← Quay lại trang sách

Chương 39

“Ngày xưa – ý ta là thời chiến – tàu lửa vẫn dừng ở Orrington, và Bill Baterman sắp xếp một xe tang ở kho chất hàng để đón toa hàng chở xác Timmy, cậu con trai của ông ấy. Quan tài được bốn nhân viên đường sắt khiêng xuống, trong đó có ta. Có một quân binh trên tàu trực thuộc bộ phận Mồ mả và Đăng ký – đây là phiên bản của những người làm dịch vụ lễ tang trong quân đội thời chiến, Louis ạ – nhưng ông ấy chẳng bước xuống tàu. Ông ta say xỉn ngồi trong toa tàu vẫn xếp đến mười hai quan tài.

“Chúng ta đặt Timmy vào sau chiếc xe tang Cadillac – thời đó, chẳng có gì lạ tai khi người ta gọi những chiếc xe này là xe hàng vội vàng, vì ngày xưa, vấn đề lớn nhất, Louis ạ, là kịp hạ huyệt trước khi thi thể thối rữa. Bill Baterman đứng như chôn chân, khuôn mặt đanh lại và… ta chẳng biết nữa… có hơi khô khốc, chắc đây là từ mô tả chuẩn nhất. Ông ta không rơi lấy một giọt lệ nào. Hôm ấy, Huey Garber là người lái tàu, ông ấy kể tay quân binh đúng là có dịp lên rừng xuống biển. Huey bảo họ bay với đống hòm ấy đến Limestone ở Presque Isle, sau đó cả quan tài và người trông hòm lại lên tàu hỏa xuôi về phương Nam.

Tay quân binh bước về phía Huey, lôi từ trong áo khoác nhà binh chai rượu whisky lúa mạch đen ba xị, rồi nói bằng cái giọng miền Nam ngân nga, ‘Chà, thưa ông kỹ sư, hôm nay ông lái con tàu bí ẩn, chẳng hay ông có biết không?

Huey lắc đầu.

‘Chà, có đấy. Ở Alabama, nơi tôi chôn rau cắt rốn, người ta gọi tàu tang như vậy.’ Huey kể đoạn tay quân binh lấy ra khỏi túi một danh sách rồi nheo mắt nhìn. ‘Trước nhất, chúng ta giao hai hòm ở Houlton, sau đó tôi chuyển một hòm ở Passadumkeag, hai hòm ở Bangor, một hòm ở Derry, một hòm ở Ludlow, cứ thế. Tôi thấy mình cứ như thằng giao sữa ấy, mẹ kiếp. Anh làm một hớp không?

Chà, Huey từ chối lời mời với lý do chính quyền Bangor và Aroostook không nương tay với việc nhân viên lái xe lửa có mùi cồn trong hơi thở, tay quân binh không lấy làm phật ý với Huey, giống như Huey chẳng hề phật lòng khi thấy tay quân binh chuếnh choáng hơi men. Thậm chí cả hai còn đồng bệnh tương liên, Huey bảo như thế.

Thế rồi họ lên đường, ở mỗi điểm dừng chân, họ lại giao những chiếc quan tài bọc cờ. Cả thảy có mười tám hay hai mươi hòm gì đấy. Huey bảo họ cứ thế lên đến tận Boston, và dừng ở đâu, họ lại nghe tiếng khóc than, rền rĩ của gia quyến ở đấy, chỉ trừ Ludlow… và ở Ludlow, đập vào mắt ông là hình ảnh Bill Baterman, mà theo như lời ông kể, nhìn bộ dạng người bố như đã chết trong lòng, chỉ còn đợi linh hồn mình thối hoẵng lên mà thôi. Khi xuống xe lửa, ông kể mình đã đánh thức tay quân binh và hai bọn họ để làm vài ly – chừng mười lăm hay hai chục ly gì đấy – Huey say túy lúy hơn bao giờ hết rồi tìm đến gái làng chơi, một hành vi cả đời ông chưa từng làm, sau đó tỉnh dậy với phần bộ hạ bị chấy rận đốt sưng vù đến độ run cầm cập, và ông bảo nếu người ta gọi đây là con tàu bí ẩn thì ông xin tởn đến già.

Thi thể của Timmy được đưa đến Nhà Tang lễ Greenspan trên đường Fern – ngày xưa nó nằm đối diện nơi tiệm giặt New Franklin tọa lạc hiện tại — và hai ngày sau được an táng ở nghĩa trang Pleasantview theo nghi lễ quân đội.

Chà, để ta kể cháu nghe, Louis: Vợ của Baterman từ giã cõi đời trước đó mười năm cùng đứa con thứ hai trong lúc sinh nở, điều này đã tác động lớn đến những gì xảy ra. Nếu có đứa con thứ hai thì nỗi đau đớn phần nào nguôi ngoai rồi, cháu có thấy thế không? Đứa con thứ hai sẽ gợi nhắc ông Bill già rằng vẫn còn người khác dằn vặt trong mất mát ấy và cần được đùm bọc để vượt qua tang thương. Ta đoán xét đến mặt này, cháu may mắn hơn khi còn một đứa con bên cạnh. Vợ và con gái cháu vẫn còn sống khỏe mạnh.

Theo bức thư mà ông Bill nhận được từ trung úy phụ trách trung đội của con trai ông, Timmy bị bắn chết trên đường đến Rome vào ngày 15 tháng 7 năm 1943. Hai ngày sau, thi thể của cậu được chuyển về gia đình và đến Limestone vào ngày 19. Ngay ngày hôm sau, thi thể được vận chuyển trên con tàu bí ẩn của Huey Garber. Hầu hết các binh sĩ ngã xuống ở châu Âu đều được chôn cất ở châu lục này, nhưng tất cả những thi thể được vận chuyển về nhà trên con tàu ấy là trường hợp đặc biệt – Timmy chết trong khi đang tấn công công sự súng máy và về sau được truy tặng huân chương Sao Bạc.

Nếu ta nhớ không lầm thì Timmy được chôn cất vào ngày 22 tháng 7. Chừng bốn, năm ngày sau, cô bưu tá Marjorie Washburn trông thấy Timmy leo lên con dốc về phía Chuồng nuôi ngựa York. Chà, suýt chút nữa thì Margie lái xe trật khỏi đường, lý do vì sao thì chắc cháu biết rồi đấy. Cô trở lại bưu điện, thả túi da đựng những bưu phẩm chưa giao lên bàn của ông George Anderson, báo với ông rằng cô sẽ về nhà nằm nghỉ một giấc.

‘Margie, cô ốm à?’ Ông George hỏi. ‘Mặt cô cắt không còn giọt máu.

‘Tôi vừa được phen khiếp vía đây, và tôi không muốn nhắc lại việc đó, Margie Washburn đáp. “Tôi sẽ không hé răng với Brian về chuyện này, hay mẹ tôi hay bất cứ ai. Mai này khi tôi lên thiên đàng, nếu Chúa có bảo tôi kể với Người thì may ra tôi mới tiết lộ. Nhưng tôi không tin nổi.’ Dứt lời, cô ra về.

Tất cả mọi người đều biết Timmy đã qua đời, bởi một tuần trước đó, trên tờ Nhật báo Bangor và tờ Ellsworth American có đăng cáo phó kèm cả hình ảnh, nửa thị trấn này đến viếng, đưa tiễn cậu về nơi an nghỉ trên thành phố. Vậy mà Margie lại thấy cậu ta đi trên con dốc — lảo đảo đi lên dốc, mãi sau này mới kể với ông George Anderson – nhưng đó là hai mươi năm sau, khi bà đã gần đất xa trời, và ông George nói với ta rằng ông cảm thấy bà bứt rứt muốn kể với ai đó cảnh tượng mình đã thấy. Ông bảo chừng như việc đó đã giày vò tâm khảm bà bấy lâu.

“Bà kể cậu ta trông nhợt nhạt, vận quần cotton dệt chéo cũ và áo đi săn vải flannel, trong khi hôm ấy dưới bóng râm, nhiệt độ cũng lên đến hơn ba mươi độ C. Margie bảo tóc tai cậu ta dựng đứng đằng sau như thể cả tháng trời chưa lấy lược chải. ‘Hai con mắt chẳng khác nào nho khô gắn lên bột nhào bánh mì. Hôm ấy tôi đã thấy ma, George ạ. Đó là điều làm tôi sợ nhất. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ thấy ma, vậy mà nó lại hiện ra trước mặt.

Chà, cả thị trấn xì xào to nhỏ với nhau. Chẳng mấy chốc có thêm một số người nhìn thấy Timmy. Cô Stratton chẳng hạn – chà, bọn ta gọi là “cô” nhưng theo như lời mọi người, chẳng rõ cô ấy độc thân, đã ly hôn hay chồng đi biệt xứ; cô có căn nhà nhỏ gồm hai phòng ở khúc giao đường Pedersen với đường Hancock, cô sở hữu rất nhiều đĩa nhạc jazz và thỉnh thoảng, cô sẵn lòng mở bữa tiệc con nếu ta có tờ mười đô chưa tã nát. Tóm lại, cô trông thấy cậu ta từ hiên nhà, cô kể cậu ta bước thẳng lên lề đường rồi dừng ngay đó.

“Theo lời cô, cậu ta cứ đứng đó, hai tay buông thõng, đầu rướn tới trước một chút, cằm chìa ra như tay đấu sĩ quyền anh sẵn sàng dập mặt đo đất. Cô ngẩn ra đứng trên hiên, tim đập điên cuồng trong lồng ngực, sợ đến cứng người. Đoạn cậu ta quay đi, chẳng khác nào một gã say đang cố gắng làm hành động quay đằng sau. Một chân đánh ra ngoài, chân còn lại xoay chiều, suýt chút nữa ngã lăn quay. Cô kể cậu ta nhìn thẳng vào cô, khiến cô bủn rủn không còn chút sức lực, đánh rơi giỏ đồ vừa giặt làm quần áo rơi ra đất, dây bẩn hết cả.

“Cô ấy bảo đôi mắt cậu ta… cô ấy bảo đôi mắt ấy trông chết chóc và bụi bặm như hòn bi, Louis ạ. Nhưng cậu ta đã thấy cô… rồi cậu ta cười… cô kể cậu ta còn nói chuyện với cô. Hỏi cô còn mấy đĩa hát năm nào không, để có dịp cậu ta nhảy đầm cùng cô. Ngay tối đó cũng được. Sau đó cô Stratton vào trong nhà và không bước ra ngoài gần cả tuần lễ, dù sao đến lúc ấy, chuyện cũng đã kết thúc.

“Không ít người trông thấy Timmy Baterman. Nhiều người trong số họ giờ đã qua đời – ví dụ như cô Stratton, còn những người khác đã chuyển đi nơi khác, nhưng vẫn còn dăm ba ông già bà cả như ta để kể lại câu chuyện… nếu cháu biết hỏi đúng cách.

“Để ta bảo cháu nghe, họ trông thấy cậu ta đi tới đi lui trên đường Pedersen, từ nhà bố cậu ta chừng cây số rưỡi về phía Đông, cây số rưỡi về phía Tây. Cứ đi tới đi lui, đi tới đi lui cả ngày, và có người phát hiện cậu ta đi cả đêm. Áo không đóng thùng, mặt trắng bệch, tóc tai dựng ngược, thỉnh thoảng còn chẳng kéo khóa quần, với vẻ mặt cứ như… vẻ mặt…”

Ông Jud dừng lại để châm thuốc, đến lúc đó, Louis cất tiếng.

“Ông có từng nhìn thấy người đó không?”

Ông cụ phẩy tắt que diêm rồi nhìn Louis qua làn khói xanh hư ảo. Và mặc dù câu chuyện điên rồ tột bậc, trong mắt ông Jud không hàm chút dối trá.

“Có, ta có thấy. Chắc cháu cũng biết có những câu chuyện hay phim ảnh – ta chẳng rõ có thật hay không – về thây ma ở Haiti. Trong phim họ cứ lê lết, mắt nghếch thẳng lên trời, đi chậm như rùa, có phần lóng ngóng. Timmy Baterman cũng giống vậy, Louis ạ, như thây ma trong phim, nhưng không phải . Vẫn còn thứ khác. Vẫn còn thứ gì đó ẩn đằng sau đôi mắt, thỉnh thoảng thấy, thỉnh thoảng không. Có thứ gì đó ẩn đằng sau đôi mắt hắn ta, Louis ạ. Ta nghĩ gọi đó là tư duy thì không chuẩn. Mà ta cũng chẳng biết nên gọi thế nào.

“Hành vi của hắn ẩn chứa sự ranh ma. Như lúc hắn bảo cô Stratton hắn muốn nhảy đầm với cô. Có gì đó trong đầu hắn, Louis ạ, nhưng ta không nghĩ đó là tư duy, và ta cho rằng con người thật của Timmy Baterman đã không còn, có khi biến mất hoàn toàn. Nó giống như… như tín hiệu radio phát ra từ đâu đó. Nếu nhìn thấy hắn, thể nào cháu cũng nghĩ, ‘Nếu hắn chạm vào mình, mình sẽ hét lên mất.’ Giống vậy đấy.

“Hắn cứ đi tới đi lui, hết lên dốc lại xuống dốc, và một ngày nọ, khi ta đi làm về — ta nhớ mang máng là ngày 30 tháng 7 thì phải – thì ta thấy ông George Anderson, cái ông quản lý bưu điện ấy, ngồi trên hiên sau nhà ta, uống trà đá với ông ủy viên hội đồng nhân dân Hannibal Benson và Alan Purinton, trưởng phòng phòng cháy chữa cháy. Bà Norma cũng ngồi đó nhưng chẳng nói một lời.

“George cứ xoa xoa chỗ cụt bên chân phải. Ông ấy mất gần hết cẳng chân khi làm đường sắt, và vào những ngày nóng ẩm, chỗ cụt hành ông rất dữ. Nhưng ông vẫn sống tiếp, dù khốn khổ hay không.

‘Chuyện này đi xa quá rồi, Ông George bảo với ta. ‘Cô bưu tá dưới trướng tôi không chịu giao thư trên đường Pedersen là một nhẽ. Nhưng khiến chính phủ nháo nhào lại là một nhẽ khác.”Ông bảo chính phủ nháo nhào là sao?’ Ta hỏi.

Hannibal kể ông nhận được một cuộc gọi từ Bộ Chiến tranh. Một trung úy tên Kinsman có nhiệm vụ phân tách những mối nguy hại với hành vi phá bĩnh thông thường. ‘Bốn, năm người đã viết thư nặc danh cho Bộ Chiến tranh, Hannibal nói, và vị trung úy này bắt đầu sinh nghi. Nếu chỉ có một người viết một lá thư thì họ sẽ xem đấy như trò cười. Nếu chỉ có một người soạn cả đống thư, Kinsman bảo ông ta sẽ gọi cho Cảnh sát tiểu bang ở Doanh trại Derry báo cáo có khả năng một tên tâm thần căm ghét gia đình nhà Baterman sống ở Ludlow. Nhưng những lá thư này lại từ những người khác nhau. Ông ấy bảo nhìn vào chữ viết tay, đề tên hay không đề tên là biết, và họ đều nói cùng một điều điên rồ – rằng nếu Timothy Baterman đã chết thì hắn đang là xác chết biết cử động, đi tới đi lui đường Pedersen với khuôn mặt rành rành ra đấy.

“Ông Kinsman này sẽ cử quân binh đến hoặc đích thân đến đây nếu chuyện này không lắng xuống, Hannibal chốt lại. ‘Họ muốn xác nhận xem Timmy đã chết, đào ngũ hay thế nào, vì họ không chấp nhận việc hồ sơ quân đội mà bát nháo chi khươn. Với lại họ muốn biết người nằm trong hòm của Timmy Baterman là ai nếu không phải đương sự.

“Dứt lời, Hannibal lấy tấm vải chít đầu lau mồ hôi trán.

“Chà, cháu thấy tình hình bung bét thế nào rồi đấy, Louis. Chúng ta ngồi đó gần cả tiếng đồng hồ, vừa uống trà đá vừa bàn luận. Bà Norma hỏi chúng ta có muốn ăn bánh mì kẹp không nhưng chẳng ai còn bụng dạ nào nuốt nổi. Lạy Chúa, chuyện Timmy Baterman chẳng khác nào chuyện phát hiện một phụ nữ có ba quả bưởi… cháu biết nó cứ sai sai, nhưng biết làm thế nào kia chứ?

“Chúng ta cứ bàn đi bàn lại, rốt cuộc chúng ta quyết định phải đến nhà Baterman. Ta sẽ chẳng bao giờ quên được buổi tối hôm ấy, ngay cả khi ta sống gấp đôi tuổi hiện giờ. Tối đó, trời nóng vô cùng, nóng hơn cả bản lề cửa hỏa ngục ấy chứ, mặt trời xuống núi như xô lòng mề đằng sau đám mây. Chẳng ai muốn đi, nhưng đó là việc phải làm. Bà Norma biết điều này trước tất cả chúng ta. Bà ấy kiếm cớ kéo ta vào trong rồi bảo, ‘Ông đừng để họ dùng dằng rồi bỏ dở, ông Judson ạ. Ông phải xử lý cho xong việc này. Đó là thứ đáng tởm.”

Ông Jud nhìn Louis với ánh mắt thăm dò.

“Bà ấy gọi như thế đấy, Louis. Từ bà ấy dùng là thứ đáng tởm. Và bà ấy thì thầm vào tai ta thế này, ‘Nếu phát sinh biến, ông Jud, hãy bỏ chạy. Cứ mặc kệ mấy người kia; thân ai người nấy phải tự lo. Hãy nhớ đến tôi và co giò chạy ngay khỏi đó nếu có chuyện xảy ra.”

“Thế là chúng ta đi xe của Hannibal Benson – ta chẳng hiểu sao mà tên khốn ấy có đầy tem phiếu hạng A. Chẳng ai nói gì, nhưng cả bốn người rít thuốc như ống khói. Chúng ta sợ lắm, Louis, sợ đến cực độ. Người duy nhất mở miệng là Alan Purinton. Ông ấy bảo với George rằng, ‘Gần đây Bill Baterman lén lút làm trò gì đó trong rừng phía Bắc Tuyến số 15, tôi dám đảm bảo như thế.’ Không ai đáp lại, nhưng ta nhớ ông George có gật đầu.

“Chậc, rồi chúng ta đến nơi, Alan gõ cửa song không có người trả lời, thể là bọn ta vòng ra đằng sau và trông thấy hai bố con nhà ấy. Ông Bill Baterman khòm lưng ngồi đấy với ly bia, còn Timmy đứng ở cuối sân, ngước mắt nhìn vầng dương đỏ rực như máu dần buông. Cả mặt hắn phả màu cam như thể bị lột da khi còn sống nhăn. Bill thì… trông ông ta như thể bị ma quỷ bắt mất sau bảy năm ròng rã. Ông ấy như bơi trong bộ đồ, và ta đoán ông ấy phải sút mất gần hai mươi ki-lô-gam. Mắt ông trũng sâu đến mức chẳng khác nào hai con thú nhỏ rúc trong hang… mép miệng bên trái thì cứ chậc-chậc-chậc liên hồi. Trông ông ta như bệnh nhân đang bị ung thư tác oai tác quái trong người.”

Ông Jud ngừng nói, chừng như cân nhắc gì đó, đoạn khẽ gật đầu. “Louis ạ, trông ông ta như bị nguyền rủa. Timmy quay đầu nhìn chúng ta rồi toét miệng cười. Nội nhìn nụ cười đó đã đủ để ta muốn hét lên thất thanh rồi. Đoạn hắn ta quay đi, tiếp tục nhìn vầng dương khuất bóng. Bill bảo, ‘Tôi không nghe thấy các người gõ cửa,’ tất nhiên đó là lời nói dối trắng trợn, bởi Alan gõ cửa mạnh đến độ đủ đánh thức cả… đánh thức cả kẻ điếc.

“Xem chừng chẳng ai định lên tiếng nên ta bảo, ‘Bill, tôi nghe tin con trai ông tử trận ở Ý.

“Đó là nhầm lẫn,’ ông ta đáp, nhìn thẳng vào ta.

“Vậy sao?’ Ta hỏi.

“Anh không thấy nó đứng ngay kia sao?’ Ông ta nói.

“Vậy theo ông, ai là người nằm trong quan tài chôn cất ở Pleasantview?’ Alan Purinton cật vấn.

“Tiên sư, sao ta biết được, Bill đáp, và tiên sư, ta chẳng quan tâm.’ Đoạn ông ta đi lấy điếu thuốc nhưng đánh rơi chúng xuống hiên sau, rồi lại làm nát hai, ba điếu khi cố nhặt lên.

“Chắc sắp sửa quật mộ lên đấy,” Hannibal nói. ‘Ông biết điều đó chứ? Tôi nhận được cuộc gọi từ cái đám chết toi bên Bộ Chiến Tranh, Bill ạ. Họ muốn xác nhận xem họ có chôn nhầm con trai bà mẹ nào đó dưới cái tên của Timmy không.”

“Chà, cái quái gì thế hả?’ Bill lớn tiếng. ‘Liên quan gì đến ta? Con trai ta sờ sờ ra đấy. Hôm nọ, Timmy trở về nhà. Nó gặp chuyện kinh hoàng hay sao đó nên hơi lạ kỳ, nhưng nó sẽ sớm bình thường lại thôi.

“Thôi đi, ông Bill, ta nói, và bỗng dưng ta phát cáu với ông ta. ‘Đến lúc họ quật cái quan tài Quân đội ấy lên, họ sẽ phát hiện nó trống không, trừ khi ông cất công chất đá vào hòm sau khi ông lấy xác con trai ông ra, nhưng tôi không nghĩ ông rảnh đến thế. Tôi biết chuyện đã xảy ra, ba người Hannibal, George và Alan đứng đây cũng biết, bản thân ông cũng thừa biết. Ông thậm thụt làm trò trong rừng, Bill ạ, và ông đã rước họa vào thân cũng như vào cái thị trấn này đấy.

“Chắc các người biết lối ra nhỉ, ông ta nói. “Ta không có nghĩa vụ giải thích hay thanh minh thanh nga gì với các người. Khi ta nhận được điện tín, bao sức sống như vụt khỏi người ta như nước tiểu chảy xuống chân. Nhưng giờ con trai ta trở về rồi. Họ không có quyền cướp nó đi. Nó mới mười bảy tuổi. Mẹ nó ra đi, để lại mỗi nó cho ta, và mẹ kiếp, điều đó là phạm pháp. Thế nên kệ mẹ Quân đội, kệ mẹ Bộ Chiến tranh, kệ mẹ cái Hợp chủng quốc Hoa Kỳ này, và kệ mẹ cả đám các người. Con trai ta về rồi. Nó sẽ sớm tỉnh ra thôi. Đây là tất cả những gì ta muốn nói. Giờ thì các người cuốn xéo ra khỏi đây ngay.

“Miệng ông ta cứ chậc chậc chậc liên hồi, mồ hôi vã ra như tắm trên trán, và đó là lúc ta nhận ra ông ta đã phát điên. Nếu phải sống với… với thứ đó, chắc ta cũng phát điên mất.”

Louis cảm thấy buồn nôn trong bụng. Anh nốc quá nhiều bia. Chút nữa thể nào anh cũng ra bã cho mà xem. Cảm giác nặng nề, chướng bụng báo hiệu với anh chẳng mấy chốc nó sẽ trào lên.

“Chà, bọn ta cũng chẳng làm được gì nữa nên đành ra về. Hannibal bảo, ‘Bill, cầu Chúa giúp ông.

“Bill đáp, ‘Chúa chẳng bao giờ giúp ta. Là ta tự giúp mình.

“Bỗng lúc ấy, Timmy bước về phía chúng ta. Tới cả cách bước đi mà hắn còn làm sai, Louis ạ. Hắn bước đi như ông già, già khọm. Hắn giơ một chân lên cao rồi hạ nó xuống, lê tới trước, sau đó nhấc chân còn lại lên. Trông cứ như một con cua đang bò vậy. Tay hắn buông thõng xuống chân. Và khi hắn đến đủ gần, ta có thể thấy những vết màu đỏ xéo dọc mặt hắn, giống mụn hay những vết phỏng nhỏ. Ta đoán đó là chỗ khẩu súng máy Kraut bắn trúng. Hẳn suýt nữa thì bắn vỡ đầu.

“Và hắn sực mùi huyệt mộ. Thứ mùi ấy đen đúa, tựa hồ tất cả mọi thứ bên trong hắn đang nằm đó, đen đúa, thối rữa, mục nát. Ta thấy Alan Purinton phải đưa một tay lên che mũi và miệng. Mùi hôi cực kỳ khủng khiếp. Đến độ nếu có thấy giòi bọ dưới mồ nhung nhúc trong tóc hắn thì cũng chẳng có gì là lạ…”

“Thôi,” Louis khàn giọng. “Cháu nghe vậy đủ rồi.”

“Chưa đâu,” ông Jud đáp. Ông cụ hốc hác nói với vẻ chân thành. “Là vậy đấy, cháu chưa nghe đủ đâu. Đấy là ta chưa tả được nó khủng khiếp đến mức nào. Chẳng ai hiểu nổi nó kinh khủng ra sao trừ khi trực tiếp có mặt tại đó. Hắn ta chết rồi , Louis ạ. Thế mà hắn vẫn sống. Và hắn… hắn… hắn biết một số chuyện.”

“Một số chuyện”

“Phải. Hắn chằm chằm nhìn Alan suốt một lúc lâu, hơi toe toét cười – bởi chúng ta có thể thấy hàm răng của hắn – đoạn hắn cất giọng thật trầm, làm ta phải rướn người tới trước mới nghe thủng. Nghe như thể trong thanh quản hắn chứa sỏi. ‘Vợ ông lên giường với gã đồng nghiệp ở nhà thuốc chỗ ả làm việc đấy, Purinton. Ông nghĩ sao về chuyện này? Khi nào lên đỉnh, ả cũng hét ầm lên. Ông nghĩ sao về chuyện này?”

“Alan chỉ biết há hốc, và rõ ràng chuyện này với ông ấy chẳng khác nào sấm động trời quang. Hiện giờ, Alan đang ở trong viện dưỡng lão trên Gardener, hoặc chí ít lần cuối ta nghe tin là thế – chắc ông ấy cũng phải gần chín mươi rồi. Ngày đó, lúc chuyện này xảy ra, ông ấy tầm ngũ tuần, và người ta cũng bắt đầu dị nghị người vợ thứ hai của ông. Cô này là em họ cách bốn đời của ông, đến sống với Alan và Lucy, người vợ đầu của ông trước chiến tranh. Chà, Lucy qua đời, và chừng một năm rưỡi sau, Alan tục huyền với cô này. Tên cô ta là Laurine. Khi họ kết hôn, cô ta chưa tới hai mươi tư tuổi. Thiên hạ ít nhiều đàm tiếu. Cánh đàn ông bảo cô ta hơi phóng khoáng, thông thoáng rồi chẳng nói gì sâu hơn. Nhưng phụ nữ thì nghĩ cô ta dễ dãi. Có lẽ trong đầu Alan cũng đã nảy sinh những suy nghĩ theo hướng này, bởi ông quát: ‘Câm mồm! Câm mồm kẻo ta cho ngươi đo ván bây giờ, mặc kệ ngươi là giống gì!

“Im nào, Timmy, ông Bill nói, trông ông ta còn tệ hại hơn, như thể sắp sửa nôn mửa hay bất tỉnh nhân sự hoặc làm cả hai cùng lúc. ‘Im đi nào, Timmy.

“Nhưng Timmy bỏ ngoài tai. Hắn quay sang nhìn George Anderson rồi cất tiếng. ‘Thằng cháu ông nhất mực yêu thương chỉ đang đợi ông xuống lỗ mà thôi, ông già ạ. Nó chỉ muốn tiền, đống tiền nó nghĩ ông gửi hết vào két sắt trong Ngân hàng Đông chi nhánh Bangor. Đó là lý do nó giả lả trước mặt ông, nhưng sau lưng nó đem ông ra làm trò cười, nó với chị nó. Chúng nó gọi ông là khọm già chân gỗ,’ Timmy nói, và Louis ạ, giọng hắn thay đổi liền. Nghe đê tiện hẳn. Như cách thằng cháu ông Geogre sẽ nói nếu… cháu biết đấy, nếu những lời Timmy kể là đúng.

“Khọm già chân gỗ, Timmy bồi tiếp, và xem chúng nó có lật mặt không khi chúng phát hiện ông nghèo mạt rệp sau khi mất tất cả vào năm 1938? Xem chúng có lật mặt không? Có lật mặt không nhỉ?

“Ông George lùi lại, luống cuống thế nào mà chân gỗ bị hụt, khiến ông ngã xuống hiên nhà ông Bill, đánh đổ ly bia, mặt trắng bệnh như áo lót của cháu, Louis ạ.

“Ông Bill lụ khụ đứng dậy, gầm lên với thằng quý tử, ‘Timmy, thôi ngay! Mày thôi ngay! Nhưng Timmy không chịu thôi. Hắn tiếp tục nói xấu về Hannibal, sau đó hắn cũng phỉ báng cả ta, và lúc đó hắn… liên thiên như lên đồng. Phải, hắn cứ hét ầm lên. Bọn ta bèn lùi lại, rồi cả đám vội chạy thoát thân, kéo tay ông George vì chẳng hiểu sao dây nhợ và khung của chân giả lại bị cong quẹo, khiến nó lệch sang bên, chiếc giày thì xoay hẳn ra sau, kéo lê trên cỏ.

“Hình ảnh cuối cùng của Timmy Baterman mà ta thấy là lúc hắn ở sân sau cạnh dây phơi đồ, mặt đỏ bầm trong hoàng hôn, những vết kia nổi bần bật trên mặt, tóc tai dựng đứng, đầy đất cát… hắn ré lên cười, gào rú liên hồi, ‘Khọm già chân gỗ! Khọm già chân gỗ! Đồ chồng mọc sừng! Đồ ăn bánh trả tiền! Tạm biệt, các quý ông! Tạm biệt! Tạm biệt! Đoạn hắn cười, nhưng tiếng cười như gào thét… thứ gì đó trong hắn… gào thét… cứ thế gào thét… gào thét.”

Ông Jud ngừng nói. Ngực ông hối hả phập phồng.

“Ông Jud,” Louis hỏi. “Điều Timmy Baterman nói về ông. có đúng không?”

“Đúng,” ông lẩm bẩm. “Chúa ơi! Hắn nói đúng. Ngày xưa, thi thoảng ta có đến một nhà thổ ở Bangor. Đàn ông lắm kẻ làm vậy, mặc dù ta đoán vẫn có nhiều người ăn ngay ở lành. Ta chỉ làm theo thôi thúc – có thể là ham muốn – đôi lúc được đưa ngập nó vào thịt da người lạ. Hoặc trả tiền cho một cô ả nào đấy làm những điều mà một người đàn ông không thể mở miệng yêu cầu vợ. Đàn ông cũng chăm bón khu vườn của mình, Louis ạ. Điều ta làm chẳng phải thứ tồi tệ, và ta cũng để lại phía sau chừng tám, chín năm nay rồi, nếu có biết, bà Norma sẽ chẳng rời bỏ ta. Nhưng một phần trong lòng bà ấy sẽ chết mãi mãi. Một phần thương ái, ngọt ngào.”

Mắt ông Jud đỏ ngầu, sưng lên và lờ đờ; người già rơi lệ trông đến sầu não, Louis thầm nghĩ. Nhưng khi ông đưa tay qua bàn để nắm lấy tay Louis, anh siết nó thật chặt.

Hắn chỉ nói với bọn ta về những mảng tối,” sau một hồi, ông nói. “Chỉ những mảng tối. Có Chúa chứng giám, đời người khi nào chẳng có những mảng tối, đúng không? Hai, ba ngày sau, vợ của Alan Purinton dứt áo ra đi khỏi Ludlow, và những người dân thị trấn thấy cô này trước khi lên tàu cho hay cô ta bầm hai mắt, mũi phải nhét bông gòn. Alan chẳng bao giờ nhắc đến chuyện này. Ông George qua đời năm 1950, và ta không nghe nói ông ta có để lại gì cho hai đứa cháu. Hannibal bị đuổi khỏi chỗ làm vì điều mà Timmy Baterman buộc tội ông ta – ta sẽ không nói với cháu cụ thể là gì, cháu không cần phải biết, nhưng ta nghĩ lạm dụng ngân quỹ thị trấn vào mục đích cá nhân là cách khái quát gần đúng. Thậm chí có người còn đề nghị đem ông ta ra xử tội biển thủ nhưng rồi lại thôi. Dù sao thì mất cái chức ấy đã là đón chí mạng cho ông ta, cả đời mình, ông ta quen đứng trên thiên hạ rồi.

“Nhưng những người đàn ông ấy vẫn có điểm tốt. Ý ta là thế; con người chúng ta hay bị cuốn đi mà quên mất điều này. Hannibal là người lập quỹ cho Bệnh viện Đa khoa Miền Đông, ngay trước cuộc chiến. Alan Purinton là một trong những người hào sảng, phóng khoáng nhất mà ta từng biết. Còn ông George Anderson chỉ muốn tiếp tục lèo lái bưu điện mà thôi.

“Còn nó, nó chỉ muốn nói về mặt xấu. Nó chỉ muốn chúng ta nhớ đến mặt xấu, vì bản thân nó là thứ xấu xa… và vì nó biết chúng ta có thể gây nguy hại cho nó. Cái cậu Timmy Baterman lên đường ra trận là cậu thanh niên hiền lành, bình thường hơi ngố nhưng tốt tính lắm. Còn thứ chúng ta thấy đêm đó, thứ ngước mặt nhìn quầng dương là… là một con quái vật. Có thể nó là thây ma, là vong đeo bám, hoặc là quỷ dữ. Có thể chẳng có cái tên nào cho thứ này, nhưng người Micmac biết bản chất thứ đó là gì, bất kể nó có tên hay không?”

“Là gì ạ?” Louis lặng người hỏi.

“Là thứ đã bị Wendigo chạm vào,” ông Jud trầm trầm đáp. Ông hít một hơi thật sâu, nín lại rồi thở ra, đoạn nhìn đồng hồ.

“Ngày bao sóng gió. Khuya rồi, Louis ạ. Ta đã nói gấp chín lần những gì mình muốn nói.”

“Cháu không nghĩ vậy,” Louis đáp. “Ông nói rất thuyết phục. Ông kể cháu nghe kết cục với.”

“Hai đêm sau, đám cháy bùng lên ở nhà Baterman,” ông Jud tiếp tục kể. “Nó thiêu rụi tất cả. Alan Purinton nói chắc chắn là cố tình phóng hỏa. Dầu hỏa lênh láng từ đầu này đến đầu kia của căn nhà bé tí. Ba ngày sau khi đám cháy được dập tắt, người ta vẫn ngửi thấy mùi dầu ám lại.”

“Tức là bọn họ chết cháy.”

“Ồ phải, họ bị cháy. Nhưng họ đã chết từ trước rồi. Timmy bị găm hai phát vào ngực bằng khẩu súng lục mà ông Bill Baterman giữ bên mình, một khẩu Colt cũ. Người ta tìm thấy súng trên tay Bill. Có vẻ ông ấy đã giết con trai mình, đặt hắn lên giường rồi đổ dầu hỏa đầy nhà. Đoạn ông ta ngồi xuống chiếc ghế thư giãn của mình cạnh radio, quẹt diêm rồi xơi kẹo đồng của khẩu Colt.45.”

“Lạy Chúa,” Louis thốt lên.

“Họ đã cháy thành than, nhưng giám định pháp y của hạt báo cáo ông ta nhận thấy Timmy Baterman đã chết từ hai hoặc ba tuần rồi.”

Chỉ có sự tĩnh lặng gõ nhịp.

Ông Jud đứng dậy. “Ta không nói quá khi ta nói có thể ta đã giết chết con trai của cháu, Louis ạ, hoặc chí ít là có nhúng tay vào. Người Micmac biết nơi đó, nhưng điều này không có nghĩa là họ đã khiến nó trở thành một nơi như vậy. Không phải người Micmac đã sống ở đây từ xưa. Khởi thủy, có thể họ đến từ Canada, Nga hoặc châu Á. Họ sống ở Maine cả nghìn năm, hoặc hai nghìn năm – khó lòng xác định con số chính xác vì họ không để lại dấu ấn gì sâu sắc trên mảnh đất. Và giờ họ đã đi rồi… giống như cách rồi một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ ra đi, mặc dù ta đoán dấu ấn mà chúng ta để lại sẽ sâu hơn, dù theo hướng tốt hay hướng xấu. Tuy nhiên, nơi này vẫn sẽ tồn tại dù ai sống tại đây, Louis ạ. Chẳng ai sở hữu nơi này, chẳng ai có đủ sức để lãnh nhận bí mật nó chôn giấu khi chuyển đi. Đây là một nơi ma quỷ, tha hóa, và ta chẳng việc gì phải đưa cháu lên đó để chôn mèo. Giờ ta mới vỡ lẽ. Nó chứa sức mạnh mà cháu phải cẩn thận nếu ý thức được điều gì tốt cho gia đình cháu và tốt cho cháu. Ta không đủ mạnh mẽ để chống lại nó. Cháu đã cứu bà Norma, nên ta muốn trả ơn cháu, thể mà nơi này đã lợi dụng tâm nguyện của ta để phục vụ mưu ma chước quỷ. Nó có sức mạnh… và ta nghĩ sức mạnh ấy có chu kỳ, giống như mặt trăng. Trước đây nó đã từng phát huy toàn bộ, và ta sợ nó sắp sửa đạt đến đỉnh điểm lần nữa. Ta sợ nó lợi dụng ta để thao túng cháu qua con trai cháu. Cháu có hiểu điều ta muốn nói không, Louis?” Ánh mắt ông van nài.

“Ông nói nơi đó biết Gage sắp tận số, cháu nghĩ vậy,” Louis nói.

“Không, ta bảo có khả năng nơi đó khiến Gage mất mạng vì ta đã giới thiệu với cháu sức mạnh của vùng đất ấy. Ta bảo có thể ta chính là kẻ đã sát hại con trai cháu dù ta có ý tốt, Louis ạ.”

“Cháu không tin,” sau cùng, Louis run rẩy lên tiếng. Hiện tại anh không tin, sau này cũng không. Anh không thể tin .

Anh nắm chặt tay ông Jud. “Ngày mai chúng cháu chôn cất Gage. Ở Bangor. Và con trai cháu sẽ nằm lại Bangor. Cháu không dự định đi lên Nghĩa địa thú cưng hoặc khu đất đằng sau thêm lần nào nữa.

“Cháu hứa với ta đi!”Ông Jud nghiêm túc. “Hứa đi.”

“Cháu hứa,” Louis đáp.

Nhưng suy tư vẫn còn đó, sâu trong đầu anh; lời hứa tựa ngọn nến bập bùng cứ lấn cấn không tắt.