lấy cho em viên Valium.”
“Anh biết em không…”
“Tối nay thì có,” anh nói.
Cô uống thuốc rồi kể nốt với anh phần còn lại của câu chuyện. Cho đến cuối, giọng cô rất bình tĩnh. Viên thuốc an thần đã phát huy tác dụng.
Người hàng xóm cạnh nhà đã tìm thấy cô bé Rachel tám tuổi rúm ró ngồi sau cái cây và hét thất thanh “Zelda chết rồi!” hết lần này đến lần khác. Rachel bị chảy máu cam nên cả người dính đầy máu. Và cũng chính người hàng xóm này đã gọi xe cứu thương và gọi cho bố mẹ cô; sau khi cầm máu mũi cho Rachel và đưa cho cô tách trà nóng cùng hai viên aspirin để cô bé dịu lại, bà đã hỏi được cô bé bố mẹ đi đâu – hóa ra họ đi thăm vợ chồng nhà Cabron ở bên kia thị trấn; Peter Cabron là kế toán làm việc cho công ty của bố cô.
Buổi tối hôm ấy, man có những chuyển biến lớn lao. Zelda đã ra đi. Phòng được dọn dẹp và xịt khử trùng sạch sẽ. Đồ đạc đều vứt đi cả. Căn phòng trống trơn. Về sau – rất lâu sau này – nơi này trở thành phòng may vá của bà Dory Goldman.
Cơn ác mộng đầu tiên phá bĩnh giấc ngủ của Rachel vào buổi tối hôm ấy, và khi tỉnh giấc lúc hai giờ sáng, hét ầm lên gọi mẹ, cô bé kinh hoàng nhận ra mình không thể nhúc nhích ra khỏi giường. Lưng đau như cắt. Cô bé đã bị trẹo lưng khi dịch chuyển người Zelda. Adrenalin dâng cao, cô bé gom góp được sức lực bật người dậy mạnh đến độ toạc cả áo.
Chuyện cô bé trẹo lưng khi cố gắng cứu Zelda không bị ngạt thở là điều hết sức giản đơn, hiển nhiên, rõ như ban ngày. Ai cũng hiểu, chỉ có điều bản thân Rachel thì không. Rachel đinh ninh đấy là Zelda trả thù mình từ dưới mồ. Zelda biết Rachel vui vì chị gái đã chết; Zelda biết khi nhào ra khỏi nhà và hét toáng lên Zelda chết rồi, Zelda chết rồi, Rachel đang cười chứ không phải đang gào thét; Zelda biết mình đã bị giết hại nên mới truyền căn bệnh viêm màng não tủy cho Rachel, và chẳng bao lâu sau, lưng cô bé sẽ bắt đầu cong vẹo, biến dạng, cô sẽ nằm chết di trên giường, từ từ biến thành con quái vật, bàn tay khoảm lại như móng vuốt.
Sau một thời gian, cô bé sẽ gào thét vì đau đớn như Zelda từng làm, tè ra giường và cuối cùng là chết nghẹn vì lưỡi lọt xuống họng. Đó là sự trả thù của Zelda.
Không ai thuyết phục được Rachel vứt bỏ suy nghĩ ấy; kể cả mẹ cô, bố cô hay bác sĩ Murray, ông chẩn đoán Rachel bị trẹo lưng nhẹ rồi cộc cằn (một số người, như Louis chẳng hạn, sẽ bảo ông thật độc ác) bảo cô bé thôi cái trò quấy phá đi. Bác sĩ Murray nói cô bé phải nhớ chị gái mình vừa qua đời; bố mẹ cô đang sức cùng lực kiệt vì đau buồn nên đây không phải thời điểm thích hợp để Rachel làm mình làm mẩy. Cơn đau dần nguôi đi, và đó là điều duy nhất thuyết phục được cô không phải chịu sự trả thù của Zelda, cũng không bị Chúa trừng phạt vì ác độc. Hàng tháng trời sau đó (cô kể với Louis như vậy; nhưng thật ra là những tám năm ròng rã), cô liên tục giật mình tỉnh dậy sau khi mơ thấy ác mộng chị gái mình chết, và trong bóng tối, tay của Rachel sẽ vội đưa ra sau lưng để kiểm tra xem nó có thẳng thớm hay không. Trong dư âm đáng sợ của cơn ác mộng, cô thường tưởng tượng cánh cửa tủ sẽ mở toang, Zelda nhào ra, người xanh xao, cong vẹo, mắt trắng dã, cái lưỡi đen đúa thè ra khỏi môi, tay khoằm thành móng vuốt để giết kẻ sát nhân đang rúm ró trong giường với hai tay bấu chặt vào hông...
Cô không dự đám tang của Zelda cũng không viếng đám tang nào kể từ đó.
“Nếu em kể với anh từ trước,” Louis nói, “anh đã hiểu ra rất nhiều điều.”
“Lou, em không kể nổi,” cô khẽ nói. Trông cô có vẻ ngái ngủ. “Từ dạo đó… em hơi sợ đề cập đến chủ đề này.”
Hơi sợ thôi à , Louis thầm nhủ. Ừ, đúng rồi.
“Em không thể… em không làm nổi. Trong đầu, em biết anh nói đúng, rằng cái chết là điều hết sức tự nhiên, thậm chí là đúng đắn – nhưng những gì tâm trí em biết và những gì xảy ra… bên trong em lại…”
“Ừ,” anh đáp.
“Hôm đó em trút giận lên anh,” cô nói tiếp, “em biết Ellie khóc vì mới hiểu ra điều đó… đó là cách con bé tập làm quen… nhưng em không kìm nổi. Em xin lỗi, Louis.
“Em không cần xin lỗi đâu,” anh vuốt tóc cô. “Nhưng thôi kệ, anh chấp nhận lời xin lỗi đấy, nếu nó làm em nhẹ lòng hơn.”
Cô mỉm cười. “Anh biết là có mà. Em thấy nhẹ lòng hơn rồi này. Em cảm thấy như thể đã nôn ra được thứ đầu độc em bao năm qua.
“Có lẽ là thế.”
Mắt Rachel dần khép, rồi lại mở ra… thật chậm. “Và đừng trách bố em, Louis ạ. Em xin anh. Khoảng thời gian ấy, bố mẹ em cực lắm. Hóa đơn cho Zelda cứ gọi là cao đến choáng váng. Bố em để lỡ cơ hội mở rộng xuống vùng ngoại ô, còn doanh số cửa hàng trung tâm lại đi xuống. Chưa hết, đến mẹ em cũng gần như hóa điên.
Chậc, rốt cuộc thì mọi chuyện cũng qua. Tựa hồ cái chết của Zelda là hồi chuông báo hiệu thuận hòa sắp đến. Kinh tế suy thoái, nhưng rồi tiền nới rộng, bố em được cấp khoản vay, phất lên như diều gặp gió. Nhưng em nghĩ đó là lý do bố mẹ em quản em rất chặt. Không phải chỉ vì họ còn mỗi mình em…”
“Mà là họ thấy tội lỗi,” Louis nói.
“Có lẽ là vậy. Anh sẽ không giận em nếu em ốm vào ngày chôn bà Norma chứ?”
“Không, em yêu, anh không giận đâu.” Anh ngưng lại rồi cầm tay cô. “Anh dắt theo Ellie được không?”
Tay cô siết chặt anh. “Ôi, Louis, em không biết nữa,” nỗi sợ hãi len lỏi trong giọng cô. “Con còn nhỏ quá…
“Con gái mình biết trẻ con đi ra từ đâu cả năm nay rồi,” anh nhắc vợ.
Cô im lặng hồi lâu, ngước nhìn trần nhà và cắn môi. Mãi lúc sau, cô mới cất tiếng. “Thôi thì nếu anh nghĩ đó là điều tốt nhất. Nếu anh nghĩ nó không… không làm con bé tổn thương”
“Qua đây nào, Rachel,” anh nói, và đêm hôm ấy, cô ngủ áp lưng vào lòng anh, và khi cô tỉnh giấc vào giữa đêm, khi Valium đã hết tác dụng, anh vỗ về, thì thầm vào tai cô rằng mọi thứ vẫn ổn, thế rồi cô lại ngủ thiếp đi.