Chương 51
Mùi xộc lên khiến Louis rụt lại, sặc sụa nôn khan. Bấu vào mép huyệt, anh thở hổn hển, và đúng lúc anh tưởng chừng mình đã kiểm soát được đường ruột thì toàn bộ đống thịt nhạt thếch mà anh tọng vào họng ào ào phọt ra thành bãi ghớm ghiếc. Anh nôn ra ngoài huyệt, đoạn tựa đầu xuống đất, hồng hộc thở. Chí ít thì cơn buồn nôn đã trôi qua. Nghiến chặt răng, anh lôi đèn pin từ dưới nách chiếu xuống quan tài để ngó.
Cảm giác kinh hãi tột độ, gần như hồn xiêu phách tán, choáng ngợp lấy anh – đó là cảm giác thường dâng trào trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất, khi ta tỉnh dậy mà chẳng tài nào nhớ nổi.
Đầu Gage đã biến mất.
Tay của Louis run bần bật, đến độ anh dùng cả hai tay mới cầm nổi đèn pin, nắm chặt lấy nó theo cách cảnh sát được dạy để cầm súng nhắm vào bia tập bắn. Vậy mà tia sáng vẫn run rẩy loạn xạ, phải một lúc sau, anh mới lấy lại được bình tĩnh để hướng ánh đèn pin mảnh như bút chì vào lại mộ.
Không thể nào, anh tự nhủ, điều mày tưởng mày thấy là không thể.
Anh chầm chậm di chuyển ánh đèn pin dọc theo cơ thể dài chín mươi phân của Gage, từ đôi giày mới lần lên quần tây, chiếc áo khoác con con (ôi, Chúa ơi, chẳng có đứa trẻ nào mới hai tuổi đã phải mặc vest), lên phần cổ áo, rồi…
Hơi thở anh nghẹn lại khô khốc, hổn hển, rối bời, trào dâng tức tối, bỗng chốc bao phẫn nộ trước cái chết của Gage dồn dập trong anh, nhấn chìm nỗi sợ tâm linh, ma quỷ, nhấn chìm cảm giác anh đã bước vào lãnh địa của kẻ điên.
Louis lục túi sau tìm khăn mùi xoa rồi lỗi nó ra. Một tay cầm đèn pin, anh củi người vào trong mộ, chông chênh giữ thăng bằng. Nếu khối bê tông của nắp quách rơi xuống thì chắc chắn anh sẽ gãy cổ. Anh nhẹ nhàng lấy khăn mùi xoa lau rêu mốc trên da của Gage – hóa ra rêu sậm màu đến độ trong một thoáng anh tưởng đầu Gage đã không cánh mà bay.
Rêu ẩm nhưng chỉ mọc một lớp mỏng. Lý ra anh phải lường trước được điều này; mấy hôm rồi có mưa, mà quách lại không chống nước. Lia đèn pin sang hai bên, Louis thấy quan tài đang nằm giữa vũng nước nông. Bên dưới lớp rêu mốc nhớp nhúa, anh trông thấy con trai mình. Mặc dù biết chẳng ai mở quan tài sau tai nạn khủng khiếp như thế, nhân viên thực hiện tang lễ vẫn cố gắng hết sức – người theo nghiệp này lúc nào cũng cố gắng làm tròn bổn phận. Nhìn con trai lúc này, anh có cảm giác mình đang nhìn một con búp bê chế tác vụng về. Đầu Gage phình theo những hướng thật kỳ cục. Mắt trũng sâu sau mí mắt đang khép. Thứ gì đó màu trắng thò ra từ miệng con, trông như lưỡi của người bạch tạng, và ban đầu, Louis nghĩ đó là dịch ùn ra. Có lẽ họ đã dùng quá nhiều dịch ướp xác. Công đoạn này rất khó nhằn, chưa kể đây lại là một đứa trẻ, gần như không thể nào xác định bao nhiêu là đủ… hay quá thừa.
Nhưng rồi anh nhận ra đó chỉ là bông gòn. Anh vươn tay kéo miếng bông ra khỏi miệng con trai. Môi của Gage nhão đến lạ, tím đen và rộng khác thường, khép lại với một tiếng nhép ! khe khẽ. Anh vứt bông xuống mộ, mặc nó nổi lềnh bềnh trong vũng nước nông, ánh lên màu trắng gớm ghiếc. Giờ thì một bên má của Gage hóp lại như ông già.
“Gage,” anh thì thầm. “Bố sẽ đưa con ra, con nhé?”
Anh cầu nguyện không có ai đi ngang qua, ví dụ như nhân viên đảo một vòng quanh nghĩa trang lúc mười hai giờ ba mươi phút chẳng hạn. Nhưng giờ, có bị bắt quả tang anh cũng chẳng quan tâm nữa; nếu ánh đèn pin của ai đó chiếu lên anh ngay tại trận, lúc anh đang đứng dưới mộ hành sự, anh sẽ chộp lấy cái thuổng cong vẹo, sứt mẻ của mình rồi cắm thẳng vào sọ kẻ phá đám.
Anh luồn hai tay xuống dưới người Gage. Cơ thể con trai anh èo uột như không xương, và chợt anh kinh hoàng đinh ninh: nếu anh nâng Gage lên, thân thể con sẽ rời ra, và anh sẽ phải nhặt từng bộ phận. Anh sẽ đứng ngây ra trên thành quách với thân thể đứt lìa của con trai, hét lên thất thanh. Và rồi người ta sẽ phát hiện anh.
Nào, đồ nhát cáy, chần chừ gì nữa, làm đi!
Anh luồn hai tay xuống dưới Gage, cắn răng chịu đựng cảm giác ẩm ướt, hôi hám, rồi cứ thế nâng con trai lên, như những lần anh bế con khỏi bồn tắm khi thằng bé tắm vào buổi đêm. Đầu Gage oặt ra sau đến giữa lưng, và Louis lại nôn ọe khi trông thấy những vòng khâu nhăn nhở giữ đầu Gage dính vào vai.
Hơi thở hổn hển, bụng quặn thắt vì mùi hôi và cảm giác mềm oặt không xương mà thân người nát bấy đến tội nghiệp của con trai mang lại, Louis vật lộn bế xác con ra khỏi quan tài rồi ra khỏi huyệt. Trầy trật mãi anh cũng ngồi lên được thành huyệt với thân thể con mình trong lòng, hai chân vắt vẻo trong hố, khuôn mặt thâm tím đến khủng khiếp, mắt như hai lỗ đen trũng sâu, miệng nghệch xuống, run rẩy đầy kinh hoàng, tội nghiệp và buồn bã.
“Gage,” anh cất tiếng rồi bắt đầu đung đưa con trong vòng tay. Tóc của Gage trên cổ tay của anh, vô hồn tựa những sợi dây. “Gage, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi, bố thề với con, Gage, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi, điều này sẽ kết thúc, chỉ đêm nay thôi, Gage ạ, bố thương con, bố thương con rất nhiều.”
Louis cứ thế ru con.
Đến hai giờ kém mười lăm phút, Louis đã sẵn sàng rời khỏi nghĩa trang. Thật ra xử trí thân thể của cậu bé là phần kinh khủng nhất – đó là lúc phi hành gia bên trong, tức tâm trí anh, trôi dạt xa nhất vào không gian vô cùng. Còn giờ, khi đang nghỉ mệt, lưng đau nhói bởi phần cơ làm việc quá tải bừng bừng, giật không ngừng, anh cảm thấy mình có thể quay về rồi. Trở về cả quãng đường xa.
Anh đặt cơ thể của Gage lên tấm bạt rồi bọc lại. Anh dùng những dải băng keo dài quấn lại, đoạn cắt dây thừng làm đôi rồi cột hai đầu gọn gàng. Vậy là anh lại có thêm một tấm thảm cuốn khác. Anh đóng nắp quan tài, đoạn nghĩ lại, anh mở nó ra rồi bỏ cây thuổng cong vẹo vào bên trong. Cử để Pleasantview giữ di vật này; nhưng nó đừng hòng có được con trai anh. Anh đóng nắp quan tài rồi hạ khối nắp quách bằng xi măng xuống. Anh định cứ thế thả khối còn lại nhưng sợ nó bể. Sau một hồi cân nhắc, anh luồn thắt lưng qua vòng sắt rồi nhẹ nhàng hạ khối xi măng vào chỗ. Đoạn anh dùng xẻng lấp hố. Không có đủ đất cát để cái hố ngang bằng với mặt đất như trước. Không đủ. Ngôi mộ bị trũng xuống có thể sẽ thu hút sự chú ý. Hoặc không. Có thể bị chú ý nhưng chẳng ai thèm đếm xỉa. Nhưng tối nay, anh không cho phép bản thân mình nghĩ về điều đó, hoặc lo về điều đó – còn quá nhiều điều phải làm trước mắt. Cả núi công việc. Mà anh thì đang rất mệt.
Hò dô, đi nào.
“Đúng thật,” Louis lầm bầm. Gió nổi lên, rít qua hàng cây, khiến anh chột dạ nhìn quanh. Anh đặt xẻng, cuốc chim chưa được trưng dụng, găng tay, đèn pin bên cạnh túi bạt. Anh muốn dùng đèn pin nhưng gắn mong muốn ấy xuống. Để thi thể và dụng cụ tại đó, Louis bước ngược trở lại con đường ban nãy, và năm phút sau, anh đã đến hàng rào sắt uốn sừng sững. Phía bên kia đường là chiếc xe Civic của anh đậu ngay khúc quanh. Gần ngay trước mắt mà xa tận chân trời.
Louis nhìn nó một lúc rồi đi về hướng khác.
Lần này, anh đi ngược hướng cổng, bước dọc theo hàng rào sắt uốn cho đến đoạn nó bẻ quặt từ đường Mason thành góc vuông. Ở đây có rãnh thoát nước thải, Louis bèn nhìn vào trong. Những thứ trông thấy khiến anh rùng mình. Trong rãnh dồn ứ cả đống hoa thối nát, lớp này chồng chất lớp nọ, trôi xuống đây sau bao mùa mưa và tuyết.
Chúa ơi! Không, không phải Chúa. Những thứ còn sót lại này được dùng để dâng lên một vị Thần còn cổ xưa hơn rất nhiều so với vị thần trong đạo Thiên Chúa. Ở những thời điểm khác nhau, con người chúng ta lại gọi Người với nhiều cái tên khác nhau, nhưng mình nghĩ chị gái của Rachel đã đặt một cái tên hết sức hoàn hảo. Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm. Vị thần của những cái xác nằm dưới lòng đất chờ ngày thối rữa. Vị thần của Bí ẩn.
Louis chằm chằm nhìn xuống rãnh thoát nước như thể bị thôi miên. Mãi lúc sau, anh mới quay đi chỗ khác, hổn hển thở hắt ra tiếng hổn hển của người vừa choàng tỉnh, hoặc người vừa thoát khỏi trạng thái thôi miên khi thầy thôi miền đếm đến mười.
Anh đi tiếp. Anh không phải cuốc bộ quãng xa mới phát hiện thứ mình đang tìm kiếm, và anh đoán tâm trí anh đã âm thầm lưu trữ mẩu thông tin nào vào ngày chôn cất Gage.
Và đây, lầm lũi trong bóng đêm lộng gió là hầm mộ của nghĩa trang.
Quan tài được cất giữ ở nơi này vào mùa đông, khi thời tiết quá sức lạnh giá, đến độ máy xúc cũng chẳng thể đào được vào lớp đất đông cứng. Hầm cũng được trưng dụng vào thời gian cao điểm – một dạng trữ đông thi thể.
Louis biết thỉnh thoảng lại có những đợt cao điểm mà cậu Carl hay gọi là “tập tục lạnh”; ở bất cứ cộng đồng dân cư nào cũng có những thời điểm mà rất nhiều người đồng loạt qua đời dù chẳng ai hiểu nổi lý do là gì.
“Lúc thịnh lúc suy,” cậu Carl nói với anh. “Cháu biết không, nếu cậu có hai tuần trong tháng Năm không ai qua đời thì chắc chắn hai tuần trong tháng Mười một sẽ có chục tang lễ để cậu tổ chức. Có điều nó ít khi xảy ra vào tháng Mười một, và không bao giờ rơi vào Giáng sinh, dù người ta luôn nghĩ đó là lúc nhiều người qua đời. Cái chứng trầm cảm mùa Giáng sinh chỉ là nhăng cuội mà thôi. Cháu cứ hỏi mấy tay tổ chức tang lễ mà xem. Đa phần tâm lý mọi người đều rất vui vẻ vào dịp Giáng sinh, nên họ muốn sống. Và họ cứ thế mà sống thật. Thường thì đến tháng Hai, số lượng người chết sẽ đột ngột tăng lên. Bệnh cúm cướp đi tính mạng của người già, cả viêm phổi nữa, tất nhiên rồi – nhưng không chỉ có thế. Có những người đã chống chọi với căn bệnh ung thư hết sức kiên cường suốt một năm, mười sáu tháng. Thế rồi tháng Hai trờ đến, khắc nghiệt, đa đoan, và chừng như nó khiến người ta cảm thấy mệt mỏi, để rồi ung thư cứ thế cuốn quanh họ như tấm thảm. Ngày 31 tháng Một, bệnh tình của họ thuyên giảm, họ cảm thấy tràn trề sinh lực. Đến ngày 24 tháng Hai, họ đã mồ yên mả đẹp. Tháng Hai là tháng hết người này lại đến người khác trụy tim, đột quỵ, suy thận. Đó là một tháng đầy điểm hung. Đến tháng Hai, ai nấy đều mệt mỏi. Vốn là dân trong nghề, chúng ta chẳng lạ gì điều đó. Nhưng rồi, không có lý do gì cụ thể mà tình trạng tương tự lại xảy ra vào tháng Sáu hoặc tháng Mười. Không bao giờ là tháng Tám. Tháng Tám là một tháng rất chậm. Trừ khi đường ống dẫn khí đốt chính nổ tung hoặc xe buýt thành phố rơi xuống cầu, còn không, chẳng bao giờ hầm mộ nghĩa trang kín chỗ vào tháng Tám. Nhưng rất nhiều lần vào tháng Hai, chúng ta phải xếp chồng chất ba quan tài lên nhau, suốt ngày cầu mong tuyết tan để có thể hạ vài hòm xuống trước khi phải thuê nguyên một căn chung cư.”
Nói đoạn cậu Carl phá lên cười. Cảm thấy mình được dự phần vào một bí mật mà ngay cả giảng viên ở trường Y còn chẳng biết, Louis cũng cười theo.
Cửa đôi của hầm mộ được dựng ở dốc của ngọn đồi rậm rì cỏ mọc, với hình dạng tự nhiên và hấp dẫn như đôi gò bồng đào của phụ nữ. Đỉnh quả đổi này (Louis nghi cảnh quan này có bàn tay sắp xếp của con người chứ không phải tự nhiên – đều tăm tắp như thế kia mà) nằm thấp hơn đầu nhọn của hàng rào sắt uốn chừng ba mươi đến sáu mươi phân, dù ở đỉnh đồi, độ cao hàng rào được giữ cân bằng chứ không xây cao lên.
Louis liếc nhìn xung quanh rồi trườn lên dốc. Phía bên kia là một mảnh đất trống, có lẽ rộng chừng hai mẫu Anh. Không… không phải trống hẳn. Cách đó một đoạn vẫn có tòa nhà bên ngoài, trông như nhà kho nằm trơ trọi. Có lẽ cũng thuộc về nghĩa trang, Louis thầm nghĩ. Đó sẽ là nơi họ cất dụng cụ làm đất.
Đèn đường xuyên qua những tán lá rung rinh của hàng cây – những cây du và phong cổ thụ – chắn giữa nơi này với đường Mason. Louis quan sát nhưng không phát hiện bất cứ chuyển động nào khác.
Vừa trượt xuống bằng mông, anh vừa sợ mình sẽ ngã và chấn thương đầu gối thêm lần nữa, đoạn quay trở lại mộ của con trai. Suýt chút nữa anh vấp phải bọc vải bạt. Anh nhận ra mình sẽ phải đi hai vòng, một vòng khiêng thi thể con trai, một vòng mang dụng cụ. Anh cúi xuống, nhăn mặt vì cái lưng biểu tình, đoạn ôm bọc vải bạt thô cứng trên tay. Anh có thể cảm nhận thi thể của Gage xê dịch bên trong, và kiên định lờ đi phần tâm trí từ nãy đến giờ liên tục thì thầm bảo anh đã phát điên.
Anh di chuyển cái xác qua ngọn đồi tọa lạc hầm mộ của nghĩa trang Pleasantview với hai cửa trượt bằng thép (họ làm nó trông giống ga ra chứa hai chiếc xe đến lạ). Anh tính toán những việc phải thực hiện nếu muốn đưa khối đồ nặng mười tám kí lô này lên con dốc đứng kia khi không còn dây thừng (anh ước giá mà mình giữ sợi dây nguyên trạng lâu hơn, nhưng mơ mộng hão huyền chẳng được tích sự gì) và chuẩn bị tinh thần thực hiện. Anh lùi lại rồi chạy lên dốc, chúi người tới trước, tận dụng động lượng để di chuyển xa nhất có thể. Gần lên tới đỉnh dốc thì chân anh bị trượt do mảng cỏ ngắn ngủn nhưng trơn, lúc tuột xuống, anh vận hết sức ném cuộn vải bạt đi xa nhất có thể. Nó rơi xuống ngay gần đỉnh của quả đồi. Anh lồm cồm leo lên nốt con dốc, nhìn quanh, không thấy ai, rồi dựng cuộn bạt quấn chặt vào hàng rào. Xong xuôi, anh quay lại để lấy nốt những món đồ còn lại.
Hồi sau, anh quay lại đỉnh đồi, mang găng tay, xếp đèn pin, cuốc chim và xẻng bên cạnh bọc vải bạt. Đoạn anh nghỉ lấy sức, lưng tựa vào cọc hàng rào, tay buông trên đầu gối. Đồng hồ điện tử mà Rachel tặng nhân dịp Giáng sinh cho anh biết đã hai giờ một phút.
Anh cho mình năm phút để gói ghém rồi ném xẻng qua hàng rào. Anh nghe tiếng nó rơi đánh thịch xuống cỏ. Cố nhét đèn pin vào quần nhưng không được, anh bèn luồn nó qua hai cọc hàng rào sắt và nghe nó lăn xuống đồi, lòng thầm mong nó không đập vào đá mà tan tành. Ước gì anh mang theo ba lô thì hay biết mấy.
Anh lấy dụng cụ cắt băng keo từ túi áo khoác rồi quấn mũi cuốc chim vào bọc vải bạt nhiều vòng, siết băng keo thật chặt qua lưỡi kim loại của cuốc chim và bên dưới bọc vải. Anh quấn cho đến khi hết băng keo, đoạn nhét dụng cụ cắt rỗng không vào túi áo. Nâng đống đồ lề lên, anh đẩy nó qua hàng rào (lưng anh gào thét phản đối; anh đồ rằng mình sẽ phải trả giá cho đêm nay suốt tuần sau cho mà xem) rồi thả cho nó rơi tự do, nhăn mặt trước tiếng thịch khe khẽ.
Đâu vào đấy, anh lẳng một chân qua hàng rào, chộp lấy hai đầu nhọn trang trí rồi lẳng nốt chân kia qua. Anh trượt xuống, mũi giày cao xuống phần đất giữa các cọc hàng rào rồi rơi xuống mặt đất.
Anh đi xuống phía bên kia quả đồi, mò mẫm trong đám cỏ. Anh tìm thấy cái xẻng ngay lập tức – ánh đèn đường chiếu qua hàng cây, phản chiếu lên lưỡi xẻng chút tia sáng yếu ớt. Anh chật vật tìm mãi mà chẳng thấy đèn pin đâu – nó lặn bao xa trên bãi cỏ này kia chứ? Anh quỳ xuống bằng cả tứ chi, hai tay rờ rẫm qua bụi cây rậm rạp, hơi thở và trống ngực nện ầm ầm trong tai.
Mãi lúc sau, anh mới tìm được nó, một bóng đen mảnh mai cách vị trí của anh đoán chừng một mét rưỡi; giống như ngọn đồi che giấu hầm mộ của nghĩa trang, hình dáng cân đối dễ khiến ta tập trung chú ý. Anh chộp lấy, khum tay trên thấu kính bọc nỉ rồi đẩy công tắc bằng cao su be bé lên trên. Thấy lòng bàn tay sáng lên, Louis tắt đèn đi. Đèn pin vẫn còn dùng được.
Anh dùng dao bỏ túi cắt cuốc chim ra khỏi bọc vải bạt, đoạn đem đồ nghề băng qua bãi cỏ đến hàng cây. Nấp đằng sau thân cây to nhất, anh nhìn trái nhìn phải đường Mason. Đường vắng tanh, không một bóng người. Anh chỉ trông thấy một ngọn đèn duy nhất trên cả con đường – một ô cửa sổ với ánh sáng vàng ở tầng trên. Chắc người ta mất ngủ, hoặc bệnh tật gì đấy.
Nhanh nhẹn di chuyển nhưng không chạy, Louis bước ra vỉa hè. Sau khi ở trong nghĩa trang tối tăm mờ mịt, anh cảm thấy mình như bị phơi trần đầy lộ liễu dưới ánh đèn đường; anh đứng đó, chỉ cách nghĩa địa lớn thứ hai Bangor chừng vài mét, trên tay cầm cuốc chim, xẻng và đèn pin. Nếu có người bắt gặp anh lúc này, trăm phần trăm họ sẽ ngay lập tức đoán ra ý đồ của anh.
Anh vội vã băng qua đường, gót giày kêu lộp cộp. Chiếc xe Civic của anh ở đằng kia, bên kia đường, chỉ cách gần năm mươi mét. Nhưng với Louis lúc này, khoảng cách ấy tưởng chừng như xa cả năm cây số. Mồ hôi thi nhau túa ra, anh bước về phía chiếc xe, căng tai đề phòng tiếng động cơ xe trờ tới, tiếng bước chân không phải chân anh, thậm chí cả tiếng cửa sổ lạch xạch kéo lên.
Bình an vô sự đến chỗ chiếc xe Honda, anh dựng cuốc chim và xẻng vào hông xe, lục tìm chìa khóa — nhưng tìm cả hai túi mà anh vẫn chẳng thấy đâu, giờ thì mồ hôi mẹ mồ hôi con túa trên mặt anh. Tim anh bắt đầu loạn nhịp đập thình thịch, răng anh nghiến chặt, ghìm cơn hoảng loạn đang lồng lộn muốn bùng nổ.
Anh đánh mất chìa khóa rồi, khả năng cao là khi anh đu từ chạc cây xuống, đập đầu gối vào bia mộ và ngã lộn nhào. Chìa khóa hẳn nằm đâu đó trong bãi cỏ, ban nãy anh vất vả mãi mới tìm được đèn pin, giờ muốn tìm chìa khóa có khác nào mò kim đáy bể? Thôi xong. Chỉ chút xui xẻo mà kế hoạch đi tong.
Khoan đã, bình tĩnh thêm chút đi. Lục lại túi lần nữa xem. Trong đó có xu lẻ – nếu đồng xu không rơi ra thì chìa khóa vẫn yên vị trong túi.
Lần này, anh lục túi của mình chậm hơn, lấy tiền lẻ ra, thậm chí còn dốc túi ra ngoài cho chắc.
Vậy mà vẫn không thấy tăm hơi chiếc chìa khóa đâu.
Louis tựa lưng vào xe, tính toán xem bước tiếp theo là gì. Anh đoán mình sẽ phải trèo vào nghĩa trang lần nữa. Để con trai mình ở lại, cầm theo đèn pin, trèo vào nghĩa trang, dành cả buổi tối trong công cuộc vô vọng tìm kiếm…
Chợt ánh sáng lóe lên trong tâm tri mệt lử của anh.
Cúi xuống, anh nhìn vào trong chiếc Civic. Và kìa, chìa khóa vẫn đang cắm trong ổ.
Anh giọng gầm gừ khe khẽ, đoạn chạy sang phía ghế lái, giật mở cửa rút chìa khóa ra. Trong đầu anh bỗng vang lên giọng nói đầy răn đe của Karl Malden, hình tượng một người bố đầy nghiêm khắc, diễn viên với cái mũi to cùng chiếc mũ vành cong kiểu xưa: Khóa xe cẩn thận. Cất chìa kỹ càng. Đừng tiếp tay cho thanh niên ngoan ngoãn trở nên hư hỏng.
Anh vòng ra sau xe mở cửa. Anh nhét cuốc chim, xẻng và đèn pin vào trong rồi đóng sập cửa. Đi xuống vỉa hè được khoảng sáu hay mười mét gì đấy, anh chợt nhớ đến chùm chìa khóa. Lần này anh lại cắm chìa ngay ổ khóa của cửa sau xe.
Đồ ngu xuẩn! Anh mắng nhiếc bản thân. Mày ăn gì mà ngu hết phần thiên hạ thế hả, sao mày không quên béng tất cả luôn đi!
Anh quay lại rút chìa khóa.
Anh bế Gage trong tay và đi gần tới đường Mason thì bỗng dưng, một con chó sủa váng lên đâu đó. Không phải – nó không chỉ sủa. Mà nó bắt đầu tru lên, tiếng tru khàn đục vang vọng khắp con đường. HÚÚÚÚ! HÚÚÚÚÚÚ!
Anh nấp sau một cái cây, băn khoăn không biết chuyện gì sẽ xảy ra, băn khoăn không biết nên làm gì tiếp theo. Anh đứng đó, trù liệu việc đèn sẽ bật sáng hai bên con đường.
Trên thực tế, chỉ có một ngọn đèn sáng lên, ở rìa ngôi nhà đối diện chỗ Louis đang nấp trong bóng tối. Phút sau, một giọng nói cộc cằn vang lên, “Im ngay, Fred!”
HÚÚÚÚÚÚ! Fred đáp.
“Cho nó ngậm miệng lại mau, Scanlon, kẻo tôi gọi cảnh sát bây giờ!” Ai đó hét lên từ bên đường Louis đứng, khiến anh thót tim nhảy dựng và làm anh nhận ra ảo tưởng con đường này trống rỗng, vắng tanh đúng là sai lầm. Xung quanh anh có rất nhiều người, có hàng trăm cặp mắt, và con chó ấy đang tấn công giấc ngủ, đồng minh duy nhất của anh. Tiên sư mày, Fred, anh rủa xả trong đầu. Ôi, con chó chết băm chết vằm.
Fred lại bắt đầu điệp khúc mới; nó cất tiếng dạo đầu, mới vừa chuyển giao sang HÚÚÚÚÚÚ thì một tiếng nện rất mạnh vang lên, theo sau là chuỗi ư ử, ăng ẳng.
Cửa đóng đánh cạch, bốn bề yên tĩnh trở lại. Ánh đèn ở rìa căn nhà chủ của Fred sau một hồi cũng tắt ngóm.
Louis những muốn nán lại trong bóng tối thêm ít lâu để chờ đợi; hẳn nhiên chờ đợi cho náo động lắng xuống là thượng sách. Nhưng thời gian vẫn vùn vụt thoi đưa.
“Đi thôi,” anh lầm bầm với chính mình rồi đi thẳng.
Anh ôm bọc vải bạt rồi băng qua đường, bước về phía chiếc Civic, không thấy ai trong tầm mắt. Fred cũng đã tìm được bình yên. Một tay anh ôm bọc vải, tay kia lấy chìa khóa mở cửa sau.
Gage không nằm vừa khoảng sau xe.
Louis thử dựng bọc vải bạt thẳng đứng, nằm ngang, nằm chéo. Khoang sau của chiếc Civic quá nhỏ. Anh có thể bẻ cong và quặp bọc vải bạt cho vừa — Gage hẳn không phiền lòng đâu – nhưng Louis không nỡ lòng nào làm thế.
Thôi nào, thôi nào, thôi nào, đi khỏi đây mau, đừng chần chừ nữa.
Nhưng anh cứ đứng ngây ra đó, rối trí, đầu óc trống rỗng, ôm bọc vải đựng thi thể của con trai trong tay. Đoạn anh nghe thấy tiếng một chiếc ô tô đang tới gần, và gần như chẳng nghĩ ngợi gì, anh ôm bọc vải sang ghế hành khách, mở cửa, đẩy bọc vải lên ghế, gập bọc vải ở vị trí mà anh đoán là đầu gối và hông của Gage.
Anh đóng cửa rồi vòng ra sau chiếc xe Civic, đóng sập cửa lại. Lúc chiếc xe nọ chạy ngang qua đoạn giao cắt, Louis nghe thấy giọng của những kẻ say xỉn hò reo ỏm tỏi. Anh ngồi sau tay lái, khởi động xe, và khi đang vươn tay đến công tắc bật đèn pha thì một suy nghĩ khủng khiếp vụt lên trong đầu anh. Nhỡ đâu đầu của Gage quay ra sau, thằng bé đang ngồi nhưng khớp đầu gối và hông bẻ sai hướng, hai con mắt trũng sâu của thằng bé thay vì nhìn về phía kính chắn gió lại hướng ra cửa sổ đằng sau thì sao?
Có vấn đề gì đâu, tâm trí anh rít lên nạt nộ, bởi nó sức cùng lực kiệt lắm rồi. Mày không nghĩ thông được à? Chuyện đó chẳng thành vấn đề!
Có chứ. Có vấn đề chứ. Bởi Gage đang nằm bên trong, đó không phải đống khăn tắm!
Anh rướn người, nhẹ nhàng áp tay lên bọc vải bạt, sờ nắn những đường nét bên dưới. Chắc hẳn trông anh giống gã mù đang cố xác định một vật nào đó. Hồi sau, anh tình cờ lần mò được chỗ lồi lên mà anh đoán chắc là mũi của Gage – nó đang quay đúng hướng.
Đến lúc đó, anh mới an tâm khởi động chiếc xe Civic và bắt đầu quãng đường mất hai mươi lăm phút về lại Ludlow.