Chủ Nhật 4A thường niên (Mt. 5:1-12)
Kinh “Phúc Thật Tám Mối,” chúng ta thường đọc vào ngày chủ nhật, chính là viết lại thành kinh cho thuận cung đọc của bài phúc âm vừa được công bố. Tuy nhiên, phúc âm là sách viết về tâm linh, sách được viết để chúng ta suy nghĩ, suy tư hầu thực hành lời phúc âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Vì sách được viết để chúng ta suy nghĩ, suy tư nên tất cả những gì được viết nơi phúc âm, đều viết về cách suy nghĩ, suy tư, tức là viết về tinh thần nên có nơi mỗi người. Tìm kiếm Nước Thiên Chúa chính là suy nghĩ xem Nước Thiên Chúa là gì, và điều kiện đầu tiên của việc suy nghĩ để tìm kiếm Nước Thiên Chúa được diễn dịch thành kinh cho chúng ta đọc; đó là, “Thứ nhất, ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật vì chưng Nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.” Thực ra, nơi phúc âm được viết như chúng ta vừa nghe, “Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo; vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5:3). Vậy “Tinh thần khó nghèo” là gì? Làm sao áp dụng tinh thần khó nghèo vào việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hơn nữa, phúc âm nói gì về “Tinh thần khó nghèo?”
Nơi cuốn sách, Cái Cười của Thánh nhân, cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần, dịch câu này không biết từ ngôn ngữ nào thành, “Phúc thay những kẻ ngu đần;” thì cũng chẳng khác gì nơi kinh chúng ta đọc, “Ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật.” Xét nơi phương diện suy nghĩ, suy tư, ngu đần thì sao mà suy tư, lòng khó khăn lại thuộc về cuộc sống hữu vi, không hợp cho suy nghĩ, tìm tòi, tìm kiếm. Thử xét về ước muốn, ý nghĩ, ước mơ của bất cứ ai; chúng ta thấy, ai cũng thế, có cái chòi để ở, chúng ta muốn có căn nhà khang trang hơn. Các bà, các chị, ai không thích hình dáng, gương mặt mình coi bộ mặn mà hơn, quần áo thanh lịch hơn. Nhưng, thật là nghịch thường, có bà, có chị nào dư giả được chút ít, ghé qua viện thẩm mỹ để sửa sang vóc dáng, bơm ngực, sửa cằm, xâm mắt, xâm môi, chúng ta gọi là “Sửa sắc đẹp.” Thử hỏi, đã đẹp rồi mắc mớ gì phải sửa, chẳng lẽ sửa cho xấu hơn. Thế mà chúng ta vẫn gọi là “Sửa sắc đẹp.” Ấy, ngôn ngữ lắm lúc phát biểu tréo ngoe như vậy. Nơi sách cổ gọi là “ý tại ngôn ngoại,” nói một đàng, hiểu một nẻo.
Ngôn từ được dịch nơi phúc âm cũng thế. “Tinh thần khó nghèo” là tâm tính đơn sơ, chất phác, chỉ chăm chăm chú chú nơi một vấn đề nào đó; chẳng khác gì đứa bé muốn một thứ gì thì không để ý chi tới mọi sự chung quanh. Đây là lý do phúc âm được viết, đức Giêsu nói, “Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng cấm chúng nó; vì nước Đức Chúa Trời thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy” (Mc 10:14). Xét thế, câu phúc âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa,” có thể được viết thành, “Việc quan trọng nhất của một người đó là hãy chăm chú tìm kiếm Nước Thiên Chúa.”
Thánh Phao lô cũng khuyên chúng ta, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người; thế nên, công việc đầu tiên để thăng tiến đời sống tâm linh, thăng tiến hành trình đức tin, hành trình nhận biết Thiên Chúa nơi mình là suy tư, suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa nơi cuộc đời mình. Khi suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa nơi mình, thì không để cho bất cứ tư tưởng, ý nghĩ, ham muốn nào khác chen vào làm phiền tâm tư như thánh Phao lô đề xuất, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).
Tinh thần khó nghèo chính là tâm tư luôn để ý nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị nơi mình.
Hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa chính là những suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét nơi mỗi người. Đừng dập tắt Thần Khí có nghĩa hãy suy tư, suy nghĩ bất cứ điều gì và suy nghĩ về mọi phương diện. Chúng ta nên để ý, khi chúng ta suy nghĩ, những tư tưởng tự nó hiện hữu, nó là hoạt động của Thần Khí; nó không đúng, không sai, ngoại trừ tâm trí chúng ta chiều theoý nghĩ đó, hoặc nói ra cho người khác biết. Nhiều khi nó rất nghịch với ước muốn của mình; hãy để nó tự nhiên đến rồi đi. Cũng như nhiều chuyện xảy ra nơi cuộc đời, chúng ta biết những chuyện đó xảy ra chung quanh nhưng không để tâm đến, sẽ không có gì ảnh hưởng chúng ta.
Chớ khinh thị các ơn tiên tri có nghĩa chính những tư tưởng, ý nghĩ đến với chúng ta khi suy nghĩ. Tất nhiên, mọi sự kiện, sự việc xảy đến đều có nguyên nhân. Những ý nghĩ, tư tưởng xảy ra khi suy tư, suy nghĩ đều có lý do của chúng tùy thuộc điều kiện hiện tại mình đang hiện diện. Chẳng hạn lúc đang giặt quần áo mà tâm trí mình suy nghĩ về sự nóng giận hay vui tươi nơi mình ở một hoàn cảnh nào đó. Tâm trí của mình sẽ hoặc nhớ lại nguyên nhân tại sao mình đã tức giận hay vui tươi. Rồi sự suy nghĩ nhận biết nguyên nhân này, sẽ dẫn tâm trí chúng ta đến quyết định thái độ mình nên như thế nào nếu trường hợp tương tự xảy ra. Đây là hành trình nhận thức sự việc. Dù bỏ quần áo, xà bông vô máy giặt và vặn nước cho máy chạy hay giặt quần áo bằng tay, tâm trí chúng ta vẫn có thể suy nghĩ, tâm trí chúng ta vẫn có thể để ý suy luận về vấn đề nào đó. Nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin cũng thế, tâm trí chúng ta chuyên nhất suy nghĩ về vấn đề linh hồn mình là gì, liên hệ đến thân xác, cuộc đời thế nào v.v… được gọi là tinh thần khó nghèo.
Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; nghiệm xét mọi sự có nghĩa bất cứ sự gì, ý nghĩ, tư tưởng nào phát xuất hay xảy đến khi suy nghĩ đều nên nhận định, suy xét xem có hợp lý, hợp tình với đường hướng mình đang suy tư, suy nghĩ hay không. Bất cứ những gì hợp lý, hợp tình thì được gọi là điều lành. Những gì không hợp lý, hợp tình, không thể chấp nhận được với tâm ý chân thành, tốt lành đều bị coi là điều dữ, hãy để nó thoáng qua và tự sinh tự diệt. Chẳng hạn, đang có một món tiền đủ để mua chiếc xe mới hoặc đưa gia đình đi một chuyến du lịch. Tất nhiên, tâm trí chúng ta sẽ có những tính toán hơn thiệt để quyết định nên xử lý món tiền đó như thế nào. Dĩ nhiên, nếu thấy sự việc nào hợp lý, đem lại lợi ích cho mình và gia đình hơn, chẳng hạn dùng tiền mua xe mới, thì ý nghĩ đưa gia đình đi du lịch sẽ tự động bị bỏ qua, không gì ảnh hưởng. Tương tự như thế, khi suy tư, suy nghĩ, bất cứ những ý nghĩ, tư tưởng, ham muốn nào làm phiền hoặc bất lợi, không hợp tình hợp lý với diễn trình suy tư, đều được coi là điều dữ.
Thánh Phao lô còn đề nghị nguyên tắc trong lúc suy nghĩ, suy tư, và đó là nên có một tâm trí hoàn toàn tự do; nói cách khác, đó là tự do tuyệt đối khi suy nghĩ, nghiệm xét. Trước hết, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian.” Một điều rõ ràng và đó là tất cả mọi ý nghĩ, tư tưởng, ý thích, tham vọng, ý đồ, dục vọng, chiều hướng, quan niệm v.v… bất cứ gì cũng có thể xảy đến nơi trí óc khi suy tư, chúng ta không để nó ảnh hưởng đến nhận định, nhận thức của mình, không cho phép bất cứ gì ảnh hưởng đến sự suy tư của chúng ta. Nó đến, nếu hợp lý, hợp tình, có thể chấp nhận được thì dùng nó như điều kiện, yếu tố để tiếp tục suy nghĩ. Nếu nó bất lợi nhưng lại chiều theo ý thích của mình cũng bỏ ngay vì không hợp, không thuận. Khi chúng ta suy nghĩ, chính mình làm chủ quyết định mọi sự, không ai biết, nên tâm trí mình hoàn toàn tự do suy xét, không lệ thuộc truyền thống, lề luật, hay bất cứ thói quen, ý thích hoặc chiều hướng nào. Ưng thì giữ lại, không ưng, không hợp, bỏ qua.
Điểm quan trọng nhất nơi điều kiện tâm trí khi suy nghĩ, suy tư chính là “Theo đức Kitô.” Nên nhớ, chúng ta đang nói về suy nghĩ, suy tư, những hoạt động của tâm trí chứ không phải hành động, hoặc việc làm xác thân. Xin mọi người để ý, những câu nói, lời khuyên nghịch thường nơi phúc âm đều nói về những diễn tiến trong khi suy tư, suy nghĩ. Chẳng hạn, “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, thì móc mà quăng nó đi,” hay, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta.” Điều mình đang đối diện, đang suy nghĩ, chẳng hạn, Nước Thiên Chúa là gì, thì tất cả những ý nghĩ, ước mơ, tưởng tượng nào đó đến với tâm trí cũng đều được coi như cha mẹ. Phúc âm dùng tình cảm thân thiết nhất của chúng ta với cha mẹ để ám chỉ bất cứ gì thân thiết, ý thích, hoặc chiều hướng, truyền thống, thói quen của mình ảnh hưởng đến sự suy tư.
Khi suy nghĩ về Nước Thiên Chúa là gì, phúc âm nói, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền. Người ta sẽ không nói được này ở đây hay ở đó; vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17: 21), Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mt. 10:7; Lc. 9:2: 60; 10:11; 16:20). Nước Thiên Chúa đang hiện diện (Mc. 1:15; Mt. 4:17). Nước Thiên Chúa ở trên các ông (Mt. 12:28; Lc. 11:20). Nước Thiên Chúa ở giữa các ông (Lc. 17:20). Cứ luẩn quẩn với những câu phúc âm này, đối diện với chúng, hôm nay không xong, tiếp tục ngày mai, ngày mai không xong, tiếp tục cứ tự hỏi đến gần là thế nào, ở trên là làm sao, đã ở trong, sao lại còn nói ở giữa, ở trên. Đối diện, để những câu nói này luẩn quẩn trong tâm trí thêm một tuần. Nếu một tuần vẫn chưa gì biến chuyển, cho nó một tháng, và nếu một tháng vẫn chưa có gì mới, cứ tiếp tục; một năm vẫn chưa biết sao, năm tiếp theo. Theo đức Kitô tức là để câu nói nghịch thường, khác thường luẩn quẩn nơi trí óc, nơi tâm trí bất cứ lúc nào dù đang làm việc gì.
Tôi chỉ có thể đoan chắc với quý vị, hành trình đức tin, hành trình tâm linh chính là suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét, đối diện với câu nói khác thường, nghịch thường nơi phúc âm, suy nghĩ về bất cứ dụ ngôn phi lý nào đó; chẳng hạn dụ ngôn ba người làm công, dụ ngôn ông chủ vườn nho thuê thợ vào những thời điểm khác nhau trong ngày mà tiền công được trả ngang bằng nhau, chỉ một đồng, hay dụ ngôn mười nàng trinh nữ. Nếu ai thực hành, không sớm thì chầy, sẽ vô cùng ngỡ ngàng, vì chỉ cần nghiệm được một câu, tất cả các câu ngang ngược, nghịch thường khác sẽ được tự động giải đáp; sẽ biết linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác ra sao, sẽ biết Thiên Chúa là gì, thế nào nơi cuộc đời mình.
Nơi sách Sứ Đồ Công Vụ, nhắc lại lời tiên tri Zoel từ ngàn xưa, “Sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên mọi con cái xác phàm. Các trẻ sẽ nói tiên tri; người già nằm chiêm điềm mộng, và thanh thiếu niên thấy được thị kiến. Và cả trên các tôi trai, tớ gái của Ta, trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta xuống, và chúng sẽ nói tiên tri” (SĐCV. 2:17-18). Những ngày sau hết, ngày Chúa đến, là thời điểm thức ngộ nơi mỗi người. Chúng ta là con cái của Chúa. Thần Khí của Chúa đổ xuống trên cả các tôi trai, tớ gái của Ngài, tất nhiên, Thần Khí Thiên Chúa đang hiện diện nơi mỗi người. Một điều rõ ràng và đó là sự nhận thức không thể cầu, mà chỉ có thể ngộ. Và sự thức ngộ, nhận thức chỉ đến với những ai suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét lời Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà anh chị em.
Chủ Nhật 5A thường niên (Mt. 5:13-16)
Các ngươi là muối cho đời. Nếu muối ra dại thì lấy gì muối nó lại. Không còn ích gì, chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi.
Các ngươi là ánh sáng cho thế gian. Cái thành tọa lạc đầu non không thể bị che khuất được. Người ta không thắp đèn rồi đặt nó dưới đất, nhưng để trên giá đèn, và nó sáng soi mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các ngươi phải chói lọi trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc lành các ngươi làm mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời.
Quý ông bà, anh chị em trong đức Kitô,
Mới đọc hoặc nghe bài phúc âm vừa được công bố, ai không thấy mình mang một trách nhiệm, một nhiệm vụ cao cả mà đã bao lâu nay không bao giờ để tâm tới, “Các ngươi, các con là muối cho đời.” Có bản dịch viết nhẹ nhàng, ngọt ngào hơn thì được ghi, “Các con là muối ướp mặn đời, các con là ánh sáng cho thế gian.” Thực tâm tự hỏi, mình được mời gọi làm muối ướp mặn đời thì phải làm gì để hoàn thành điều phúc âm khuyến khích, “Cũng vậy, ánh sáng của các ngươi phải chói lội trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc lành các ngươi làm mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời.”
Đọc phúc âm nếu để ý, ai cũng nhận biết, điều quan trọng nhất đối với cuộc đời một người tin vào Chúa, tin theo đức Kitô, chính là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi các sự khác sẽ được ban cho các ngươi.” Bởi vậy, muốn trở nên muối ướp mặn đời, sự việc đầu tiên cần được thực hiện lại là nhận biết Nước Thiên Chúa. Dĩ nhiên, muốn nhận biết Nước Thiên Chúa thì phải tìm kiếm. Tuy nhiên, tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách nào trong khi tối ngày phải làm việc lo sao có miếng cơm manh áo cho cuộc sống nhân sinh; bởi nếu không sống được thì lấy gì mà tìm, mà kiếm.
Nơi phúc âm được viết, “Nước Thiên Chúa đã gần bên” (Mt.10:7; Lc. 9:2; 60; 10:11; 16:20), “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15; Mt. 4:17), Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28; Lc. 11:20), “Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi” (Lc. 17:20), và“Thiên Chúa là Thần Khí, nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Gioan 4:24). Suy như thế, sự tìm kiếm Nước Thiên Chúa chính là suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét phúc âm.
Thử hỏi, như vậy, đã bao lâu nay chúng ta có đọc và suy nghĩ về phúc âm để thực hành “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” không? Chúng ta có bao giờ suy nghĩ xem Thiên Chúa liên hệ với mình ra sao không, hay chỉ quen miệng lặp lại những sáo ngữ cho có vẻ con nhà có đạo; miệng hô lên, tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào đức Kitô nhưng không biết Chúa là gì, thế nào, liên hệ với cuộc đời mình ra sao. Nói rằng kính mến Chúa nhưng chưa ra khỏi nhà thờ đã lườm nguýt người mình không ưa, đôi khi còn to tiếng nói bóng nói gió cho kẻ khác xấu mặt.
Phúc âm dạy, “Các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào chủ các ngươi đến” (Mt. 24:42; 25:13; Mc. 13:35). Hãy tỉnh thức có nghĩa hãy suy nghĩ, suy tư, hãy nghiệm xét. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nên Nước Thiên Chúa chính là sự hiện diện của Chúa ở mọi nơi, nơi mỗi người. Bởi vậy, tìm kiếm Nước Thiên Chúa là suy nghĩ, suy tư, để nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình; nơi cuộc đời của mình. Quyền lực nào khiến con tim mình đập, lá phổi mình thở cho dù trong lúc ngủ mình không còn biết gì đến chính ngay mình. Quyền lực nào khiến chiếc mũi ở trước mặt, ai cũng như ai, không ai có chiếc mũi ở phía sau gáy hay sau lưng. Thiên Chúa chính là sự sống nơi mình, quyền lực hiện hữu nơi mình.
Bình thường, chúng ta nghĩ rằng cầu nguyện là phải dành riêng thời gian để bày tỏ ước muốn ý định của mình với Thiên Chúa. Nhưng thực ra, cầu nguyện chính là suy tư, suy nghĩ để nhận thực được sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi cuộc đời của mình, nhận ra những sự cả thể đang xảy ra nơi cuộc đời mình. Hãy tỉnh thức hoặc cầu nguyện liên lỉ (1Thes. 5:17) chính là suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét.
Chúng ta có thể suy nghĩ bất cứ lúc nào, làm ruộng, cấy lúa, làm rẫy, cấy rau, rửa bát, quét nhà, giặt giũ quần áo. Làm thì cứ làm nhưng đầu óc bình tĩnh suy tư, nhận định. Như chúng ta biết, suy tư, nhận định từ tâm hồn; bộ óc chỉ là phương tiện cho linh hồn liên hệ với cuộc sống xác thân. Khi hồn ra khỏi xác, bộ óc, mắt tai, mũi miệng, ngay cả xác thân hết hoạt động. Sự thể này minh chứng, thân xác và cả cuộc đời của một người chỉ là phương tiện cho linh hồn học những bài học cần phải học.
Như vậy, cuộc sống chính yếu của một người là cuộc sống của linh hồn, được gọi là cuộc sống tâm linh; xác thân và cuộc đời nhân sinh này chỉ là phương tiện. Thánh Phao lô dạy, “Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cor. 3:16), và ngài cũng nhắc nhở, “Anh em không biết sao, thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần anh em nhận lãnh từ Thiên Chúa” (1Cor. 6:19). Như vậy, linh hồn của mình chính là Thần Khí của Thiên Chúa; linh hồn là Thiên Chúa nội tại.
Nơi phúc âm Gioan có câu, đức Giêsu phán, “Sự sáng thế gian chính là Ta. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Gioan 8:12), và Ngài còn bảo, “Khi Ta còn ở thế gian Ta là sự sáng thế gian” (Gioan 9:5). Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Thế nên sự sáng cho thế gian chính là Tin Mừng Nước Trời. Chúng ta cũng có cùng nhiệm vụ như đức Giêsu, là muối ướp mặn đời, là ánh sáng cho thế gian, là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Bởi vậy, cuộc sống của mỗi người phải là cuộc sống minh chứng sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình.
Thử hỏi, nếu thực sự nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mình, thái độ, cách sống, lối cư xử, ăn nói, giao thiệp phải thế nào để minh chứng. Có câu nói, “Không làm điều xấu đã khó, không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn. Là muối ướp mặn đời, là ánh sáng thế gian, là lối sống minh chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi chính mình.
Chủ Nhật 6A thường niên (Mt. 5:17-37)
Ngay đầu bài phúc âm vừa được công bố, Chúa Giêsu minh xác, “Đừng tưởng Ta đến để bãi bỏ lề luật hay các tiên tri. Ta đến không phải để bãi bỏ mà là để làm cho trọn” (Mt. 5:17). Đọc nơi sách Nhị Luật hay Thứ Luật và sách Dân Số nơi Cựu Ước, chúng ta thấy, dân Do Thái phải giữ những lề luật khá khắt khe. Chẳng hạn, nơi sách Thứ Luật, đoạn 14, câu 3 được viết, “Ngươi sẽ không ăn vật gì đáng gớm… Nhưng các ngươi sẽ không ăn các giống này trong các loài nhai lại, nhưng lại không có móng xẻ hai: lạc đà, thỏ, cu li, vì chúng thuộc loài nhai lại nhưng lại không có móng xẻ hai. Chúng sẽ là nhơ uế đối với các ngươi. Lợn, vì tuy nó có móng xẻ hai; chúng sẽ là nhơ đối với các ngươi” (Thứ Luật 14:3). Hoặc nơi trường hợp người con bất trị, “Khi một người có con ương ngạnh và ngỗ nghịch, không vâng nghe tiếng cha, tiếng mẹ; cha mẹ sử dạy nó chẳng nghe; thì cha mẹ bắt nó mà điệu ra trước hàng kỳ mục trong thành: ‘Đứa con chúng tôi đây ương nghạnh, ngỗ nghịch, không vâng nghe tiếng chúng tôi dạy, lại ăn chơi sa đà chè chén.” Toàn dân trong thành sẽ ném đá cho đến chết thôi. Ngươi sẽ khử trừ sự dữ khỏi giữa ngươi. Toàn thể Israel sẽ nghe biết và giới sợ” (Thứ Luật 21:18-21).
Nơi điều luật về sự nhơ uế còn được ghi rõ, bất cứ người hay con vật nào chết ngoài trời sẽ là nhơ uế; người phụ nữ mới sanh con cũng là nhơ uế; người chết cũng nhơ uế và nhà có người chết cũng nhơ uế. Giường nằm của người nhơ uế cũng bị nhơ uế, nếu ai ngồi lên cũng bị nhơ uế. Những người bị nhơ uế phải thi hành luật tẩy rửa bằng cách tắm nước pha với phân bê trong vòng bẩy ngày, mỗi ngày một lần. Luật nhơ uế này được tuân giữ rất khắt khe; chẳng hạn, khi vị tư tế đang trong thời kỳ thi hành nhiệm vụ, nếu thân mẫu hay thân phụ của ông ta qua đời, ông ta cũng không được phép bước vô trong lểu hay nhà có người chết vì nhà hay lều đó đã bị nhơ uế. Nhận biết như thế, chúng ta không lạ gì khi đọc dụ ngôn “Người Samaritanô tốt lành” nơi phúc âm (Lc. 10:25-37). Vị tư tế và thày luật sĩ đã không giúp đỡ người bị cướp nằm bên đường mà tránh sang bên kia để đi. Nói tóm lại, nơi sách Nhị Luật hay Thứ Luật và sách Dân Số nói lên những lề luật dân Do Thái phải tuân theo trong cuộc sống.
Chúa Giêsu minh xác, “Đừng tưởng Ta đến để bãi bỏ lề luật và các tiên tri. Ta đến không phải để bãi bỏ mà là để làm cho trọn.” Nơi phúc âm được viết, “Ta bảo các ngươi, nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn Ký lục và Biệt phái, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời.” Ký lục và Biệt phái là những giới điều hành trong xã hội Do Thái, biết rành rẽ lề luật trong sự phân xử nơi cuộc sống cộng đồng của dân Chúa theo đúng các quy tắc lề luật đã được đặt ra không cần biết lý do hoặc nguyên nhân khiến sự việc xảy ra trong cuộc sống.
Phúc âm trình bày lối nhận định thâm sâu hơn nơi ý định, ước muốn của con người. Chúng ta đều biết, ý nghĩ, ước muốn, tham vọng phát xuất tự linh hồn chứ không phải từ bộ óc; vì bộ óc thuộc về vật chất và vật chất không thể phát sinh tư tưởng, ước muốn, tham vọng. Đồng thời, nếu thực tâm đối diện với lòng mình, chúng ta thấy, ước muốn, tham vọng của mình về chuyện gì thì lòng dạ, hành động, lối sống của mình đều chiều theo để thực hiện chuyện đó. Qua phúc âm, Chúa Giêsu nói về lẽ nên và không nên nơi ước muốn, ý định của một người. Thế nên, phúc âm có câu, “Không phải điều vào miệng làm người ta ra nhơ uế, nhưng điều bởi miệng ra; điều đó mới làm cho người ta ra nhơ uế” (Mt. 15:11).
Bởi đó, không gì ngạc nhiên khi chúng ta đọc, “Các ngươi đã nghe bảo người xưa: Chớ giết người. Kẻ giết người thì sẽ can án. Còn Ta, Ta bảo các ngươi, phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì can án trước công nghị, và ai mắng là đồ khùng thì can án hỏa ngục, lửa thiêu. Vậy, nếu các ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi; ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ mà đi làm hòa với anh em ngươi trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi” (Mt. 5:21-24). Phúc âm dạy chúng ta nên để ý tới tâm tình, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, tham vọng của mình. Đây là hành trình đức tin, hành trình tâm linh, nhận biết thực sự lòng mình đang thế nào. Nói cách khác, phúc âm khuyến khích chúng ta thực tâm đối diện với lòng mình chứ không phải chỉ hình thức, hoạt động bên ngoài.
Tuy nhiên, khi đối diện với lòng mình, với tâm tư, ai cũng thường thiên vị, chỉ nghĩ đến những điều hay, điều tốt, và tránh nghĩ tới những điều không nên không phải nơi mình. Đây có lẽ là nguyên nhân câu chuyện bà Evà ăn trái cấm được viết. Là người, ai không muốn có cuộc sống dễ thở, thảnh thơi hơn dẫu câu “Nhàn cư vi bất thiện” luôn gắn trên môi miệng. Ai không muốn ăn ngon, mặc đẹp, ra giầy vào dép, lên xe xuống ngựa. Ai không muốn giàu có, quyền cao, chức trọng. Nhưng đâu ai lại muốn bận tâm, cực khổ thực hiện mơ ước của mình dẫu biết rằng bất cứ ước muốn nào cũng có giá phải trả. Nhìn lại lòng mình, nhìn lại ham muốn nơi mình, nơi mỗi người chất chứa một bà Evà tuyệt vời tham vọng. Nhưng, cũng như bà Evà nơi Kinh Thánh, không ai trong chúng ta muốn trả giá cho tham vọng của mình. Bà Evà đổ lỗi cho con rắn có lẽ vì nó không biết nói tiếng người nên không cãi lại; thêm nữa, có lẽ nó cũng không hiểu tiếng người; vì giả sử nó hiểu, đớp bà Evà một miếng, coi chừng ngày nay chúng ta sẽ không đa tâm mà sống chân thật với lòng.
Bài phúc âm khuyến khích chúng ta mở rộng lòng để nhận biết tâm tình thực sự của mình thế nào trước mặt Thiên Chúa. Phúc âm chỉ rõ, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Muốn nhận biết Thiên Chúa, chúng ta nên thực sự nhận biết chính mình. Xin Chúa chúc lành nơi mọi người.
Chủ Nhật 7A thường niên (Mt. 5:38-48)
Nơi bài phúc âm vừa được công bố có lời khuyên, “Ta bảo các ngươi, hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:44-46). Đoạn phúc âm lại được kết luận, “Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi ở trên trời là Đấng trọn lành” (5:48).
Nơi cuốn sách Cái Cười Của Thánh Nhân, cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi nơi đề mục “Tư Tưởng U Mặc,” câu nói của G.C. Lichtenberg, “Quyển sách là một cái gương soi. Nếu một con khỉ mà nhìn vào, dĩ nhiên không thể có cái ảnh của một bậc thánh hiện lên” (CCCTN; NDCần; Đại Nam; Năm?; Tr. 393). Đồng thời, nơi kho tàng nhận thức cũng có câu nói, “Người ta có thể dạy cho một con khỉ đánh đàn piano một bản nhạc tuyệt vời, nhưng không thể nào dạy cho con khỉ trở thành một nhạc sĩ.” Lý do thì ai cũng biết; con khỉ không có trí khôn, không có tâm trí như con người.
Thế phúc âm muốn nói lên điều gì khi khuyên chúng ta, “Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi ở trên trời là Đấng trọn lành” (5:48)? Thiển nghĩ, xin mọi người đừng vội đội cho tôi chiếc nón kiêu ngạo, mà hãy bình tâm nhận thực về thực thể chính mình. Phúc âm nói “Hãy trở nên trọn lành như Cha các ngươi ở trên trời” có nghĩa mọi người chúng ta có thể trở nên trọn lành như Thiên Chúa; vì mọi người chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa (Khởi nguyên 1:27); vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt. 1:23); vì mỗi người chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa như thánh Phao lô minh xác,“Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Đây cũng là lý do tại sao phúc âm khuyến khích, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Thiên Chúa là Thần Khí, là linh hồn ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, là sự sống, là gốc gác sự hiện hữu nơi mỗi người.
Thế nên, cuộc đời của mỗi người không phải chỉ là cuộc sống thân xác. Cuộc sống nhân sinh và cuộc đời mỗi người chỉ là phương tiện cho cuộc sống tâm linh của mỗi người, là cơ hội cho linh hồn thăng tiến, và là phương tiện cho diễn trình biến chuyển của Thiên Chúa nơi hành trình vĩnh cửu. Tuy nhiên, bởi vì chúng ta có xác thân, sống trong cuộc đời đầy biến chuyển ảnh hưởng không những thân xác mà còn tâm tình, ước muốn. Thêm vào đó, ai không mang khát vọng bẩm sinh thăng tiến cuộc đời; trong khi thân xác bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những biến chuyển, khó khăn thế tục nên ước muốn, niềm mơ thăng tiến bẩm sinh của chúng ta lâu dần chiều theo tham vọng hữu vi đồng thời khát vọng thăng tiến tâm linh cũng mờ phai theo tháng ngày sinh sống.
Đồng ý rằng, linh hồn và xác thân là một, bất khả phân ly ngoại trừ chết. Linh hồn mang ước vọng cao sang, thân xác sẽ kiếm tìm cuộc đời thăng tiến. Nhưng những khó khăn, gian truân trong cuộc sống thế nhân mạnh mẽ thúc đẩy tham vọng con người khiến hồn cũng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, ảnh hưởng của cuộc sống thế nhân thiết thực và cấp bách, trong khi khát vọng, thao thức thăng tiến tâm linh hình như quá mờ nhạt, rất khó hay ít khi được con người để ý đến, hoặc có được nghe nhắc đến thì cũng vì chẳng có gì ảnh hưởng đến cơm áo, gạo tiền, không chi ảnh hưởng tới nhu cầu nhân sinh nên thường cũng bị bỏ quên. Ảnh hưởng của cuộc đời thế nhân nặng nề trên một người đến nỗi đã có câu nói, “Kẻ thù tệ hại nhất của tôi lại là chính tôi.” Tham vọng thế tục của mỗi người chúng ta che mờ khát vọng tâm linh bẩm sinh nơi mỗi người.
Lời phúc âm khuyên nhủ, “Ta bảo các ngươi, hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:44-46). Chúng ta không dám đối diện với chính mình chỉ vì chúng ta đã tự khinh. Chúng ta được thế tục thúc đẩy, “Tốt khoe, xấu che;” bởi chúng ta cảm thấy nhục nhã với chính mình. Chúng ta luôn cố chứng tỏ mình là thế nọ, thế kia vì chúng ta nhận ra mình quá hèn hạ nên cố bôi son, trát phấn để che lấp những điều chẳng nên của mình. Nhưng không, lời Chúa khuyến khích chúng ta, “Hãy yêu mến thù địch,” hãy đối diện chính mình, nhận chân mình như thế nào và mở rộng lòng chấp nhận mình là mình, tốt cũng như xấu, thánh thiện cũng như đốn mạt. Đây là ý nghĩa, là thực trạng của công án, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương.” Mỗi người bao gồm hai thành phần đối nghịch như hai mặt của một đồng tiền, một bản chất thánh thiện hòa nhập lẫn lộn với tham vọng, tính cách thấp hèn thế nhân; một ước vọng bẩm sinh khát khao thăng tiến tâm linh mờ mờ bị che lấp bởi thèm khát thế tục.
Lời Chúa khuyến khích chúng ta hãy đối diện chính mình để nhận ra sự thánh thiện của Thiên Chúa tiềm ẩn nơi cái bãn ngã nhân sinh thế tục của mình. Ai cũng biết câu, “Nhân chi sơ, tính bản thiện.” Cuộc đời một người đâu chỉ giới hạn trong những ngày tháng nơi dương thế ngắn ngủi trăm năm nơi trái đất này; mà thực sự, căn bản cho sự sống nhân sinh chính là cuộc sống tinh thần,cuộc sống tâm linh, cuộc sống thần linh. Thực sự nhận ra cuộc sống tâm linh, thần linh của mình hay không, tùy thuộc chúng ta có để ý suy tư, nghiệm xét về thực thể con người của mình hay không.
Một Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, chắc chắn không thể nào có hình ảnh tệ hại như chúng ta có thể nghĩ tới. Những phiền hà do cuộc sống thế nhân chỉ là phương tiện cho linh hồn kinh qua để học hỏi những kinh nghiệm cần phải học. Dĩ nhiên, “Ai nên khôn không khốn ít nhất một lần,” nhưng thăng tiến hay không lại tùy thuộc nhận thức của người trải nghiệm, hoặc sự khốn khó, khổ ải trở thành kinh nghiệm cho ta dày dạn dấn bước trên hành trình thăng tiến, hay chấp nhận chìm ngập nơi tham vọng thế nhân để dần quên cả thực thể tâm linh nơi mình.
Hãy yêu thương thù địch, hãy bình tâm suy tư nhận thực chính mình. Hãy trở nên trọn lành như Cha các ngươi là Đấng trọn lành. Hãy chấp nhận những yếu hèn của mình để vươn lên nơi hành trình biến chuyển vô cùng của Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà anh chị em.