Chương 38
Hai người bọn họ ngồi ở bàn bếp với lon bia – lần đầu tiên hai ông cháu uống bia trong bếp nhà mình, Louis nghĩ, thoáng ngạc nhiên. Bỗng vang vọng qua phòng khách tiếng hét của Ellie trong giấc ngủ, khiến cả hai đơ ra như những bức tượng trong bộ trò chơi của trẻ em. Nhưng cô bé la một lần rồi im bặt.
“Vậy…” Louis cất tiếng. “Mười hai giờ mười lăm rồi, ông cất công sang nhà cháu vào buổi sáng hạ huyệt con trai cháu làm gì vậy ạ? Ông là bạn của gia đình cháu, ông Jud ạ, nhưng thế này có hơi quá.”
Ông Jud uống bia, lấy mu bàn tay chùi miệng rồi nhìn trực diện Louis. Đôi mắt ông có gì đó thật rõ nét và quả quyết đến độ lát sau, Louis phải cúi gằm.
“Cháu biết lý do ta đến đây mà,” ông Jud nói. “Cháu đang nghĩ về những điều không được phép nghĩ đến, Louis ạ. Tệ hơn nữa, ta e rằng cháu đang cân nhắc chúng.
“Cháu chẳng nghĩ gì ngoài chuyện vào giường ngủ,” Louis nói. “Ngày mai cháu phải làm lễ hạ huyệt.”
“Ta có một phần trách nhiệm khi khiến cõi lòng cháu chịu nhiều đớn đau hơn vào tối nay,” ông Jud ôn tồn. “Thậm chí ta còn nghĩ ta phải chịu trách nhiệm cho sự ra đi của con trai cháu”
Louis ngẩng lên, thảng thốt. “Sao kia…? Ông Jud, ông nói quàng xiên gì vậy!”
“Cháu đang nghĩ đến chuyện đem thằng bé đến đó,” ông Jud nói. “Đừng phủ nhận suy nghĩ ấy đã lướt qua đầu cháu, Louis ạ.”
Louis không đáp.
“Sức ảnh hưởng của nó bành trướng đến đâu?” Ông Jud hỏi. “Cháu có thể nói cho ta biết được không? Bởi bản thân ta chẳng thể trả lời câu hỏi ấy, và ta đã cắm dùi ở mảnh đất này cả cuộc đời rồi. Ta biết về người Micmac, nơi đó bấy lâu nay luôn được xem là một nơi linh thiêng với họ. nhưng không phải theo nghĩa tốt. Stanny B. bảo với ta như thế. Về sau bố ta cũng nói vậy. Sau khi Spot chết lần thứ hai. Hiện giờ, người Micmac, Bang Maine và chính quyền Hoa Kỳ đang lôi nhau ra tòa tranh luận xem ai sở hữu mảnh đất ấy. Mà suy cho cùng ai là chủ sở hữu kia chứ? Sau bao nhiễu nhương thì giờ chẳng ai biết chắc cả, Louis ạ. Suốt chiều dài lịch sử, hết người này đến người khác tuyên bố mảnh đất thuộc về mình, nhưng chẳng có lời tuyên bố nào dài lâu. Anson Ludlow, cháu chắt của ông tổ thị trấn này chẳng hạn. Lời tuyên bố của ông ta có lẽ là xác đáng nhất với một người da trắng, vì Trưởng lão Joseph Ludlow được Vua Georgie Minh Quân ban tặng tất tần tật từ cái thời Maine chỉ là một tỉnh lớn trong Thuộc Địa Vịnh Massachusetts. Nhưng ngay cả lúc ấy, ông ta phải trầy vi tróc vảy đấu tranh trước tòa, vì lại nảy sinh tranh chấp về quyền sở hữu mảnh đất bởi những người khác trong dòng họ Ludlow, và bởi một người mang tên Peter Dimmart tuyên bố có thể minh chứng rất thuyết phục rằng ông ta cũng là con rơi con rớt của dòng họ Ludlow. Cuối đời, Trưởng lão Joseph Ludlow chẳng rủng rỉnh tiền bạc nhưng ê hề đất đai, và thỉnh thoảng, ông ấy lại nổi hứng tặng đại hai hay bốn trăm mẫu khi xỉn quắc cần câu”
“Không có chứng thư nào được lưu lại sao?” Louis ngạc nhiên hỏi.
“À, thời ông của ta, họ ghi phiên phiến để lưu chứng thư thôi” ông Jud nói, dùng đầu mẩu thuốc lá cũ châm điều mới. “Khế ước đất nhà cháu ban đầu như thế này,” nhắm mắt, ông Jud trích lại: “Từ cây phong cổ thụ trên đỉnh rặng núi Quinceberry đến bờ sông Orrington; tức khoảng đất chạy từ bắc xuống nam.”” Ông Jud cười mà chẳng chút hài hước. “Nhưng cây phong cổ thụ ngã đổ vào năm 1882, đến năm 1900 thì mục ruỗng, phủ đầy rêu, còn sông Orrington thì nghẽn phù sa nên biến thành đầm lầy trong mười năm kể từ khi Thế chiến kết thúc và thị trường chứng khoán sụp đổ. Cuối cùng mọi chuyện như mớ hổ lốn. Mà dù sao, mọi thứ không còn nghĩa lý gì với ông Anson nữa rồi. Ông bị sét đánh chết vào năm 1921, ngay khu chôn cất ấy đấy.”
Louis nhìn ông Jud chằm chằm. Ông hớp ngụm bia.
“Chẳng to tát gì đâu. Khối địa điểm có lịch sử quyền sở hữu rối như mớ bòng bong nên chẳng bao giờ ngã ngũ, chỉ béo cho mấy tay luật sư thôi. Chà, Dickens [16E] thừa biết điều này. Ta đoán cuối cùng, mảnh đất sẽ về tay người da đỏ, theo ta, đó là cách hợp tình hợp lý nhất. Nhưng chuyện đó chẳng quan trọng, Louis ạ. Tối nay, ta đến đây để kể với cháu chuyện Timmy Baterman và bố cậu ta.”
“Timmy Baterman là ai ạ?
“Timmy Baterman là một trong chừng hai mươi thanh niên từ Ludlow rời đất nước đi đánh Hitler. Cậu ấy lên đường năm 1942 để rồi trở về trong hộp phủ lá cờ năm 1943. Cậu hy sinh ở Ý. Ông bố Bill Baterman sống cả đời ở thị trấn này. Khi nhận được điện, ông cụ như phát điên… nhưng sau đó, ông ấy dịu lại. Số là ông cụ cũng biết khu đất chôn cất của người Micmac. Và ông ấy quyết chỉ làm điều mình muốn.
Sống lưng anh lạnh ngắt. Louis chằm chằm nhìn ông Jud hồi lâu, cố lần mò sự dối trá trong mắt ông cụ. Không có. Nhưng việc câu chuyện xuất hiện lúc này sao mà đúng thời điểm quá.
“Sao đêm hôm nọ ông không kể với cháu chuyện này?” Mãi sau anh mới lên tiếng. “Sau khi chúng ta… sau khi chúng ta xử con mèo? Khi cháu hỏi ông có ai từng chôn người ở đây chưa, ông bảo chưa.”
“Vì lúc đó cháu không cần biết,” ông Jud đáp. “Nhưng giờ thì cần.”
Louis im lặng hồi lâu. “Đó là người duy nhất ạ?”
“Người duy nhất ta biết trên phương diện cá nhân,” ông Jud nghiêm trang đáp. “Người duy nhất từng thử sao? Ta không nghĩ vậy, Louis ạ. Ta thực sự không nghĩ vậy. Ta giống như Người Thuyết giáo trong Sách Giảng viên – ta cho rằng chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời. Ô, thỉnh thoảng thứ lấp lánh họ rắc bên trên thay đổi, nhưng chỉ thế mà thôi. Điều chi đã từng làm, ấy là điều trước đó cũng từng làm… không chỉ một lần… mà rất nhiều lần.”
Ông nhìn xuống bàn tay lấm tấm đồi mồi. Đồng hồ trong phòng khách điểm mười hai giờ ba mươi.
“Ta biết người làm trong ngành như cháu đã quen với việc xem xét các triệu chứng và chẩn đoán ra căn bệnh… nên ta quyết định phải thẳng thắn trao đổi với cháu khi ông Mortonson ở nhà tang lễ nói với ta rằng cháu đặt quách nắp đậy thay vì loại quách hàn kín chống chịu tốt.”
Louis trân trân nhìn ông Jud hồi lâu, lặng thinh không nói một lời. Mặt phừng phừng nhưng ông cụ không quay đi.
Cuối cùng, Louis lên tiếng: “Xem ra ông có hơi tọc mạch vào chuyện của cháu thì phải, ông Jud. Cháu rất lấy làm tiếc vì việc đó.”
“Ta không hỏi ông ấy cháu mua quách gì.”
“Không hỏi thẳng phải không ạ?”
Nhưng ông Jud không đáp, và mặc dù mặt ông càng lúc càng đỏ lựng – nước da ông đang chuyển sang màu mận chín – cặp mắt vẫn không hề nao núng.
Hồi sau, Louis thở dài. Anh thấy mệt khôn tả. “Ôi khốn thật. Cháu cóc cần biết. Có lẽ ông nói đúng. Có lẽ suy nghĩ ấy đã hiện lên trong đầu cháu. Nếu có thì chắc nó hiện lên trong phần tâm trí mụ mị của cháu. Cháu chẳng nghĩ nhiều khi đặt quách. Cháu chỉ nghĩ về Gage thôi.”
“Ta biết cháu nghĩ về Gage. Nhưng cháu biết điểm khác biệt. Cậu của cháu làm dịch vụ lễ tang mà.”
Phải, anh biết điểm khác biệt. Quách hàn kín là dạng quách được thi công để có độ bền suốt quãng thời gian dài, rất dài. Bê tông được đổ vào khuôn chữ nhật có các thanh sắt gia cố, sau khi lễ truy điệu kết thúc, cần trục sẽ hạ nắp quách cong cong lên trên. Nắp quách được hàn kín bằng một loại chất giống như chất bộ phận sửa chữa cao tốc sử dụng để lấp ổ gà. Cậu Carl từng bảo với Louis rằng chất hàn kín này – tên hãng là Ever-Lock — có độ chắc đáng gờm sau khi chịu sức nặng cỡ đó suốt khoảng thời gian dài.
Giống mọi người, cậu Carl vốn thích kể chuyện trên trời dưới biển (chí ít là khi cậu ở với đồng nghiệp, mà Louis đã làm với cậu suốt mấy mùa hè, nên anh đủ tiêu chuẩn làm nhân viên dịch vụ tang lễ tập sự), và lần nọ, cậu kể cho đứa cháu trai của mình là anh nghe về ủy thác khai quật từ văn phòng công tố viên hạt Cook. Cậu Carl đến Groveland để giám sát quá trình khai quật. Việc này lắm lúc cũng rắc rối, cậu kể – nhiều người chỉ biết sơ sơ về đào mả qua những bộ phim kinh dị có tài tử Boris Karloff đóng vai Frankenstein và Dwight Frye thủ vai Igor nên hiểu biết hoàn toàn lệch lạc. Hai người đàn ông chỉ trang bị cuốc và xẻng đừng hòng mở được một quách hàn kín — trừ khi họ dành ra sáu tuần cho công việc này. Ban đầu, việc đào mả diễn ra rất ổn. Sau khi đào huyệt, cần trục móc vào nắp vòm của quách. Có điều nắp quách lại không bung ra như kỳ vọng. Cả cái quách với các mặt bê tông hơi ướt và bạc màu bắt đầu rời khỏi mặt đất. Cậu Carl hét lên bảo người điều khiển cần trục thả quách về chỗ cũ, vì cậu toan quay lại nhà xác lấy vài món đồ nghề để làm chất hàn dính nhả ra bớt.
Chẳng biết người điều khiển cần trục không nghe rõ hay muốn nâng phứt cả cái quách cho rồi, như đứa trẻ di chuyển cần trục để gắp đồ chơi trong khu giải trí trả tiền xu. Cậu Carl bảo gã chết toi ấy sắp sửa thì thành công. Quách đã nhấc ra ngoài được ba phần tư thì cậu và người trợ lý nghe thấy tiếng nước tong tỏng chảy từ đáy quách xuống huyệt — tuần đó toàn bộ vùng đô thị Chicago rất ướt át — thì cần trục bị nghiêng và đổ đánh rầm xuống mộ. Tay điều khiển cần trục đập thẳng vào kính chắn gió, gãy mũi. Màn tưng bừng của ngày hôm ấy khiến Hạt Cook phải rút hầu bao thêm 3.000 – nhiều hơn giá dịch vụ bình thường 2.100 đô la. Điểm nhấn chính khi cậu Carl kể câu chuyện này là sáu năm sau, tay điều khiển cần trục ấy trở thành Chủ tịch Hiệp đoàn Tài xế Xe tải Chicago.
Quách nắp đậy đơn giản hơn. Loại quách này chỉ là hộp bê tông mở nắp. Vào buổi sáng ngày tổ chức tang lễ, quách được đưa xuống huyệt. Sau khi hoàn tất các thủ tục, quan tài được hạ xuống quách. Rồi người trông nom nghĩa trang sẽ đặt nắp quách lên trên, được chia nhỏ thành hai hay ba khối.
Những khối này được hạ dọc xuống các góc huyệt, ở đó chúng dựng đứng như những kệ chắn sách quái dị. Ở đầu mỗi tảng được gắn các vòng sắt. Người trông nom nghĩa trang sẽ luồn dây xích qua vòng sắt rồi nhẹ nhàng hạ chúng lên nóc quách. Mỗi khối nặng chừng hai mươi lăm, có thể là ba chục kí – cùng lắm thì ba mươi lăm. Và không dùng keo dính.
Rất dễ để một người mở nắp quách ra, đó là điều ông Jud ngụ ý.
Rất dễ để một người đào xác con trai mình lên rồi đem chôn chỗ khác.
Suỵt... suỵt. Đừng nhắc tới những chuyện đó. Chúng là những điều bí mật.
“Phải, đúng là cháu biết sự khác biệt giữa quách hàn kín và quách đậy nắp,” Louis nói. “Nhưng cháu không nghĩ đến… đến điều mà ông cho rằng cháu đang nghĩ.”
“Louis…”
“Khuya rồi,” Louis nói. “Khuya rồi, cháu đã say, cõi lòng thì tan nát. Nếu ông nhất quyết muốn kể cho cháu câu chuyện này bằng được, thì ông kể cho xong đi.” Đáng lý ban nãy mình phải uống martini mới đúng, anh thầm nhủ. Để khi ông cụ qua gõ cửa, mình đã bất tỉnh không biết trời trăng mây đất là gì .
“Được rồi, Louis. Cảm ơn cháu.”
“Ông kể đi.”
Ông Jud tư lự một thoáng, ngẫm nghĩ rồi bắt đầu cất tiếng.