Chương 42
Đến tối, mây lại ùn ùn kéo tới, gió Tây bắt đầu thổi phần phật. Louis mặc áo khoác mỏng, kéo phéc mơ tuya lên rồi lấy chìa khóa chiếc Civic treo trên tường.
“Anh đi đâu vậy Lou?” Rachel hỏi. Cô nói mà giọng chẳng buồn quan tâm. Sau bữa tối, cô lại nỉ non khóc, dù chỉ rưng rức nhưng dường như cô không ngưng được. Louis ép cô uống một viên Valium. Hiện giờ, cô ngồi trước trang báo với trò ô chữ còn trống trơn. Ellie ngồi im lặng trong một căn phòng khác xem Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên với bức hình của Gage trong lòng.
“Anh tính đi mua pizza.”
“Ban nãy anh ăn chưa no à?”
“Lúc đó anh chưa thấy đói,” anh nói thật rồi để thêm một lời nói dối: “Giờ anh mới đói.”
Chiều hôm đó, trong khoảng ba giờ đến sáu giờ, nghi thức cuối cùng của lễ tang Gage được thực hiện ở nhà cộng đồng Ludlow: nghi thức dùng bữa. Steve Masterton và vợ đến tham gia với món mì thịt bằm đút lò. Charlton xuất hiện với món bánh mặn Quiche (“Món này để được lâu lắm, trừ khi bị chén sạch,” bà bảo với Rachel. “Nó còn dễ hâm nữa.”) Nhà Danniker sống trên con dốc mang thịt nguội nướng lò đến. Ông bà Goldman chuẩn bị các loại thịt nguội xắt lát và phô mai – hai người bọn họ không mở miệng nói lời nào với Louis và cũng chẳng đến gần anh, nhưng thật lòng, anh chẳng thèm để tâm. Ông Jud cũng mang theo phô mai – một bánh phô mai chuột khổng lồ – món khoái khẩu của ông. Missy Dandridge mang một chiếc bánh chanh giây. Còn Surrendra Hardu chuẩn bị táo. Rõ ràng nghi thức dùng bữa đã vượt qua các khác biệt về tôn giáo.
Là bữa tiệc trong đám tang nhưng không vì thế mà nó nặng nề, dù ai nấy đều rất kiệm lời. Mọi người ít dùng bia rượu hơn so với bữa tiệc thông thường, song không phải không có. Sau vài chai bia (mới đêm hôm trước, anh đã thề rằng mình sẽ không đụng vào thứ đồ uống này nữa, thế mà trong buổi chiều lạnh lẽo như này, cảm tưởng đêm hôm trước đã xa đằng đẵng), Louis định kể vài câu chuyện liên quan đến đám ma mà cậu Carl từng kể với anh – như ở các đám tang của Sicilia, phụ nữ chưa chồng thỉnh thoảng cắt một miếng vải liệm của người quá cố rồi cất dưới gối ngủ, bởi họ cho rằng nó sẽ đem lại may mắn trong đường tình duyên; như ở các đám tang Ireland, đôi lúc người ta tổ chức đám cưới giả, ngón chân của người quá cố sẽ được cột vào nhau vì người Celt thời xưa quan niệm phải làm vậy để vong hồn người đã khuất không đi lại. Cậu Carl nói tục lệ cột mảnh giấy đề Đã Tử Vong Khi Đưa Đến vào ngón chân cái của xác chết bắt nguồn từ New York, vì tất cả những người giữ nhà xác thời kỳ đầu đều là người Ireland, cậu cho rằng đây là tàn dư của quan niệm mê tín ngày xưa. Nhưng sau khi nhìn mặt quan khách, anh nhận ra kể những chuyện này chỉ tổ gây hiểu lầm.
Rachel vật vã đúng một lần, mẹ của cô có mặt ở đó để trấn an con gái. Rachel bấu víu vào bà Dory Goldman rồi nức nở khóc vào vai bà thật to, tựa như có bao nhiều nước mắt, cô xả ra hết, một điều cô không thể làm với Louis, có lẽ vì cô cho rằng hai vợ chồng đáng bị kết tội trong cái chết của Gage, hoặc có lẽ vì Louis không cho cô chốn nương tựa, bởi anh đang lạc trong thế giới kỳ dị do đầu óc anh vẽ nên. Bất kể lý do là gì, rốt cuộc, cô đến với mẹ đẻ để tìm nguồn an ủi, và lòng mẹ chan chứa cho đi, nước mắt của mẹ già hòa lẫn vào nước mắt của con gái. Ông Irwin Goldman đứng đằng sau, tay đặt lên vai Rachel, nhìn Louis đứng bên kia căn phòng với ánh mắt đắc thắng một cách bệnh hoạn.
Ellie đi lòng vòng với khay bạc đựng những món điểm tâm nhỏ, khoanh cuộn con con cắm xiên lông vũ. Bức hình chụp với Gage kẹp cứng dưới cánh tay.
Louis nhận được những lời chia buồn. Anh gật đầu, nói lời cảm ơn. Và nếu đôi mắt anh có vẻ xa xăm, cử chỉ của anh có chút lạnh nhạt, thì người viếng chỉ đơn thuần nghĩ rằng anh đang hoài niệm về quá khứ, dằn vặt về tai nạn, về những tháng ngày vắng bóng Gage phía trước; chẳng ai (có lẽ là cả ông Jud) ngờ rằng Louis đang suy tính đến các phương thức đào mộ… tất nhiên là chỉ trên lý thuyết; anh không định làm gì cả. Đó là cách duy nhất để khiến tâm trí anh bận rộn.
Chứ bản thân anh chẳng định làm gì cả.
Louis dừng ở Đại Lý Orrington, mua hai lốc bia lạnh rồi gọi đến tiệm Napolis đặt trước một phần pizza xúc xích nấm.
“Cho hỏi tên của quý khách là gì ạ?”
Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm, Louis thầm nghĩ.
“Lou Creed.”
“Vâng, anh Lou, hiện tại tiệm rất đông khách nên sẽ mất chừng bốn mươi lăm phút – anh thấy vậy có được không?”
“Được,” Louis đáp rồi cúp máy. Khi quay lại chiếc xe Civic và tra chìa khởi động xe, anh chợt nghĩ mặc dù ở khu vực Bangor phải có đến hai mươi tiệm pizza, anh lại chọn tiệm gần Pleasantview, nơi chôn cất Gage, nhất. Chà, thì có sao? Anh cấm cảu nghĩ. Pizza họ làm rất ngon. Đế bánh không phải hàng đông lạnh. Họ biểu diễn quăng để lên rồi để nó đáp lên nắm tay, ngay vị trí thực khách có thể chiêm ngưỡng, và Gage thấy thế sẽ cười giòn tan…
Anh cắt ngang suy nghĩ ấy.
Anh chạy ngang qua nhà hàng Napolis thẳng đến Pleasantview. Anh đoán bản thân anh thừa biết mình sẽ làm thế, nhưng có nguy hại gì không? Làm gì có.
Đậu xe bên kia đường, anh băng qua đường đến cổng sắt uốn lấp lánh dưới ánh ngày tàn. Bên trên là những chữ cái uốn bằng sắt thành hình bán nguyệt đề PLEASANTVIEW. Tên của nghĩa địa này là “quang cảnh an lòng” nhưng trong tâm trí của Louis, quang cảnh chẳng an lòng cũng chẳng khó chịu. Nghĩa địa có bố cục vừa mắt, phân bố trên những quả đồi thoai thoải, có những hàng cây dài (à, nhưng trong ánh chạng vạng xẩm tối này, bóng cây trông dày đặc, đen đúa rợn người, chẳng khác nào nước đọng trong các mỏ đá), lác đác vài cây liễu rủ. Bốn bề không tĩnh lặng, do gần đó có đường cao tốc thu phí – tiếng xe cộ ẩm ì vẳng lại cùng cơn gió buốt, hun hút thốc qua – ánh sáng tỏa ra dưới bầu trời ngả tối chính là Sân bay Quốc tế Bangor.
Anh vươn tay đến cánh cổng, thầm nghĩ Thể nào cũng khóa , nhưng hóa ra lại không. Có lẽ vẫn còn sớm nên họ chưa khóa cổng, và nếu có khóa thì cũng chỉ là để bảo vệ nơi này khỏi những tên say xỉn, những kẻ cố ý phá hoại hoặc những thanh niên nữ tú muốn tìm chỗ hú hí. Cái thời Những Kẻ Quật Xác như trong tác phẩm của Dicken [17E]
(lại cái từ này)
đã qua rồi. Cánh cổng bên phải mở ra với tiếng ken két khe khẽ, và sau khi liếc qua vai để đảm bảo không ai theo dõi, Louis bước qua. Anh đóng cánh cổng lại sau lưng, nghe chốt cổng đánh cách.
Đứng trong khu ngoại ô giản dị của người đã khuất, anh đưa mắt nhìn quanh.
Mọi thứ đáng yêu vào chung lòng mộ, anh nhủ thầm, nhưng chẳng mặn nồng lấy một cái ôm. Ai viết bài thơ này nhỉ. Andrew Marvell? Và tại sao đầu óc con người lại đi chứa đống vớ vẩn vô dụng này kia chứ?
Giọng ông Jud văng vẳng trong đầu anh, lo lắng và – sợ hãi thì phải? Phải. Ông sợ hãi.
Louis, cháu đang làm gì ở đây vậy? Cháu đang nhìn một con đường cháu không muốn đặt chân.
Anh gạt giọng nói ấy qua một bên. Anh chỉ đang dằn vặt bản thân chứ chẳng hành hạ ai cả. Không ai cần biết anh đã đến đây khi hoàng hôn dần nhường chỗ cho bóng đêm.
Anh lê bước đến mộ của Gage, men theo con đường ngoằn ngoèo. Có một lúc anh đi dưới hàng cây; những chiếc lá non rì rào, xào xạc đầy bí ẩn trên đầu. Trống ngực anh đổ dồn. Bia mộ sắp thành dãy. Tòa nhà của đơn vị quản lý tọa lạc đâu đó, và ở đó sẽ có bản đồ khu Pleasantview rộng chừng hai mươi mẫu này, được phân chia gọn gàng và hợp lý thành từng khu, mỗi khu lại thể hiện các ngôi mộ và các mộ phận chưa bán. Bán bất động sản. Căn hộ một phòng. Rao bán đã lâu.
Không giống Nghĩa địa Thú cưng cho lắm, anh nghĩ, và suy nghĩ ấy khiến anh khựng lại, suy tư ngạc nhiên. Không. Sao mà giống được. Nghĩa địa thú cưng tạo trong anh ấn tượng trật tự của nó gần như vô thức sinh ra từ trong hỗn loạn. Những vòng tròn thô ráp nhỏ dần, hướng vào cùng một tâm; những phiến đá, thập giá thô sơ làm bằng thanh gỗ. Tựa hồ những đứa trẻ chôn thú cưng ở đó trong vô thức tập thể đã tạo ra hình tượng, tựa hồ…
Trong thoáng chốc, Louis thấy Nghĩa địa Thú cưng cứ như một hình thức quảng cáo… một dạng chim mồi, như thứ người ta trình diễn trước mặt chúng ta ở con đường quái dị trong hội chợ. Họ sẽ cử người ra biểu diễn nuốt lửa, ta được xem miễn phí vì chủ hội chợ biết ta phải thấy lửa lèo xèo thì mới dẫn tới việc mua bít tết, ta phải thấy ảnh lửa bùng lên thì ta mới chịu chi hầu bao…
Những ngôi mộ ấy, những ngôi mộ quây thành vòng tròn ma mị.
Những ngôi mộ ở Nghĩa địa Thú cưng phỏng chiếu biểu tượng tôn giáo cổ xưa nhất: những vòng tròn thu hẹp dần tượng trưng cho xoắn ốc, tuy vậy, nó không quy về một điểm và quy về vô tận; trật tự sinh ra trong hỗn loạn và hỗn loạn sinh ra trong trật tự, tùy theo cách tâm trí ta nhìn nhận. Đây là biểu tượng mà người Ai Cập đã khắc lên lăng mộ các pharaoh, một biểu tượng mà người Phoenicia từng họa trên nấm mồ của các vị vua đã băng hà; nó được phát hiện trên thành hang động ở địa điểm khảo cổ Mycenae; người xây dựng Stonehenge đã dùng nó làm đồng hồ đo thời gian của vũ trụ; nó xuất hiện trong Kinh Thánh dưới hình dạng gió xoáy, để từ đó Chúa nói chuyện với Job.
Xoắn ốc là biểu tượng sức mạnh cổ xưa nhất trên thế giới, biểu tượng cổ xưa nhất của nhân loại về cây cầu quanh co tồn tại giữa thế gian và Vực Sâu.
Cuối cùng, Louis cũng đến mộ của Gage. Máy xúc không còn ở đó. Thảm cỏ Astroturf đã được tháo bỏ, được một công nhân huýt sáo cuộn lại, đầu óc vẩn vơ nghĩ đến chầu bia sau khi tan ca ở Fairmount Lounge, rồi cất đi trong lán đựng dụng cụ ở đâu đó. Nơi Gage an nghỉ là hố đất hình chữ nhật gọn gàng, với kích thước áng chừng dài một mét rưỡi rộng chín mươi phân. Mộ chưa dựng bia.
Louis quỳ xuống. Gió thổi qua tóc khiến nó rối xù. Giờ thì bầu trời đã chuyển sang tối hẳn, vần vũ mây.
Chưa thấy ai chiếu đèn vào mặt mình và hỏi mình làm gì ở đây. Chưa có chó canh nào sủa. Cổng thì không đóng. Cái thời Những Người Quật Xác đã là dĩ vãng rồi. Nếu mình mang cuốc và xẻng đến đây…
Anh giật mình bừng tỉnh. Anh chỉ đang bày một trò chơi nguy hiểm trong tâm trí, giả vờ rằng Pleasantview không có ai canh giữ vào buổi tối. Giả sử anh bị quản lý nghĩa địa hay bảo vệ bắt quả tang đứng dưới huyệt của con trai anh thì sao? Có thể họ không lưu vào giấy tờ, nhưng nhỡ họ lưu thì sao? Khéo anh bị buộc tội mất. Nhưng tội gì mới được? Mộ tặc? Chắc không đâu. Cố ý phá hoại tài sản xem chừng khả dĩ hơn. Và bất kể họ có đưa vào hồ sơ hay không, tiếng xấu hẳn sẽ đồn xa. Thiên hạ thể nào cũng dị nghị; làm sao có thể bỏ qua câu chuyện hay hớm đến nhường này kia chứ. Bắt quả tang vị bác sĩ địa phương đào xác cậu con trai hai tuổi, qua đời cách đây không lâu trong tai nạn giao thông bi thảm. Anh sẽ mất việc. Còn nếu không mất việc thì anh cũng phải chứng kiến cảnh Rachel thân tàn ma dại trước những lời gièm pha cay nghiệt, Ellie bị bạn bè ở trường lôi ra trêu chọc cho đến khi đời con bé tối tăm, cùng cực. Cũng có thể anh sẽ phải chịu nhục nhã khám định tâm thần, đổi lại bỏ qua tội trạng.
Nhưng tôi có thể khiến Gage hồi sinh! Gage có thể sống dậy!
Tận trong thâm tâm, anh có tin vào điều đó hay không?
Sự thật là có. Anh đã tự nhủ hết lần này đến lần khác, cả trước và sau khi Gage qua đời, rằng Church thật ra chưa chết, nó chỉ bị choáng mà thôi. Rằng Church đã đội mồ sống dậy rồi về nhà. Một câu chuyện trẻ con đầy ẩn ý ghê rợn – Winnie the Poe. Người chủ vô tình xếp một ụ đá sau khi chôn vật nuôi còn sống. Con vật trung thành tự đào đất chui ra trở về nhà. Hay lắm. Chỉ có điều nó không đúng. Church đã chết. Khu chôn cất của người Micmac đã hồi sinh nó.
Anh ngồi xuống, bên cạnh mộ của Gage, cố xếp các thành tố đã biết theo thứ tự một cách lý trí và hợp lẽ nhất mà tà thuật này cho phép.
Giờ xét đến Timmy Baterman. Thứ nhất, anh có tin câu chuyện ấy không? Thứ hai, thế có khác gì không?
Dù khó chấp nhận nhưng anh tin phần lớn câu chuyện. Không nghi ngờ gì nữa, nếu một nơi như khu chôn cất của người Micmac tồn tại trên đời (nó có thật đây), và nếu người ta biết đến nó (như một số bậc bô lão ở Ludlow biết), thì sớm muộn cũng sẽ có người làm thử. Theo những gì Louis hiểu về bản tính con người, khó mà tin nổi người ta chỉ dừng lại ở việc chôn cất vài con thú cưng và các con vật thuộc giống có giá trị.
Được rồi – vậy anh có tin Timmy Baterman biến thành con quỷ toàn tri không? Câu hỏi này hóc búa hơn, anh ngần ngại vì không muốn tin, song anh đã từng chứng kiến hậu quả của cách tư duy ấy trước đây.
Không, anh không muốn tin Timmy Baterman là một con quỷ, nhưng anh sẽ không – nhất quyết không – cho phép những điều anh muốn lu mờ đánh giá của anh.
Louis nghĩ về con bò Hanratty. Ông Jud kể con bò ấy như thành tinh. Timmy Baterman cũng vậy, theo cách của riêng mình. Sau đó, Hanratty đã bị chính người chủ đã lôi xác của nó đến khu chôn cất của người Micmac bằng xe kéo “hạ gục”. Còn Timmy Baterman bị bố mình “hạ gục”.
Nhưng chỉ vì Hanratty suy bại, điều đó có đồng nghĩa với việc mọi con vật đều suy bại như thế không? Không. Con bò Hanratty không minh chứng cho trường hợp tổng quát; thực ra Hanratty chỉ là ngoại lệ cho trường hợp tổng quát mà thôi. Đánh giá những con vật khác, như con chó Spot của ông Jud, con vẹt của bà cụ, hoặc bản thân mèo Church. Chúng đều sống dậy, có đổi khác, và trong mọi trường hợp, điểm thay đổi rất dễ thấy, nhưng chí ít trong trường hợp Spot, thay đổi không quá lớn, bằng chứng là nhiều năm sau đó, ông Jud vẫn kể với một người bạn về quy trình của… của…
(hồi sinh)
Phải, quy trình hồi sinh . Tất nhiên, trong quá trình thực hiện, ông đã cố biện minh, dùng dằng rồi còn tuyên ra tràng giang đại hải những lời rối rắm, ám muội chẳng thể xem là triết lý.
Làm thế nào anh có thể từ chối tận dụng cơ hội sẵn có – cơ hội có một không hai này – chỉ vì câu chuyện của Timmy Baterman kia chứ? Một con sâu chẳng thể làm rầu nồi canh.
Mày đang bóp méo bằng chứng để đi đến kết luận mày muốn rút ra đây, tâm trí anh phản đối. Ít nhất mày phải ý thức sự thật chết toi về thay đổi của Church chứ. Giả sử bỏ qua xác những con vật – nào chuột, nào chim – nhưng bản chất của con mèo thì sao? Mớ bòng bong… đó là từ chuẩn nhất để mô tả mọi thứ. Hôm hai bố con đi thả diều. Mày còn nhớ hôm đi thả diều Gage thế nào không? Thằng bé vui cười, tràn trề nhựa sống ra sao, phản ứng với mọi thứ ra sao? Mày có muốn hồi sinh một thây ma từ bộ phim kinh dị hạng B không? Hoặc thậm chí một thứ tẻ nhạt, một thằng bé trì độn? Một thằng bé ăn bốc và chỉ ngơ ngẩn dán mắt vào hình ảnh trên ti vi, chẳng bao giờ viết nổi tên mình? Ông Jud nói gì về con chó của ông ấy nhỉ? “Như thể đang rửa cục thịt.” Đó là thứ mày muốn sao? Mày muốn một cục thịt? Và ngay cả khi mày có thể hài lòng với điều đó, mày giải thích với vợ mày, với con gái mày thế nào khi con trai mày trở về từ cõi chết. Mày giải thích với Steve Masterton thế nào? Rồi với thế gian nữa? Chuyện gì sẽ xảy ra khi Missy Dandridge chạy xe vào lối đi và trông thấy Gage đạp xe ba bánh trong sân? Mày không nghe thấy tiếng cô ấy hét âm lên à, Louis? Mày không thấy khuôn mặt hãi hùng của cô ấy với những móng tay à? Rồi mày tính nói gì với đám phóng viên? Mày nói gì khi đoàn quay phim từ chương trình Người Thật xuất hiện ngay bậc cửa để quay cậu con trai đội mồ sống dậy của mày?
Những điều trên có thực sự quan trọng không, hay đó chỉ là giọng nói của lá gan thỏ để trong anh? Anh có nghĩ mình không thể giải quyết những vấn đề kia không? Phải chăng anh tin rằng Rachel sẽ chào đón con mình với những giọt nước mắt mừng vui?
Phải, anh đoán khả năng cao Gage sẽ trở về nhưng có phần… nói sao nhỉ… hao hụt. Song điều đó có khiến tình thương anh dành cho con đổi khác không? Bất chấp con mình bị não úng thủy, bị bệnh down, bị tự kỷ, bố mẹ vẫn yêu thương chúng đấy thôi. Bất chấp con mình sinh ra mù lòa, sinh đôi dính liền, sinh ra mà ruột xoắn tit thò lò, bố mẹ vẫn dành trọn yêu thương. Dù cho con mình lớn lên hãm hiếp, giết người, hành hung người vô tội, bố mẹ vẫn cầu xin tòa án khoan hồng kia mà.
Anh có cho rằng anh không thể yêu thương Gage nếu đến tám tuổi mà Gage vẫn phải mang tã không? Nếu đến mười hai tuổi, con anh mới học qua lớp một không? Hoặc thậm chí nó chẳng thể học hành được gì? Anh có thể xem con anh như… như một trường hợp nạo phá thai thiêng liêng trong khi vẫn còn phương cách khác?
Nhưng Louis, Chúa ơi, mày không sống một mình một cõi! Người ta sẽ bàn ra tán vào…
Anh cắt ngang suy nghĩ ấy với giọng nói sỗ sàng, tức tối. Trong tất cả những điều không cần phải xét đến lúc này, miệng lưỡi thế gian có lẽ là điều đầu tiên.
Louis liếc xuống phần đất mộ của Gage, cảm thấy kinh sợ và hãi hùng như sóng ập vào người. Trong vô thức, ngón tay anh tự di chuyển, vẽ thành những hình tròn đồng tâm trên mặt đất – anh đã vẽ nên xoắn ốc bằng vòng tròn.
Anh xoa hai bàn tay lên đất, xóa đi thứ mình vừa vẽ. Đoạn anh vội vã rời khỏi Pleasantview, cảm thấy mình chẳng khác nào kẻ tự tiện xâm phạm nơi này, cứ đến khúc quanh, anh đinh ninh rằng mình sẽ bị phát hiện, bị chặn lại và chất vấn.
Anh đến lấy pizza trễ, và dù bánh được đặt ngay bên trên lò nướng cỡ lớn, nó vẫn nguội ngắt, đầy dầu mỡ, miếng nào miếng nấy ngon như đất sét nấu. Trên đường trở về Ludlow, Louis chỉ ăn một miếng, còn bao nhiêu vứt hết ra ngoài cửa sổ, cả hộp cả bánh. Bình thường anh không có thói quen xả rác bừa bãi, nhưng anh không muốn Rachel phát hiện chiếc pizza gần như còn nguyên si trong thùng rác ở nhà. Nó sẽ khiến cô sinh nghi anh đến Bangor không phải vì mua bánh pizza.
Louis bắt đầu tính toán đến thời gian và hoàn cảnh thực hiện.
Thời gian. Thời gian là yếu tố quan trọng gần như bậc nhất. Timmy Baterman đã chết một thời gian thì người bố mới đưa xác cậu ta đến khu chôn cất của người Micmac. Timmy bị bắn chết vào ngày 19… Nếu ta nhớ không lầm thì Timmy được chôn cất vào ngày 22 tháng Bảy. Chừng bốn, năm ngày sau, cô bưu tá Marjorie Washburn trông thấy Timmy leo lên con dốc.
Được rồi, giả sử ông Bill Baterman tiến hành bốn ngày sau khi con mình được chôn cất lần đầu… không. Cẩn tắc vô áy náy, giả sử ông ấy đào sau ba ngày. Để thuận tiện cho việc tranh luận, xem như Timmy Baterman trở về từ cõi chết vào ngày 29 tháng Bảy. Tức kể từ ngày cậu thanh niên này qua đời đến ngày cậu ta sống dậy là mười ngày, và đây là ước lượng đã trừ hao. Có thể mất đến mười hai ngày cũng nên. Trong trường hợp của Gage, tính đến hôm nay là bốn ngày. Anh đã để thời gian vụt qua kha khá, nhưng vẫn có thể cắt một nửa thời gian của ông Bill Baterman. Nếu…
Nếu anh có thể dựng lại hoàn cảnh tương tự như lúc hồi sinh Church. Vì Church qua đời vào thời điểm thuận tiện quá còn gì? Gia đình anh vắng nhà khi Church bị xe tông chết. Chỉ có anh và ông Jud biết chuyện.
Còn gia đình anh đang ở Chicago.
Và thế là trong tâm trí Louis, mảnh ghép cuối cùng đã khớp đánh tách vào vị trí.
“Anh muốn mẹ con em làm gì kia?” Rachel hỏi, trợn mắt nhìn anh với vẻ ngạc nhiên.
Lúc đó là mười giờ kém mười lăm phút. Ellie đã đi ngủ. Rachel uống thêm một viên Valium sau khi dọn dẹp rác rến từ bữa tiệc tang (“tiệc tang” đúng là một cụm từ khủng khiếp đầy nghịch lý, giống như “giờ viếng”, nhưng xem ra chẳng còn từ nào để mô tả những gì họ làm vào buổi chiều), và kể từ lúc anh quay về từ Bangor, cô có vẻ lờ đờ, im lặng… nhưng lời anh nói đã khiến cô bừng tỉnh.
“Anh muốn mẹ con em về Chicago cùng bố mẹ em,” Louis kiên nhẫn lặp lại. “Hai người họ sẽ lên đường vào ngày mai. Nếu em gọi cho bố mẹ và gọi cho hãng Delta ngay bây giờ, em vẫn có thể lên cùng chuyến máy bay với họ.”
“Louis, anh mất trí à? Anh và bố em lao vào ẩu đả như thế mà anh bảo…”
Đến Louis còn bất ngờ khi miệng lưỡi mình trơn tru như bôi mỡ, chẳng giống anh chút nào. Nó khiến anh cảm thấy hứng khởi một cách trơ trẽn. Anh cảm thấy như cầu thủ mới được thay vào sân, chợt nhận được bóng và chạy một mạch bảy mươi mét, hết luồn lách lại len lỏi, qua mặt những tay tiền vệ tiềm năng đầy điệu nghệ. Anh chưa bao giờ giỏi nói dối, và anh cũng không định sẵn kịch bản cho cuộc đấu trí này, nhưng bất ngờ chuỗi những lời nói dối quanh co, thêm mắm dặm muối, những lời giải thích có cánh cứ thế tuôn ra từ miệng anh.
“Trận ẩu đả giữa anh và bố là một trong những lý do anh muốn mẹ con em về chung với bố mẹ. Giờ là lúc ta phải hàn gắn vết thương này, Rachel ạ. Trong lòng anh… và trong thâm tâm… anh biết như vậy, ngay từ lúc ở sảnh tang lễ. Lúc hai bố con ẩu đả, anh đang cố gắng hàn gắn mọi thứ.”
“Nhưng chuyến đi này… em không nghĩ là ý tưởng ấy hay đâu, Louis ạ. Mẹ con em cần anh. Anh cũng cần mẹ con em.” Đôi mắt cô nhìn anh nghi ngờ. “Hay nói đúng hơn, em hy vọng anh cần mẹ con em. Vả lại, mẹ con em chẳng còn tâm trí đâu mà…”
“…chẳng còn tâm trí đâu mà ở lại đây,” Louis áp đặt. Anh cảm thấy anh sắp phát sốt lên được. “Anh mừng vì em cần anh, và thật sự, anh cần mẹ con em. Nhưng lúc này, với em đây là chốn khổ ải nhất, em yêu. Căn nhà này tràn ngập hình bóng Gage, mọi nơi, mọi chỗ. Anh và em khổ sở đã đành, nhưng anh nghĩ Ellie khổ sở gấp bội phần.”
Anh thấy đau đớn ánh lên trong mắt cô, và anh biết anh đã chạm trúng chỗ. Một phần trong anh cảm thấy nhục nhã khi chiến thắng ti tiện thế này. Mọi cuốn sách giáo khoa anh từng đọc về cái chết cho anh biết thôi thúc đầu tiên của tang quyến sau cú sốc mất đi người thân là rời khỏi địa điểm xảy ra cái chết… và rằng xuôi theo thôi thúc ấy là hành động tai hại nhất có thể, vì nó tiếp tay cho họ trốn tránh sự thật. Sách vở cũng nói tốt nhất nên ở yên một chỗ, chiến đấu chống lại nỗi đau ngay trên chính sân nhà của nó cho đến khi cơn đau nguôi ngoai. Nhưng Louis không dám thực hiện thí nghiệm kia khi vợ con anh ở nhà. Anh phải đẩy họ đi chỗ khác, chí ít là trong một thời gian.
“Em biết,” cô nói. “Nơi nào cũng… khiến em đau tận thâm can. Lúc anh đi Bangor, em di chuyển trường kỷ… em nghĩ hút bụi sẽ giúp em đỡ… đỡ nghĩ quẩn… rồi em tìm thấy bốn chiếc xe Matchbox con con của thằng bé dưới ghế… như thể chúng chờ con mình về để… anh biết đấy, chơi với chúng…” Giọng cô run rẩy rồi vỡ òa. Nước mắt lăn dài trên má.” Thế là em uống thêm một viên Valium, vì em lại òa lên khóc, giống như em đang khóc đây… ôi đúng là một bộ phim sướt mướt… ôm em với, Lou ơi, anh ôm em được không?”
Anh ôm cô vào lòng, ôm trọn vẹn đâu ra đấy; nhưng anh cảm thấy mình thật giả tạo. Tâm trí anh quay cuồng nghĩ cách tận dụng những giọt nước mắt của cô sao cho có lợi. Chính nhân quân tử chưa kìa. Hò đô, đi nào.
“Mình phải thế này bao lâu đây?” Cô nức nở. “Cứ thế này mãi ư? Ước gì con mình trở lại, Louis ơi, em thề em sẽ để mắt đến con kỹ hơn, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra, việc tay tài xế ấy lái xe quá nhanh không khiến em – khiến vợ chồng mình – thoát tội đâu. Em không ngờ trên đời lại có đau đớn nhường này, nhưng sự thật là thế. Cơn đau cứ quay quắt trở đi trở lại, đau đến đứt ruột gan, Louis ạ, em chẳng thể thoát khỏi nó ngay cả khi đi ngủ, vì cứ ngủ là em nằm mơ hết lần này đến lần khác, em thấy con mình chạy xuống đường… rồi em hét gọi con… ”
“Suỵt,” anh nói. “Rachel. Suỵt.”
Cô ngẩng khuôn mặt sưng húp lên nhìn anh. “Mà thậm chí chẳng phải con mình nghịch phá nữa, Louis. Thằng bé chỉ đang chơi đùa thôi… chiếc xe tải ấy trờ tới sai thời điểm… ban nãy lúc em khóc, Missy Dandridge gọi… cô ấy kể cô ấy đọc trên báo Ellsworth American là tay tài xế đã cố tự sát.”
“Sao kia?”
“Anh ta tìm cách treo cổ trong ga ra. Anh ta bị sốc và trầm cảm nặng, báo ghi như thế…”
“Mẹ kiếp, chết mà không chết đến nơi,” Louis nói đầy ác ý, nhưng tai anh nghe thấy giọng mình vang lên thật xa xăm, cả người lạnh ngắt. Nơi này có sức mạnh, Louis ạ. Trước đây nó đã từng phát huy toàn bộ sức mạnh, và ta sợ nó sắp sửa đạt đến đỉnh điểm lần nữa. “Con trai mình chết, còn hắn ta thoát tội với một nghìn đô-la bảo lãnh, hắn cứ tiếp tục trầm cảm và nghĩ đến tự sát cho đến khi tòa lấy bằng của hắn trong chín mươi ngày rồi phạt cho có lệ.”
“Missy bảo người vợ đã dẫn theo con cái bỏ đi,” Rachel nói bằng giọng đều đều. “Cái này không đăng trên báo, mà cô ấy nghe kể từ người quen của người quen ở mạn Ellsworth. Anh ta không say rượu, cũng không chơi thuốc. Trước đó anh này chưa từng vi phạm tốc độ. Anh ta kể khi tới Ludlow, anh ta cứ có cảm giác muốn đạp ga hết cỡ. Anh ta bảo chẳng biết lý do tại sao. Người ta truyền tai nhau như thế đấy.”
Anh ta cứ có cảm giác muốn đạp ga hết cỡ.
Nơi này có sức mạnh…
Louis gạt những suy nghĩ ấy đi. Anh khẽ nắm lấy cánh tay vợ. “Em gọi cho bố mẹ đi. Ngay bây giờ. Em và Ellie không cần ở lại ngôi nhà này thêm một ngày nào nữa. Một ngày cũng không.”
“Anh cũng phải đi,” cô nói. “Louis, em muốn cả nhà mình… em cần chúng ta ở bên nhau.”
“Anh sẽ đi sau em ba ngày, tối đa là bốn ngày.” Nếu mọi sự trót lọt, Rachel và Ellie có thể quay về trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ. “Anh phải tìm người thay vị trí ở trường đại học, chí ít là chấp nhận làm thêm. Anh còn ngày nghỉ bệnh và nghỉ phép, nhưng anh không muốn để Surrendra tối tăm mặt mũi. Ông Jud có thể trông nhà giảm vợ chồng mình trong lúc đi vắng, nhưng anh muốn cắt điện và trữ những thứ trong ngăn đá ở chỗ khác. Chắc anh sẽ nhờ nhà Dandridge.”
“Còn trường của Ellie…”
“Kệ xác đi. Đằng nào cũng chỉ còn ba tuần là hết năm học rồi. Họ sẽ hiểu cho hoàn cảnh nhà minh. Nhà trường sẽ sắp xếp cho con nghỉ sớm. Mọi chuyện sẽ đâu ra đó…”
“Louis?”
Anh ngưng lại. “Sao thế?”
“Anh đang giấu giếm gì vậy?”
“Giấu giếm?” Anh nhìn thẳng vào cô, mắt ráo hoảnh. “Anh chẳng hiểu em nói gì.”
“Anh không giấu gì chứ?”
“Không. Anh chẳng giấu gì.”
“Thôi bỏ qua. Để em gọi bố mẹ… nếu đó là điều anh thực sự muốn.
“Thật mà,” anh nói, và những lời ấy chát chúa vang trong đầu như sắt phang vào nhau.
“Có thể như thế lại tốt… cho Ellie.” Cô nhìn anh với đôi mắt đỏ quạch, vẫn hơi mơ màng do tác dụng của Valium. “Nhìn anh có vẻ hơi sốt đấy, Louis. Anh coi chừng kẻo đổ bệnh bây giờ.”
Cô bước đến điện thoại, gọi cho nhà nghỉ bố mẹ cô đang ở trước khi Louis kịp trả lời.
Ông bà Goldman mừng ra mặt khi nghe Rachel đề xuất; trên cả vui mừng mới đúng. Họ không hào hứng lắm trước việc Louis sẽ góp mặt sau ba hoặc bốn ngày, nhưng tất nhiên, họ sẽ chẳng phải lo lắng đến viễn cảnh này. Bởi Louis không mảy may tính đến chuyện đi Chicago. Anh nghi ngờ có trắc trở, bởi giờ này mới đặt vé máy bay thì cập rập quá. Được cái vận may lại mỉm cười với anh. Trên chuyến bay từ Bangor đến Cincinnati của hãng Delta vẫn còn ghế trống, ngoài ra, kiểm tra nhanh thì phát hiện có hai hành khách hủy vé chuyến bay từ Cincinnati đến Chicago. Điều này có nghĩa Rachel và Ellie chỉ bay cùng chuyến với ông bà Goldman đến Cincinnati, nhưng sau đó chưa đầy một tiếng đồng hồ, hai mẹ con sẽ đến Chicago.
Cứ như ma thuật vậy, Louis nghĩ khi gác điện thoại, giọng của ông Jud bèn đáp lại ngay lập tức: Trước đây nó đã từng phát huy toàn bộ sức mạnh, và ta sợ…
Ôi, cuốn xéo ngay cho cháu nhờ, anh cộc cằn gắt lên với giọng của ông Jud. Mười tháng qua, cháu đã học cách chấp nhận khối thứ kỳ lạ rồi, ông bạn hiền của cháu ơi – nếu ông kể với cháu một nửa những điều đó, cháu sẽ nói với ông thần kinh cháu sắp trụ không nổi. Nhưng liệu cháu có sẵn sàng tin miếng đất bị ám có khả năng ảnh hưởng đến vé máy bay bay không? Cháu không nghĩ vậy.
“Em phải sắp đổ,” Rachel nói. Cô nhìn thông tin chuyến bay Louis vừa ghi xuống tập giấy để bên cạnh điện thoại.
“Em mang theo một va li cỡ lớn là được rồi,” Louis nói.
Cô trợn mắt nhìn anh, thoáng giật mình. “Cho cả hai mẹ con em ư? Louis, anh đùa em à?”
“Được rồi, vậy em cứ mang theo vài túi vải đi. Nhưng đừng bày vẽ mang mỗi ngày một bộ đủ cho ba tuần tới cho nhọc thân em ạ,” anh nói, thầm nhủ: Đằng nào em cũng sẽ sớm trở về Ludlow mà. “Em mang đủ đồ cho một tuần, mười ngày là được rồi. Em mang theo sổ séc và thẻ tín dụng đi. Cần gì mình mua cũng được.”
“Nhưng mình đâu thể vung tay quá trán…” Cô nghi ngờ cất tiếng. Giờ thì cô có vẻ nghi ngờ tất cả, lung lay, dễ bối rối. Anh nhớ lại lời nhận xét lạnh tanh, dang dở về chiếc Winnebago mà anh từng bâng quơ bảo muốn mua.
“Mình có tiền mà,” anh nói.
“Chà… em nghĩ nếu cần, mình có thể dùng khoản tiết kiệm cho Gage học đại học, dù sẽ mất một hai ngày để làm thủ tục cho tài khoản tiết kiệm và tầm một tuần để chuyển tín phiếu chính phủ thành tiền mặt…
Mặt cô bắt đầu rúm lại rồi nghẹn ngào. Louis ôm vợ vào lòng. Cô ấy nói đúng. Nó cứ quay quắt trở đi trở lại, không bao giờ buông tha. “Rachel, đừng em,” anh vỗ về. “Đừng khóc.”
Nhưng tất nhiên cô vẫn khóc – cô phải để nước mắt tuôn rơi.
Trong lúc cô lên lầu xếp đồ, điện thoại đổ chuông. Louis vội vàng lao đến, sợ nhỡ đâu hãng vé Delta gọi lại thông báo hồi nãy họ nhầm lẫn, không còn vé cho chuyến bay nào cả. Mình ngây thơ quá, làm gì có chuyện đầu xuôi đuôi lọt đến thế.
Nhưng hóa ra không phải hãng vé Delta gọi mà là ông Irwin Goldman.
“Để con đưa máy cho Rachel,” Louis nói.
“Đừng” Trong một khoảng im lặng bao trùm, chẳng có thêm lời nào. Chắc ông ấy đang ngồi đó tính toán xem nên bắt đầu rủa xả mày ra sao.
Khi ông Goldman cất tiếng, giọng ông rất căng thẳng. Chừng như ông đang đẩy từng lời, từng chữ chống lại một lực cản lớn lao bên trong. “Ta muốn nói chuyện với con. Bà Dory muốn ta gọi điện, xin lỗi con vì… vì ta đã cư xử quá trớn. Ta nghĩ… Louis, ta nghĩ bản thân ta cũng muốn nói lời xin lỗi.”
Ô kìa, ông Irwin! Ông cao cả thế? Chúa ơi, chắc tôi bĩnh ra quần mất!
“Bố không cần xin lỗi đâu,” Louis nói. Giọng anh khô khốc và máy móc.
“Ta đã làm những điều không thể tha thứ,” ông Goldman nói. Giờ thì không phải ông đang cố ép từng lời mà là khạc ra chúng. “Việc con đề nghị Rachel và Ellie đi với chúng ta khiến ta nhận ra con bao dung nhường nào… và ta nhỏ nhen ra sao.”
Bỗng dưng anh thấy có gì đó quen quen trong màn độc thoại này, quen đến kỳ dị…
Và rồi anh ngộ ra, miệng chợt sun lại như thể vừa cắn phập vào một quả chanh vàng ươm. Đúng kiểu của Rachel – cô hoàn toàn không ý thức được điều này nhưng Louis chắc như đinh đóng cột – khi ăn năn hối lỗi: Louis, em xin lỗi đã cư xử khốn nạn sau khi đạt được như ý muốn nhờ làm mình làm mẩy. Đây đúng là giọng nói ấy, khác ở chỗ nó không lanh lảnh và đầy sức sống như của Rachel, nhưng không nhầm đi đâu được, chính cái giọng ấy đang bảo Ta xin lỗi vì đã hành xử thật khốn nạn, Louis.
Ông già đã giành lại con gái và cháu ngoại; họ đang cao chạy xa bay khỏi Maine để về với Bố. Với sự hỗ trợ của Delta và United, họ đang trở lại nơi họ thuộc về, nơi ông Irwin Goldman muốn họ ở. Giờ ông ta có thể tỏ ra cao thượng được rồi. Bởi theo những gì ông già Irwin ấy biết, ông ta đã giành chiến thắng. Vậy nên bố con mình hãy bỏ qua chuyện ta đánh con ngã lên xác con trai con nhé, Louis, cả chuyện ta đá con khi con nằm trên đất, cả chuyện ta hất đổ quan tài của thằng bé khỏi đòn và khiến chốt bật mở, từ đó con nhìn thấy – hoặc tưởng mình nhìn thấy – bàn tay con trai con trong phút chốc. Mình hãy bỏ qua tất tần tật. Cái gì qua rồi thì cho qua luôn.
Tôi biết tôi ác miệng, nhưng Irwin này, ông già kia, nếu ông toi đời mà kế hoạch tôi không bung bét thì tôi ước gì ông lăn đùng ra chết ngay lúc này cho rồi.
“Không sao đâu ạ, thưa bố,” anh đều đều nói. “Hôm ấy… chà… là một ngày tất cả chúng ta đều bối rối mà.”
“Gì mà không sao kia chứ,” ông một mực nói, và Louis nhận ra – dù anh không muốn – rằng ông Goldman không phải chỉ đang tỏ ra lịch sự, ông không xin lỗi vì mình hành xử thật khốn nạn sau khi được như ý. Ông cụ nghẹn ngào, từng lời nói ra chậm rãi, run rẩy. “Hôm ấy thật là một ngày khủng khiếp với tất cả chúng ta. Tại ta cả. Tại lão già ngu xuẩn, ngoan cố này. Ta đã khiến con gái ta tổn thương khi con bé cần nương tựa… ta khiến con tổn thương, trong khi có lẽ con cũng cần nương tựa nơi ta, Louis ạ. Con làm thế này… con hành xử thế này… sau hành động của ta… điều đó khiến ta thấy mình như rác rưởi, Louis ạ. Và ta nghĩ ta đáng cảm thấy như vậy.”
Ôi, cho ông ta dừng lại đi, cho ông ta dừng lại kẻo tôi hét vào mặt ông ta và phá tanh bành kế hoạch này bây giờ.
“Chắc Rachel kể với con rồi phải không, Louis, rằng chúng ta còn một cô con gái khác…”
“Zelda,” Louis nói. “Có, cô ấy kể với con về Zelda rồi.”
“Giai đoạn đó thật sự rất khó khăn,” Goldman run rẩy nói. “Khó khăn cho cả nhà chúng ta. Có lẽ khó khăn nhất với Rachel, phải, Rachel có mặt lúc Zelda qua đời, nhưng cũng khó khăn cho cả bà Dory và ta nữa. Dory gần như gục ngã..”
Chứ ông nghĩ Rachel không gục ngã à? Louis những muốn hét lên. Ông nghĩ con nít thì không suy sụp tinh thần à? Hai mươi năm trôi qua rồi mà hễ cứ nhắc đến chết chóc là cô ấy vẫn như đỉa phải vôi đấy. Giờ lại thêm chuyện này. Chuyện kinh khủng, tồi tệ này. Cũng còn may là cô ấy chưa phải vào bệnh viện, nằm truyền dịch đấy. Nên đừng nói với tôi rằng ông và vợ ông khổ sở ra sao, đồ khốn nạn.
“Kể từ khi Zelda qua đời, vợ chồng ta.. ta nghĩ chúng ta đã quá bấu víu vào Rachel… lúc nào cũng muốn bảo vệ con bé… bù đắp cho nó. Bù đắp cho những nhọc nhằn mà con bé phải chịu với… với lưng mình… trong nhiều năm sau đó. Bù đắp vì chúng ta đã không có mặt ở đó.”
Phải, ông già ấy đang rơi nước mắt. Việc gì ông ta phải khóc kia chứ? Nó khiến Louis khó bám trụ lấy nỗi căm hận thuần túy của anh hơn. Khó hơn, nhưng không phải không thể. Anh cố tình mường tượng hình ảnh ông Goldman đưa tay vào túi áo khoác lấy sổ séc tiền nhiều vô kể… nhưng anh chợt trông thấy Zelda Goldman lấp ló, một con ma phá quấy trên chiếc giường hôi thối, khuôn mặt đáng tởm, nanh nọc, đau đớn, tay co quắp như móng vuốt. Con ma nhà Goldman. Phù thủ Oz Dĩ đại và Ghia gớm.
“Bố ơi,” anh nói. “Con xin bố. Như vậy đủ rồi. Đừng khiến mọi thứ phải tệ hơn nữa, được không ạ?”
“Giờ bố mới hiểu con là một người đàn ông tốt, và bố đã hiểu sai về con, Louis ạ. Ôi, nghe này, bố biết con nghĩ gì. Bố có ngu ngốc không? Không hề. Ừ thì đúng là bố có ngu ngốc, nhưng không đến mức ấy. Con hẳn đang nghĩ bố nói liên thiên nãy giờ là vì ở phải, ông già này đã đạt được điều mình muốn, trước đây ông ấy từng cố mua chuộc mình mà, nhưng… nhưng Louis, ta thề…”
“Thôi bố ạ,” Louis nhẹ nhàng. “Con không thể… con thật sự không thể đón nhận thêm nữa.” Giờ thì giọng anh cũng run rẩy. “Được không ạ?”
“Được rồi,” ông Goldman nói rồi thở dài. Louis nghĩ ông thở phào nhẹ nhõm. “Song ta xin nói thêm một lần rằng ta xin lỗi. Con không cần chấp nhận lời xin lỗi ấy đâu. Nhưng ta gọi điện thoại là để nói vậy, Louis ạ. Ta thành thật xin lỗi.”
“Được rồi ạ,” Louis nói. Anh nhắm mắt. Đầu ong lên. “Cảm ơn bố. Con xin chấp nhận lời xin lỗi ấy.”
“Cảm ơn con,” ông Goldman nói. “Và cảm ơn con… vì đã để hai mẹ con đi cùng chúng ta. Có lẽ đây là điều cả hai đang cần. Vợ chồng ta sẽ gặp hai mẹ con ở sân bay.”
“Vâng ạ,” Louis đáp, và một ý tưởng chợt nảy trong đầu. Điên rồ và hấp dẫn bởi nó hết sức đúng đắn. Anh sẽ cho qua những chuyện quá khứ… anh sẽ để Gage an giấc ngàn thu dưới ngôi mộ ở Pleasantview. Thay vì một lần nữa mở ra cánh cửa anh đã đóng sập, anh sẽ cài then, khóa hai lần, vứt chìa đi. Anh sẽ làm đúng như những gì anh nói với vợ: Sắp xếp mọi sự ở đây rồi lên chuyến bay quay về Shytown. Có lẽ họ sẽ ở đó suốt mùa hè, vợ chồng anh cùng cô con gái đáng yêu. Họ sẽ tới sở thú, cung thiên văn, chèo thuyền trên hồ. Anh sẽ đưa Ellie lên tầng cao nhất của Tháp Sears và chỉ cho cô bé vùng Trung Đông trải dài như tấm bảng trò chơi phẳng khổng lồ, màu mỡ, hoài bão. Và rồi đến giữa tháng Tám, họ sẽ trở về căn nhà này, tuy hiện tại nó có vẻ thật buồn, thật u tối, nhưng có lẽ khi đó, khởi đầu mới sẽ mở ra. Có lẽ họ sẽ đủ sức dệt nên cuộc đời mình từ sợi chỉ mới. Khung cửi nhà Creed lúc này nhoe nhoét, bê bết máu khô.
Nhưng liệu điều đó có đồng nghĩa với việc anh giết hại con trai mình không? Giết nó lần thứ hai?
Một giọng nói bên trong cố phản bác rằng không phải, nhưng anh bỏ nó ngoài tai. Anh vội vàng dập tắt giọng nói ấy.
“Bố ơi, con phải cúp máy đây. Con muốn kiểm tra xem Rachel đã chuẩn bị đầy đủ chưa rồi cho cô ấy đi nghỉ.”
“Được rồi. Chào con, Louis. Và một lần nữa…”
Nếu ông ấy nói xin lỗi thêm một lần nữa, chắc mình sẽ hét như bị chọc tiết mất.
“Con chào bố,” anh nói rồi cúp máy.
Lúc anh lên tầng, Rachel đang ngập đầu giữa mớ quần áo. Áo cánh bày trên giường, áo lót vắt lên lưng ghế, quần treo trên móc rồi móc lên tay nắm cửa. Giày được dàn ra như những tay tính dưới cửa sổ. Có vẻ như cô gói ghém đồ đạc chậm mà chắc. Louis ước lượng kiểu này cô phải mang đến ba va li là ít (khéo bốn va li cũng nên), nhưng anh thấy chẳng việc gì phải tranh cãi về chuyện đó cả. Thay vào đó, anh lăn xả vào giúp cô một tay.
“Louis,” cô nói khi hai vợ chồng đóng va li cuối cùng (anh phải ngồi lên va li thì Rachel mới kéo khóa nổi), “anh có chắc anh không có gì muốn nói với em không?”
“Vì Chúa, em yêu, cái gì vậy?”
“Em cũng không biết là gì,” cô lẳng lặng đáp. “Vậy nên em mới hỏi đây.”
“Chứ em nghĩ anh tính làm gì? Mò đến nhà thổ? Hay tham gia rạp xiếc à? Hay gì?”
“Em không biết. Nhưng em cứ thấy lăn tăn. Có cảm giác anh đang muốn tống khứ mẹ con em đi.”
“Rachel, nực cười quá đấy!” Anh nói, lớn tiếng vì cáu tiết. Dù trong tình cảnh khó khăn như hiện tại, anh không khỏi bực mình vì bị vợ đi guốc trong bụng dễ dàng như thế.
Cô cười mệt mỏi. “Anh không phải người giỏi nói dối đâu, Lou.”
Anh toan phản đối thì cô ngắt lời.
“Ellie nằm mơ thấy anh chết,” cô kể. “Đêm qua. Con bé tỉnh dậy và òa khóc, nên em đi vào giường con. Em ngủ cùng con bé hai, ba tiếng đồng hồ rồi mới quay về giường vợ chồng mình. Con bé kể trong mơ, anh ngồi ở bàn bếp, mắt anh mở to nhưng con bé biết anh đã chết. Con nói nó nghe thấy tiếng xe cứu hỏa và ngửi thấy mùi khét. Con bé bảo nó nghe thấy Steve Masterton hét lên.”
Louis nhìn cô sửng sốt. “Rachel,” mãi lúc sau anh mới lên tiếng, “em trai con bé vừa mất. Mơ thấy các thành viên khác trong gia đình qua đời cũng là bình.”
“Phải, tự bản thân em cũng đoán vậy. Nhưng cách con bé kể… những tình tiết trong đó… em cảm giác nó mang điềm báo.”
Cô cười yếu ớt.
“Anh phải ở đó mới hiểu.”
“Ừ, có lẽ thế,” Louis đáp.
Dù tông giọng vẫn hết sức lý trí, anh có thể cảm thấy người anh nổi hết da gà. Chân tóc cứng đờ.
Em cảm giác nó mang điềm báo.
“Vào giường với em nhé,” Rachel đề nghị. “Tác dụng của Valium hết mất rồi, mà em không muốn uống thêm. Nhưng em sợ lắm. Em cũng nằm mơ..”
“Em mơ thấy gì?”
“Em mơ thấy Zelda,” cô gọn lỏn. “Mấy đêm vừa rồi, kể từ khi Gage qua đời, cứ ngủ là em lại thấy Zelda ở đó. Chị ấy bảo chị ấy sắp đến đón em, và lần này sẽ bắt bằng được em. Rằng chị ấy và Gage sẽ bắt em bằng được. Vì em đã khiến họ chết.”
“Rachel, đó chỉ là…”
“Em biết. Chỉ là mơ. Bình thường thôi nhỉ. Nhưng anh vào giường với em, giữ cho những cơn ác mộng ấy không quấy phá em, được không Louis?”
Hai vợ chồng nằm trong bóng tối.
“Rachel? Em còn thức không?”
“Có.”
“Anh muốn hỏi em câu này.”
“Anh hỏi đi.”
Anh lưỡng lự, không muốn khiến cô đau đớn hơn nhưng anh cần biết.
“Em còn nhớ lúc con chín tháng tuổi, vợ chồng mình được phen mất ăn mất ngủ không?” Mãi hồi anh mới cất tiếng.
“Có. Tất nhiên là em nhớ. Sao thể?”
Lúc Gage được chín tháng tuổi, Louis hết sức bận tâm về kích thước hộp sọ của cậu bé. Nó vượt ngưỡng Đồ thị Berterier của Louis, trên đó thể hiện phạm vi phát triển bình thường của hộp sọ trẻ sơ sinh tính theo tháng. Khi được bốn tháng, kích thước hộp sọ của Gage bắt đầu dịch chuyển đến đỉnh đường cong, sau đó còn vượt ngưỡng này. Cậu bé không gặp trục trặc trong việc giữ thẳng đầu – nếu thế thì hai năm rõ mười rồi – nhưng Louis vẫn đưa con đến khám ở George Tardiff, có thể nói ông là nhà thần kinh học xuất sắc nhất vùng Trung Đông. Rachel muốn biết có vấn đề gì nên Louis cũng không giấu vợ: anh lo ngại Gage có thể bị não úng thủy. Mặt của Rachel cắt không còn giọt máu, nhưng cô vẫn giữ bình tĩnh.
“Em thấy thằng bé bình thường mà,” cô nói.
Louis gật đầu. “Anh cũng thấy vậy. Nhưng anh không muốn bỏ qua điều này, em ạ.”
“Không, anh không được bỏ qua,” cô nói. “ Vợ chồng mình không được làm thế.”
Sau khi đo lường hộp sọ của Gage, ông Tardiff chau mày. Ông chĩa hai ngón tay vào mặt Gage theo phong cách nhóm danh hài trong chương trình Three Stooges. Gage rụt lại. Ông Tardiff mỉm cười. Trái tim của Louis như trút được phần nào đá tảng. Ông cho Gage cầm quả bóng. Gage cầm được một lúc rồi thả xuống. Ông nhặt bóng lên, đập cho nó nảy lên rồi quan sát mắt của Gage. Mắt cậu bé nhìn theo quả bóng.
“Theo tôi, khả năng cậu bé bị não úng thủy là năm mươi năm mươi,” lát sau, ngồi trong văn phòng, ông Tardiff nói với Louis. “Không – có thể cao hơn một chút. Nếu có thì cũng chỉ bị nhẹ. Cậu bé phản xạ rất tốt. Phương thức Shunt giải phẫu mới sẽ giải quyết vấn đề này dễ dàng… ấy là nếu như vấn đề tồn tại.”
“Shunt nghĩa là phải phẫu thuật não,” Louis nói.
“Một cuộc tiểu phẫu não.”
Từ lúc lo ngại về kích thước hộp sọ của Gage, Louis đã nghiên cứu về quá trình này, Shunt giải phẫu vốn được thực hiện để hút lượng dịch dư khỏi não của bệnh nhân, và anh thấy nó không ra dáng tiểu phẫu cho lắm. Nhưng anh giữ mồm giữ miệng, tự nhủ mình liệu mà biết ơn chí ít là có phương thức phẫu thuật như thế.
“Tất nhiên,” ông Tardiff nói tiếp, “vẫn có khả năng đơn giản là đầu con trai anh to hơn hẳn so với một đứa trẻ chín tháng. Tôi nghĩ chụp cắt lớp vi tính là bước khởi đầu phù hợp nhất. Anh có đồng tình không?”
Louis đồng tình.
Gage ở lại Bệnh viện Bà Phước một đêm, được tiến hành gây mê toàn thân, phần đầu ngủ li bì được đưa vào một chiếc máy trông như máy sấy quần áo khổng lồ. Rachel và Louis chờ ở tầng dưới trong lúc Ellie ở nhà ông bà ngoại, xem Phố Vừng liền tù tì trên máy thu băng mới của ông. Đối với Louis, đó là những tiếng đồng hồ dài đằng đẳng, xám xịt, trong đó anh tính đến bao viễn cảnh tối tăm rồi so sánh kết quả. Chết do gây mê toàn thân, chết trong quá trình Shunt giải phẫu; chậm phát triển mức độ nhẹ do di chứng não úng thủy; chậm phát triển mức độ nặng cũng do nguyên nhân tương tự; động kinh; mù mắt… ôi có thiếu gì khả năng đâu kia chứ. Louis nhớ mình đã nghĩ, Để có bản đồ thảm họa phiên bản đầy đủ, hãy liên lạc bác sĩ địa phương.
Khoảng năm giờ chiều, ông Tardiff bước vào phòng chờ. Ông cầm theo ba điếu xì gà. Ông đưa một điếu lên miệng Louis; một điếu cho Rachel (cô quá sức sửng sốt nên không phản đối), và một điếu cho bản thân.
“Cậu bé khỏe mạnh. Không bị não úng thủy.”
“Châm điếu thuốc nào,” Rachel reo lên, nở nụ cười trong làn nước mắt. “Tôi sẽ hút cho đến khi nôn mửa thì thôi.”
Cười thật tươi, ông Tardiff châm xì gà cho họ.
Chúa để dành thằng bé cho Tuyến số 15, bác sĩ Tardiff ạ , Louis thầm nhủ.
“Rachel, giả sử thẳng bé bị não úng thủy thật, và giả sử cuộc phẫu thuật không thành công… em vẫn có thể thương con chứ?”
“Anh hỏi gì lạ vậy, Louis!”
“Có hay không?”
“Có, tất nhiên rồi. Bất kể có chuyện gì, em vẫn sẽ thương Gage.”
“Ngay cả khi con mình chậm phát triển?”
“Phải.”
“Lúc đó em có muốn đưa con vào cơ sở chăm sóc không?”
“Không, em không nghĩ vậy,” cô chậm rãi nói. “Em đoán với số tiền anh kiếm được, mình có thể chi trả… cho một nơi thật đàng hoàng… nhưng nếu được, em vẫn muốn con ở với vợ chồng mình… Louis, sao anh lại hỏi em như thể”
“Vì sao à, chắc là do anh vẫn nghĩ đến chị gái Zelda của em,” anh đáp, vẫn chưa hết ngạc nhiên trước sự liến láu kỳ lạ của mình. “Anh tự hỏi em có thể chịu nổi những chuyện đó thêm lần nữa hay không”
“Khác nhau mà,” cô nói với vẻ gần như hứng thú. “Gage là… chà, Gage là Gage. Là con trai mình. Chừng đó đã đủ tạo nên khác biệt rồi. Em nghĩ chắc cũng sẽ khó khăn, nhưng… còn anh, anh có muốn đưa con vào cơ sở chăm sóc không? Một nơi như Pineland chẳng hạn?”
“Không”
“Vợ chồng mình ngủ thôi.”
“Em nói phải.”
“Em cảm thấy giờ em có thể ngủ rồi,” cô nói. “Em muốn gác lại ngày này.”
“Amen,” Louis đáp.
Một lúc lâu sau, cô mơ màng nói: “Anh nói đúng, Louis ạ… chỉ là mơ, là choáng váng thôi…”
“Phải,” anh nói rồi hôn lên dái tai cô. “Em ngủ đi.”
Em cảm giác nó mang điềm báo.
Anh trằn trọc mãi không ngủ được, và trước khi chìm vào giấc ngủ, mảnh trăng khuyết tựa khúc xương trắng hếu của tháng Năm thò vào cửa sổ lom lom nhìn anh.