← Quay lại trang sách

CHỦ NHẬT 2A Thường niên (Gioan1:29-34)

Bài phúc âm vừa được công bố nói về việc Gioan Tẩy Giả làm chứng với các môn đồ của ông về đức Giêsu. Phúc âm Gioan là phúc âm nghiệm chứng, nghiệm xét; những gì được viết nơi phúc âm Gioan là thành quả của hành trình nghiệm xét trong khi chiêm nghiệm. Tôi nói chiêm nghiệm chứ không phải chiêm niệm. Chiêm nghiệm là suy tư, lấy kinh nghiệm, sự hiểu biết, tri thức, học thức của mình làm phương tiện để suy tưởng, suy tư, suy nghĩ, dẫn đến sự thể, kết luận hợp tình hợp lý. Đây là hành động tâm linh được phúc âm Marcô gọi là “Metanoia” nơi tiếng Hy Lạp mà các học giả Kinh Thánh dịch thành “Sám hối hay hối cải” trong câu, “Sau khi Gioan Tiền Hô đã bị nộp, thì đức Giêsu đến xứ Galilê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng, ‘Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15).

Động từ “Metanoia” nơi tiếng Hy Lạp có nhiều nghĩa. Nghĩa gốc của nó là, thay đổi hướng đi, chiều hướng; các nghĩa phụ là, suy nghĩ khác thường, cải tạo tư tưởng, thay đổi tư duy, ăn năn thống hối, hối cải. Nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước do 14 vị học giả Kinh Thánh biên soạn và được in ra năm 1994 tại Sài gòn, phần ghi chú được viết, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giêsu còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố.” Theo sự ghi chú này, ngôn từ “Sám hối” nơi phúc âm Marcô, có lẽ mang nghĩa suy tư, nghiệm xét, chiêm nghiệm. Riêng ngôn từ chiêm niệm có nghĩa vừa tụng niệm vừa chiêm ngắm. Tụng niệm để không bị chia trí hầu định tâm. Lý do rất dễ hiểu, bất cứ ai để ý một chút cũng có thể nhận ra; đó là tâm trí chúng ta luôn luôn khơi động, hoạt động, chuyển động, như con ngựa hoang; trong khi suy tư, nghiệm xét, hoặc chiêm ngắm cần định tâm, cần dồn hết tâm trí vào một vấn đề nào đó.

Phúc âm Gioan viết; Gioan Tẩy Giả nói, “Chính Ngài là Đấng tôi đã nói, ‘Sẽ đến sau tôi, một người đã vượt trước tôi, vì Ngài đã có trước tôi. Phần tôi, tôi đã biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ mình ra cho Israel, mà tôi đã đến thanh tẩy bằng nước” (Gioan 1:30-31). Như vậy, đoạn phúc âm Gioan này muốn dùng lời nói của Gioan Tẩy Giả để giới thiệu đức Giêsu với chúng ta. Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể biết được đức Giêsu thế nào, thực sự ra sao, chúng ta cần suy tư, nghiệm xét lời Ngài rao giảng. Chúng ta cần suy tư, cần nghiệm xét câu, “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15). Chúng ta cần suy tư, suy nghĩ lời đức Giêsu công bố tại Galilê; chúng ta cần biết Nước Thiên Chúa là gì? “Đã gần bên” là như thế nào; Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là chi.

Chúng ta, ai cũng biết Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì tất nhiên, Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Kinh Thánh nói, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài,” thì muốn biết Thiên Chúa, chúng ta cần biết hình ảnh của Ngài. Và hình ảnh của Thiên Chúa là chính chúng ta, chình mỗi người. Như thế, muốn biết Thiên Chúa thế nào, chúng ta cần nhận biết chính mình ra sao, tốt lành, thánh thiện hay mưu mô, gian tà thế nào.

Nói cho đúng, ai cũng nghĩ, cũng cho rằng không ai biết mình bằng chính mình, nhưng thực tế minh chứng, mỗi người chúng ta chỉ biết được phần nhỏ nào về mình mà thôi. Nơi Âu Mỹ có câu nói, “You are much more than what you can think of yourself.” Câu này có nghĩa, “Chúng ta có giá trị hơn tất cả những gì chúng ta có thể nghĩ về mình.” Tôi đề nghị, mỗi người chúng ta, khi về tới nhà, lấy một tờ giấy, kẻ một đường từ trên xuống dưới chia đôi tờ giấy làm hai phần. Thực tâm, chân thành viết xuống tất cả những gì tốt lành, thánh thiện từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Bên kia cũng viết tất cả những điều không nên không phải của mình từ ý nghĩ, lời nói tới hành động. Không xét đoán, không kết án; có sao viết vậy. Có điều, mọi người nên chú ý, quý vị nên ngồi trên chiếc ghế có dựa vững chắc nếu không sẽ bị bật ngửa khi viết xong. Tôi nói trước, nếu ai đó thực tâm, chân thành muốn nhận biết về chính mình.

Đừng ngạc nhiên khi thấy mình không thể chấp nhận được những gì mình vừa viết ra. Tôi còn nhớ, có lần nhắc tới danh xưng Hội Thánh khi tôi còn đang học nơi trường thần học, linh mục giáo sư lên tiếng, “Hội thánh là dân của Chúa, bao gồm những con người; mà con người thì tội lỗi, nên chúng ta cũng phải gọi là hội tội.” Tôi đề nghị, bình tĩnh, đọc lại bản viết một lần, và mở rộng lòng chấp nhận mình chính là những gì mình viết xuống. Ngay lúc chấp nhận mình bết bát như thế, chúng ta mới nhận chân được Thiên Chúa khoan nhân với mình đến độ nào. Thánh Phao lô nhắc nhở chúng ta, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Nhận thực được như thế, câu hỏi được đặt ra, và đó là, nếu Thiên Chúa ngự trị nơi mình, vậy khi mình phạm tội, Chúa có phạm tội với mình chăng? Đặt câu hỏi như vậy, tất nhiên, chúng ta biết chúng ta cần sống thế nào.

Vào thời đức Giêsu rao giảng, chắc chắn chưa có ngôn từ Tin Mừng, thế nên, câu nói, “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng,” có nghĩa, “Hãy sám hối và tin vào lời Ta nói.” Chúa Giêsu đã nói gì? Nơi lời rao giảng đầu tiên tại Galilê, Chúa Giêsu nói, “Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên. Hãy sám hối, và tin vào Tin Mừng.” Như vậy, điểm chính yếu nơi câu nói chính là, “Nước Thiên Chúa đã gần bên.” Cũng câu này, nơi bản dịch tiếng Anh được viết, “The Kingdom of God is at hand.” Nơi bản dịch tiếng Việt, ngôn từ “Gần bên” hay ngay bên cũng có nghĩa ở nơi, ở trong.

Đọc phúc âm Matthêu chúng ta thấy, khi Chúa Giêsu chữa lành một người bị quỷ ám, Biệt phái cho rằng Ngài nhờ chúa quỷ Bêelzêbul để trừ quỷ thì được Chúa trả lời, “Nếu Ta nhờ Bêelzêbul mà trừ quỷ, thì bè phái các ngươi nhờ ai mà trừ quỷ… Ví bằng Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:27-28; Lc. 11:20). Nơi phúc âm Luca cũng được viết, “Biệt phái thỉnh vấn Ngài, bao giờ Nước Thiên Chúa đến; Ngài đáp lời và nói, ‘Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền. Người ta sẽ không nói được, ‘Này ở đây hay ở đó;’ vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21). Đồng thời, nơi phúc âm Luca, Chúa Giêsu sai bẩy mươi hai môn đồ đi rao giảng, Ngài dặn họ, “Hãy chữa lành các kẻ ốm đau trong thành, và hãy bảo họ, ‘Nước Thiên Chúa đã gần bên (at hand) các ngươi” (Lc. 10:9).

Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trên, ở trong, ngay bên các ông; có nghĩa Thiên Chúa ở trên, ở trong, ngay bên mọi người. Nói cách khác, Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Điều này cũng hợp với câu phúc âm Matthêu, “Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23). Emmanuel là danh hiệu của đức Giêsu vì Ngài rao giảng Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Thế nên, từ nay, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta nên để ý lời chào đầu tiên của linh mục chủ sự, “Chúa ở cùng anh chị em,” và chúng ta thưa, “Và ở cùng cha.” Đây chính là lặp lại Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng cho chúng ta. Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi quý ông, quý bà, quý anh chị em, nơi tôi, nơi mọi người. Amen.

Chủ Nhật 3A thường niên (Mt. 4:12-23)

Không hiểu quý vị cảm thấy hoặc suy nghĩ thế nào sau khi nghe bài phúc âm vửa được công bố. Riêng tôi, cứ tưởng tượng đến cảnh Chúa Giêsu kêu gọi các ông Simon, Andrew, đang quăng chài, và James cùng John, hai người con của ông Zebedee, đang thu gọn lưới với bố, và các ông ấy bỏ ngay mọi sự mà đi theo Ngài, thì lòng ruột tôi cảm thấy ngỡ ngàng và nổi lên nhiều khúc mắc. Thứ nhất, lần đầu tiên gặp Chúa Giêsu trong khi đang làm việc, đang quăng chài bắt cá đem bán hầu có tiền mua thực phẩm hoặc nấu ăn; hay James và John con ông Zebedee đang gom lưới với bố của họ trên thuyền; mà các ông bỏ tất cả đi theo Chúa là điều khó tin. Thứ hai, các ông ấy có công việc tự tại, không lệ thuộc bất cứ hãng xưởng nào mà chính mình tự chủ, ưng thì làm, mệt thì nghỉ, không bị bó buộc mà bỏ đi theo Chúa là điều không hợp lý cũng chẳng hợp tình. Thứ ba, vậy còn vợ con, hoặc bố mẹ trong gia đình, không một lời từ giã lại càng vô lý hơn. Phúc âm không ghi lại ít nhất lời chào hỏi của Chúa Giêsu với ông Zebedee, bố của hai ông James và John, nhưng lại viết các ông bỏ lại bố và thuyền đi theo Chúa Giêsu ngay lập tức. Tôi nghĩ, soạn giả phúc âm Matthêu viết còn quá nhiều thiếu sót, ai cũng có thể nhận ra những sự thể phi lý này.

Lục lọi tìm hiểu sự hình thành của phúc âm, tôi mới nhận ra, phúc âm được viết bởi một cộng đồng tín hữu và được đặt tên cho dễ phân biệt. Cũng giống như cuốn sách Đạo Đức kinh của Lão học. Xưa nay người ta cứ cho rằng tên tác giả cuốn đạo học Đạo Đức kinh là Lão tử, rồi bày ra truyền thuyết Lão tử đi chỗ nọ, tới chỗ kia để viết sách. Thực ra, danh hiệu “Lão tử” có nghĩa một cụ già đáng kính bởi không ai biết người trước tác sách Đạo Đức kinh là ai nên đặt tên cho tác giả cuốn sách đó là Lão tử. Phúc Âm cũng thế, nếu để ý xăm soi diễn trình phúc âm được viết, chúng ta thấy phúc âm bao gồm những câu nói bất thường, không thể nào áp dụng nơi cuộc đời nhân sinh. Chẳng hạn, “Nếu mắt ngươi làm cớ ngươi vấp phạm thì móc mà quăng nó đi” (Mt. 18:9), hoặc, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 30:37). Tôi không biết quý vị nghĩ gì khi đọc hoặc nghe được những câu như thế này nơi phúc âm, nhưng biết chắc không ai áp dụng chúng nơi cuộc đời. Bằng chứng, quý vị thấy ngay nơi thực tế, không có bậc vị vọng nào rao giảng phúc âm chột mắt hay cụt tay; cũng như chúng ta, không ai dại dột móc mắt hay chặt tay mình khi vấp phạm điều gì. Đặc biệt các bậc cha mẹ, nếu có con muốn theo Chúa, muốn đi tu thì bị đuổi thẳng cổ ra khỏi nhà, nhưng phải lịch sự, biết điều, chào hỏi, thưa gửi cho đúng phận làm con, dẫu giả đò quyến luyến.

Thêm vào đó, những câu truyện ngắn cũng được viết nối tiếp thường được gọi là dụ ngôn. Dụ ngôn chứ không phải ngụ ngôn. Ngụ ngôn là những câu truyện mang ý nghĩa khuyên răn, khuyến khích cách ăn ở, cư xử trong cuộc đời cho phải đạo làm người. Dụ ngôn là câu truyện ngắn thường thì thiếu sót chi tiết và có những câu kết luận phi lý không thể áp dụng nơi cuộc đời thế tục. Nếu để ý, người đọc sẽ bị ngỡ ngàng, chưng hửng, bởi câu truyện được gọi dụ ngôn kể một đàng, khuyên một nẻo; nếu hiểu theo nghĩa từ chương, nghĩa đen, kết cục không thể nào chấp nhận được. Chẳng hạn, dụ ngôn ba người làm công, dụ ngôn mười nàng trinh nữ.

Bài phúc âm chúng ta vừa nghe là một dụ ngôn nói về phản ứng nên có của một người khi nhận biết lời mời gọi của Thiên Chúa. Phúc âm không nói Chúa Giêsu hứa hẹn chức quyền hay tiền tài các ông Simon, Andre, James và John sẽ gặt hái được nếu đi theo Ngài, mà chỉ bâng quơ cho biết, “Hãy theo Ta và Ta sẽ cho các ngươi nên ngư phủ bắt người.” Câu này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen, từ chương. Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như được viết nơi phúc âm, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43; Mc. 1:38; Mt. 4:23). Thế nên ngôn từ “Bắt người” nơi bài phúc âm có nghĩa, rao giảng cho người ta nhận biết Tin Mừng Nước Trời.

Thế đối với chúng ta thì sao? Chúng ta nhận biết được mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chúng ta tuyên xưng theo Chúa, nhưng thử hỏi theo Chúa là theo thế nào. Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời; vậy chúng ta đã biết Tin Mừng Ngài rao giảng là gì chưa? Thử hỏi, nhà chúng ta có cuốn Kinh Thánh không? Và giả sử có, chúng ta có đọc Kinh Thánh không? Hay đọc ít nhất phần phúc âm không? Thế nên, nếu ai chưa có Kinh Thánh hay ít nhất cuốn Tân Ước Thánh Kinh, làm ơn kiếm đâu đó hay mua một cuốn.

Tất nhiên, muốn biết Tin Mừng Nước Trời mà đức Giêsu rao giảng, chúng ta cần biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì. Nếu muốn biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì, chúng ta cần biết Thiên Chúa là thế nào, liên hệ với chúng ta ra sao. Muốn biết Thiên Chúa thế nào, lại cần biết hình ảnh của Thiên Chúa; vì Kinh Thánh nói, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (Sáng Thế K‎ý 1:27). Nghĩa là chúng ta cần biết về chính mình.

Chúng ta tin rằng, nghĩ rằng mình có linh hồn; vậy linh hồn của mình thế nào, hình dáng ra sao, màu xanh hay đỏ, tím hay vàng; đã bao giờ mình nhìn thấy linh hồn mình chưa? Linh hồn của mình liên hệ với mình và với cuộc đời của mình ra sao? Chúng ta tin rằng linh hồn có cuộc sống vĩnh cửu; vậy sau khi chết, linh hồn của mình sẽ đi về đâu? Linh hồn liên hệ với Thiên Chúa thế nào?

Nơi phúc âm có 8 lần câu nói đại khái “Ai có tai thì nghe;” hoặc “Ai có tai để nghe thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Chúng ta, cũng như các nhà khoa học chứng thực tai để nghe. Nhưng hãy kiểm chứng lại, tai có thể nghe tự nó được không? Vậy khi một người chết, linh hồn ra khỏi xác thì tai có còn nghe được không? Sự việc này chứng tỏ tai không thể nghe được tự nó mà chỉ là phương tiện cho linh hồn nghe; vì khi linh hồn đã ra khỏi xác rồi thì tai hết nghe. Tương tự như thế, miệng, mắt, khối óc cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn dùng để nói, dùng để nhìn, và dùng để suy nghĩ hay phân giải. Suy nghĩ rộng hơn, cả con người, cuộc đời một người cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động và thăng tiến nơi hành trình được gọi là cuộc sống một người. Thân xác chúng ta không khác gì chiếc xe và linh hồn giống như người lái xe. Hồn lái đi đâu, làm việc gì thì thân xác tuân theo thực hiện ý định của linh hồn.

Ai cũng biết một cộng với một là hai; các nhà bác học cũng nói như thế. Nhưng thử hỏi, một cái xác cộng với một linh hồn thì bằng mấy? Ai cũng có thể trả lời một cách chắc chắn rằng linh hồn cộng với thân xác thì bằng một. Nếu ai dại dột nói rằng linh hồn cộng với thân xác bằng hai thành phần riêng biệt coi chừng bị thiên hạ cho rằng nóng đầu. Tuy nhiên, chỉ linh hồn không thì chẳng ai biết, và chỉ thân xác không thì đem ra nghĩa địa mai táng. Nhưng khi một linh hồn hòa nhập vào một thân xác, thì ý định, ước muốn, ý nghĩ, tư tưởng, tham vọng, yêu, ghét phát sinh. Tựu chung, những ý nghĩ, ước muốn, tham vọng này được gọi là tâm trí. Như vậy, một linh hồn hòa nhập vào một thân xác, ít nhất phải bằng ba; ba là một, một là ba. Nói cách khác, một người gồm ba phần bất khả phân ly, linh hồn, xác thân, và tâm trí; một thực thế giống hình ảnh của Thiên Chúa, ba là một, và một là ba bất khả phân ly.

Nơi phúc âm Gioan có nói, “Thiên Chúa là Thần Khí, nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Gioan 4:24), và thánh Phao lô đoan chắc, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Nơi khác ngài cũng nhắc nhở, “Anh em không biết sao? Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 3:16). Thế nên thánh Phao lô nói, “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20). Những điều này chứng tỏ linh hồn của mỗi người là Thiên Chúa nội tại. Bởi vậy, cuộc đời của mỗi người chúng ta đều là phương tiện cho Thiên Chúa ngự trị và hoạt động.

Bài phúc âm khuyến khích chúng ta suy tư, suy nghĩ, về thực thể chính mình để nhận biết cuộc đời của mình chính là hiện thể của Chúa, hoạt động nơi hành trình biến chuyển vĩnh cửu. Amen.