← Quay lại trang sách

Chương 33

“Vì đàn ông — và phụ nữ — tựa hoa trong thung lũng, hôm nay bung nở, để rồi mai buông mình trong bếp lò: đời người chóng vánh như mùa: có đến rồi lại có đi. Ta hãy cùng cầu nguyện.”

Diện chiếc váy màu xanh hải quân mua cho riêng dịp này, Ellie đột ngột cúi đầu xuống khiến Louis lúc ấy ngồi cạnh cô bé trên hàng ghế nghe thấy tiếng cổ cô bé răng rắc. Ellie mới chỉ dự lễ ở một vài nhà thờ, và tất nhiên đây là lần đầu tiên có bé viếng đám tang; cả hai điều làm cô bé chỉ biết choáng ngợp im lặng.

Với Louis, đây là dịp hiếm hoi anh được dõi theo con gái mình. Dành trọn tình yêu thương cho hai con, chẳng mấy khi anh có thể quan sát cô bé một cách khách quan; nhưng hôm nay, anh nghĩ anh đang được chứng kiến một trường hợp gần như chuẩn sách giáo khoa khi đứa trẻ tiến đến phần cuối giai đoạn phát triển chính đầu tiên trong đời, sinh vật với khối óc tò mò thuần túy, hối hả tích trữ thông tin không ngừng nghỉ. Ellie kiệm lời đến lạ lùng, ngay cả khi ông Jud, với vẻ ngoài lạ lùng nhưng lịch thiệp trong bộ vest màu đen và giày buộc dây (Louis tin đây là lần đầu tiên anh từng thấy ông mang một đôi giày mà không phải giày lười hoặc ủng cao su màu xanh), cúi xuống thơm cô bé và bảo: “Ta rất vui vì cháu đến. Ta đoán bà Norma cũng vậy.”

Ellie ngẩn ra nhìn ông, đôi mắt long lanh, bối rối chẳng nói nên lời. Đây là chuyện ngàn năm có một với cô bé.

Và rồi mục sư giám lý Đức cha Laughlin cất lời ban phước, cầu xin Chúa đoái xem họ và ban bình an cho họ.

“Xin mời người khiêng hòm tiến lên phía trước,” ông nói.

Louis dợm đứng dậy song bị Ellie níu lại, quýnh quáng giữ lấy tay anh. Trông cô bé có vẻ sợ hãi: “Bố ơi!” , cô bé cố thì thầm nhưng vẫn oang oang. “Bố đi đâu vậy?”

“Bố nằm trong số những người khiêng hòm, con yêu,” Louis đáp, khẽ ngồi xuống cạnh cô bé rồi vòng tay ôm vai cô. “Có nghĩa là bố sẽ giúp đưa bà Norma ra ngoài. Tổng cộng có bốn người thực hiện nhiệm vụ này – bố, hai cháu trai của ông Jud và anh rể của ông.”

“Con sẽ đi đâu để tìm bố ạ?” Khuôn mặt của Ellie vẫn căng thẳng, cứng đờ và sợ hãi.

Louis liếc tới trước. Ba người trong đội khiêng hòm đã tập trung bên cạnh ông Jud. Đoàn viếng dần tản mác, có vài người vẫn nỉ non khóc. Anh trông thấy Missy Dandridge, không còn rơi nước mắt nhưng mắt đỏ hoe, cô giơ một tay lên khẽ chào anh.

“Con chỉ cần ra chỗ bậc thang là được, bố sẽ gặp con ở đó,” anh nói. “Được chứ, Ellie?”

“Vâng,” cô bé đáp. “Bố đừng quên con đấy.”

“Sao mà quên được.”

Anh đứng dậy thì lại bị cô con gái kéo tay lại.

“Bố ơi?”

“Sao nào con yêu?”

“Bố đừng đánh rơi bà,” Ellie thì thầm.

Louis đến chỗ mọi người thì được ông Jud giới thiệu với các cậu cháu trai, vốn là họ hàng cách hai ba đời… là con cháu của em trai bố ông Jud. Hai cậu thanh niên to con tuổi đôi mươi với nét mặt trông giống nhau như tạc. Louis đoán em trai của bà Norma độ cuối tuổi ngũ tuần, và dù trên mặt ông vẫn hằn rõ nỗi đau mất một thành viên trong gia đình, ông vẫn gồng mình ra vẻ rắn rỏi.

“Hân hạnh được gặp mọi người” Louis chào. Anh cảm thấy hơi bối rối khi mình là người ngoài so với quan hệ máu mủ ruột rà của họ.

Họ gật đầu chào anh.

“Ellie ổn chứ?” Ông Jud quan tâm và gật đầu với cô bé. Cô bé lăn tăn đứng ngay cổng quan sát.

Chắc chắn rồi – con bé chỉ muốn đảm bảo cháu không bốc hơi chẳng để lại tăm tích ấy mà, Louis nghĩ thầm và suýt nữa thì mỉm cười. Nhưng rồi suy nghĩ này lại dẫn tới một suy nghĩ khác: Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm. Nụ cười tắt ngúm.

“Vâng, không sao đâu ạ,” Louis đáp và giơ tay lên chào con gái. Cô bé giơ tay đáp lại rồi bước ra ngoài, xúng xính trong chiếc váy xanh. Trong khoảnh khắc, Louis ngột ngạt đứng hình trước vẻ trưởng thành của cô con gái. Ảo giác ấy đủ sức để khiến người ta khựng lại, bất kể nó chóng vánh ra sao.

“Mọi người sẵn sàng chưa?” Một cậu cháu trai cất tiếng.

Louis gật đầu, em trai của bà Norma cũng vậy.

“Nhờ mọi người khiêng nhẹ nhàng nhé,” ông Jud nói. Giọng ông gai góc. Đoạn ông quay đi, chậm rãi bước dọc lối đi, đầu cúi gằm.

Louis đi ra góc đằng sau, phía bên trái cỗ quan tài American Eternal màu thép xám mà ông Jud đã chọn cho bà. Anh nắm lấy tay móc, rồi cả bốn người bọn họ chậm rãi khiêng hòm của bà Norma vào bầu trời sáng trong, tê tái tháng Hai. Ai đó – anh đoán là người coi sóc nhà thờ – đã rải một lớp tro dày lên con đường phủ đầy tuyết trơn trượt. Trưởng dịch vụ đám tang và cậu con trai đô con đứng bên cạnh dõi theo, sẵn sàng giúp đỡ một tay nếu bất cứ ai trong số họ (ví dụ như em trai bà cụ chẳng hạn) bị trượt hay nghiêng ngả.

Ông Jud đứng cạnh anh, nhìn họ đẩy quan tài vào trong xe.

“Vĩnh biệt, bà Norma,” ông nói rồi châm điếu thuốc. “Mai này tôi và bà hội ngộ nhé.”

Louis quàng tay quanh vai ông Jud, còn em trai của bà Norma đứng sát ở phía bên kia, kéo cả người bên dịch vụ tang lễ cùng con trai vào. Hai cậu cháu trai lực lưỡng (hoặc em con chú) đã rời đi, sau khi hoàn thành công việc đơn giản là nâng và khiêng hòm. Hai cậu khá xa cách với họ hàng bên này; có lẽ họ chỉ biết khuôn mặt của bà cụ qua hình chụp và dăm ba cuộc thăm viếng cho phải phép – những buổi chiều dài lê thê lếch thếch phải chôn chân trong phòng khách, ăn bánh quy của bà Norma, uống bia của ông Jud, nghe tai này lọt tai kia những câu chuyện xưa về cái thời họ còn chưa có mặt trên đời, về những người họ chẳng hay biết, đầu óc thì mơ tưởng đến điều đáng lý mình có thể làm lúc này (rửa xe, dùng kem Turtle đánh cho xế hộp bóng loáng, chơi bowling cùng cả đội, hoặc chỉ đơn giản là túm tụm ngồi quanh ti vi xem trận đấu quyền anh với đám bạn), và mừng rơn được rời khỏi đó khi chuyến thăm kết thúc.

Họ hàng phía ông Jud đều đã trở thành người thiên cổ; tựa hồ một mảnh xói mòn trôi dạt khỏi hành tinh mẹ, tiêu hao dần, chỉ còn là hạt bụi. Quá khứ. Những bức hình trong album ảnh. Những câu chuyện xưa cũ tỉ tê trong những căn phòng chừng như quá nóng – họ chưa già, khớp chưa bị viêm, máu chưa bị giảm tiểu cầu. Quá khứ là những kẻ trốn chạy phải chộp lại, mang theo rồi thả ra. Suy cho cùng, nếu cơ thể con người là phong bao chứa đựng linh hồn – những lá thư Chúa gửi vào vũ trụ – như hầu hết nhà thờ truyền dạy, thì quan tài American Eternal là phong bao chứa đựng thể xác, và với hai cậu cháu trai hoặc họ hàng xa này, quá khứ chỉ là lá thư chết cần được cất đi.

Chúa cứu rỗi quá khứ, Louis nghĩ rồi rùng mình chẳng vì lý do gì – ngoài việc rồi một ngày nào đó, anh cũng sẽ xa cách với chính máu mủ của mình như thế, các đời con cháu của em trai anh, hoặc cháu của anh, nếu như anh còn sống thọ đến lúc Ellie và Gage sinh con đẻ cái. Tâm trí anh tập trung sang thứ khác. Dòng tộc ngày một lụi tàn. Những gương mặt thơ trẻ nhìn từ những bức ảnh cũ.

Chúa cứu rỗi quá khứ, anh lại nghĩ rồi siết chặt tay quanh đôi vai của ông cụ.

Những người dẫn đường đặt hoa ra sau xe tang. Cửa sổ đằng sau chiếc xe dần nâng lên rồi đóng cạch vào khớp. Louis quay trở lại chỗ con gái, đoạn hai bố con bước đến chiếc xe Civic, Louis nắm tay Ellie để cô bé không trượt chân trong đôi giày xịn để da. Xe hơi trầm trầm khởi động.

“Sao người ta lại bật đèn xe lên vậy bố?” Ellie ngạc nhiên hỏi. “Sao giữa ban ngày mà lại bật đèn thế ạ?”

“Họ làm thế,” Louis cất tiếng, nghe thấy giọng mình khăn dục, “để tưởng niệm người đã mất, Ellie ạ.” Anh kéo núm bật đèn pha của chiếc Civic. “Đi nào.”

Cuối cùng, hai bố con về nhà sau khi dự lễ trước khi hạ huyệt (thật ra lễ được tổ chức ở nhà thờ Mount Hope; phải đến mùa xuân thì họ mới tiến hành đào huyệt cho bà Norma). Bỗng lúc ấy, Ellie òa lên nức nở.

Louis liếc nhìn con, ngạc nhiên nhưng không quá lo lắng. “Ellie, sao vậy con?”

“Không được ăn bánh nữa rồi,” Ellie giàn giụa nước mắt. “Bánh quy yến mạch bà làm là ngon nhất quả đất. Nhưng giờ bà chẳng làm được nữa, vì bà chết rồi. Bố ơi, tại sao con người lại phải chết ạ?”

“Bố cũng không biết nữa,” Louis nói. “Có lẽ là để nhường chỗ cho bao nhiêu là người mới sinh ra chăng. Những thế hệ sau như con hay em Gage chẳng hạn.

“Con sẽ không bao giờ lấy chồng, quan hệ và sinh con đâu!” Ellie tuyên bố, càng lúc càng bù lu bù loa. “Như vậy có khi con sẽ không phải chịu tình cảnh ấy! Khủng khiếp quá! Đáng sợ quá!”

“Nhưng nó đặt dấu chấm hết cho thống khổ,” Louis ôn tồn. “Là bác sĩ, bố đã chứng kiến rất nhiều thống khổ. Một trong những lý do bố chọn công việc ở trường đại học là vì bố thấy mệt mỏi khi cứ phải mắt thấy tai nghe cảnh tượng đó hết ngày này qua ngày khác. Thanh niên trai tráng cũng hay bị đau… nhiều khi đau khủng khiếp… nhưng nó không giống nỗi thống khổ.”

Anh ngưng một lúc.

“Con có tin không, khi người ta bước qua tuổi già, cái chết tự lúc nào không còn khủng khiếp hay đáng sợ như con nghĩ nữa. Với lại con còn thênh thang những năm tháng phía trước mà.”

Khóc xong, Ellie sụt sịt rồi thôi. Trên đường về nhà, cô bé xin anh bật radio. Louis đồng ý, và cô bé rà được Shakin’ Stevens đang ca bài “Căn Nhà Cũ” trên WACZ. Chốc sau, cô bé lãnh lót hát theo. Khi hai bố con về đến nhà, cô bé chạy đến chỗ mẹ líu lo kể về đám tang; thật khá khen cho Rachel khi cô chỉ im lặng lắng nghe đầy thương cảm và ngậm ngùi… dù Louis nghĩ trông cô khá nhợt nhạt và đăm chiêu.

Đoạn Ellie hỏi mẹ có biết làm bánh quy yến mạch không, nghe đến đấy, Rachel ngừng đan len, cất món đồ sang bên rồi đứng bật dậy như thể trông chờ điều này hoặc điều tương tự từ nãy đến giờ. “Có,” cô nói. “Con muốn làm một mẻ không?”

“Tuyệt vời!” Ellie hét ầm lên. “Được hả mẹ?”

“Nếu bố con trông Gage một tiếng đồng hồ thì được.”

“Để anh trông cho,” Louis nói. “Chuyện nhỏ.”

Louis dành buổi tối đọc và ghi chú một bài báo dài trong tờ Tập san Y học Duquesne; đến hẹn lại lên, cuộc tranh cãi về chỉ phẫu thuật tự tiêu một lần nữa nổ ra. Cuộc đời của số ít những người này chỉ xoay quanh chuyện khâu vết thương thì phải, nó dông dài chẳng thua kém gì ý kiến tâm lý cũ rích mà người ta tranh luận: bẩm sinh hay nuôi dưỡng.

Tối nay, anh định viết một lá thư không theo lẽ thường, chứng minh những luận điểm chính mà tác giả đưa ra hết sức nông cạn, chỉ biết trích ví dụ lợi cho bản thân trong khi nghiên cứu thì tệ lậu đến độ chẳng khác nào tội ác. Tóm lại, Louis kỳ vọng sẽ xóa sổ cái tên ngu độn này khỏi bản đồ – được thế thì chẳng còn gì bằng. Anh đang lục lọi kệ sách tìm cuốn Treatment of Wounds (tạm dịch: Chữa trị Vết thương) của Troutman thì Rachel bước xuống giữa cầu thang.

“Anh lên phòng không, Lou?”

“Chút nữa anh lên.” Anh liếc nhìn cô. “Mọi chuyện ổn chứ?”

“Hai con ngủ say rồi.”

Louis chăm chú nhìn vợ. “Hai con ngủ rồi còn em thì chưa.”

“Em ổn mà. Em đọc sách nãy giờ.”

“Em thấy khỏe thật chứ?”

“Thật,” cô nói, nụ cười nở trên môi. “Em yêu anh, Louis.”

“Anh cũng yêu em.” Anh liếc xuống kệ sách thì trông thấy cuốn sách của Troutman ngay chỗ anh đứng. Louis đặt tay lên cuốn sách.

“Church tha một con chuột vào nhà trong lúc anh và Ellie ra ngoài,” cô nói, cố mỉm cười. “Eo ôi, kinh lắm anh ạ.”

“Chà, Rachel, anh rất lấy làm tiếc.” Anh hy vọng giọng anh không bộc lộ nhiều tội lỗi như cảm giác lúc đó. “Khủng khiếp lắm à?”

Rachel ngồi xuống cầu thang. Trong chiếc váy ngủ flannel màu hồng, khuôn mặt mộc không son phấn, vầng trán căng bóng, tóc buộc đuôi gà đằng sau bằng dây chun, trông cô như một đứa trẻ. “Em xử lý rồi,” cô kể, “nhưng anh biết không, em phải dùng đầu hút bụi để đánh con mèo ngu ngốc vì nó cứ canh chừng… cái xác ấy? Nó gầm gừ lên với em nữa kìa. Ngày trước, Church không bao giờ gầm gừ với em. Gần đây nó lạ quá. Anh có nghĩ nó bị viêm ruột hay gì không, Louis?”

“Không” anh từ tốn nói, “nhưng nếu em muốn thì để anh đưa nó đến bác sĩ thú y.”

“Em nghĩ không sao đâu,” cô nói rồi nhìn thẳng vào anh. “Nhưng anh lên phòng được không? Em hơi… em biết anh đang làm việc, nhưng mà…”

“Được chứ,” anh nói, đứng dậy như thể nó chẳng có gì quan trọng. Mà đúng thật là thế – anh biết giờ đây, lá thư ấy sẽ không bao giờ được viết ra, vì đoàn diễu hành cứ phăm phăm tiến lên, và ngày mai lại mang đến điều mới. Nhưng chẳng phải anh chính là kẻ chuốc lấy con chuột đó sao? Con chuột mà Church tha vào, hẳn bị cào bê bết máu, ruột gan lủng lẳng, có khi còn chẳng có đầu. Phải. Anh đã chuốc lấy nó. Nó là con chuột của anh.

“Mình đi ngủ thôi,” anh nói và tắt đèn. Anh cùng Rachel bước lên cầu thang. Louis vòng tay quanh eo vợ và yêu cô nồng nàn nhất có thể… nhưng ngay cả khi đi vào trong cô, cương cứng, anh vẫn nghe thấy văng vẳng bên tai mình tiếng rền rĩ của mùa đông ngoài khung cửa sổ băng giá, băn khoăn Church, con mèo ngày trước thuộc về con gái anh và giờ thuộc về anh đang lẩn lút ở đâu, đang bám theo giết hại thứ gì. Đất trong tim người cứng hơn đá, anh thầm nghĩ, trong khi gió cứ cất tiếng ca hun hút đắng cay, và cách đó thật xa, bà Norma Crandall, cụ bà từng đan cho hai con của anh cặp mũ đôi, nằm trong quan tài American Eternal màu xám thép trên phiến đá trong hầm mộ Mount Hope; có lẽ đến giờ này, tấm khăn trắng mà người làm dịch vụ tang lễ lèn vào má của bà giờ đã chuyển đen.