← Quay lại trang sách

Đặc tính phúc âm

Điều tôi muốn nói đầu tiên; đó là đặc tính của phúc âm. Phúc âm thường bị hiểu lầm là lịch sử kể lại cuộc đời và những lời dạy của Chúa Giêsu. Ngay như nơi sách vở, các học giả Kinh Thánh cũng quan niệm như thế. Nhưng không, phúc âm được viết để khuyến khích chúng ta suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét từng câu nói khôn ngoan hầu nhận biết, nhận thức thực thể của mình, và Thiên Chúa, cũng như sự thực thể liên hệ của Thiên Chúa với con người. Ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca được cấu tạo bởi liên kết các câu khôn ngoan và những dụ ngôn dưới hình thức một câu truyện diễn tả về cuộc đời Chúa Giêsu, sự giảng dạy, khổ nạn, và sự sống lại của Ngài, nên được gọi là phúc âm nhất lãm. Riêng phúc âm Gioan nói về thành quả của sự chiêm nghiệm của một tâm hồn khi nghiệm xét phúc âm nhất lãm.

Đọc và suy tư, nghiệm xét từng câu theo phương pháp của thánh Phao lô, phúc âm dùng Chúa Giêsu như một bung xung, một danh hiệu mà thôi. Mục đích chính yếu của phúc âm là khuyến khích, kích thích, thách đố chúng ta suy nghĩ, suy tư, suy nghiệm, nghiệm xét để thức ngộ. Chúng ta đều biết, sự nhận thức không thể cầu mà chỉ có thể ngộ. Có câu nói, “Nước nóng lạnh người uống tự biết.” Tôi nghĩ, từ xưa tới nay cũng có nhiều người đã ngộ nhờ suy nghĩ những câu nói bất thường nơi phúc âm, nhưng họ đã không dám nói ra chỉ vì e bị những đầu óc hạn hẹp nơi tôn giáo kết án. Nói cho đúng, tất cả các tôn giáo đều là những tổ chức nhân sinh, những sản phẩm thế tục của các đạo học. Các sách vở đạo học thường được gọi là kinh, chẳng hạn, Thánh Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Chí Tôn Kinh hay Ca, v.v…

Xét theo ý nghĩa của từng câu nói nơi phúc âm, chúng ta thấy, những câu nói nghịch thường, bất thường được gọi là khôn ngoan chính là thành quả suy tư, nghiệm xét thâm trầm nói lên sự chứng ngộ của một tâm hồn. Thí dụ, “Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng nó đi,” hoặc, “Ai có tai thì nghe.” Những câu nói này diễn tả thực trạng tâm trí lúc suy tư mang tính chất thách đố tâm trí con người suy nghĩ, suy tư, hay nghiệm xét sao cho có thể áp dụng vào cuộc sống; nói cách khác, những câu nói này thách đố chúng ta suy nghĩ để đạt đến nhận thức, tiến tới giác ngộ.

Thí dụ, thử đặt vấn đề với câu, “Ai có tai thì nghe.” Cứ để câu nói này luẩn quẩn nơi tâm trí; sẽ có lúc nêu lên câu hỏi, vậy cái tai có thể nghe được tự nó không, hoặc gặp trường hợp người chết, sẽ nhận ra cái tai không còn nghe được. Thế rồi sẽ nhận ra câu trả lời vì linh hồn đã ra khỏi xác. Điều này chứng tỏ linh hồn dùng tai để nghe. Từ đó các câu hỏi khác trờ tới; vậy linh hồn là gì? Linh hồn liên hệ thế nào với thân xác? Và ước muốn, tham vọng, tình cảm, từ đâu ra; để rồi từ đó sẽ dẫn tới nhận thức thân xác và cuộc đời chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động.

Chúng ta có thể so sánh sự suy tư một câu nói nghịch thường nơi kinh sách đạo học với sự việc dùng một bữa ăn. Sự hiểu biết ý nghĩa một câu nói không đem lại ích lợi gì cho sự nhận thức; chẳng khác gì sự hiểu biết lợi ích của thực phẩm vì không thể làm chúng ta no bụng. Sự suy nghĩ, nghiệm xét một câu nói bất thường nơi kinh sách cũng giống như hành động ăn uống. Muốn no bụng thì phải ăn, muốn hết khát thì cần uống, muốn thức ngộ phải suy nghĩ. Sự hiểu biết, kiến thức, tri thức, quan niệm, lề luật, ngay cả kinh nghiệm sống, tất cả chỉ là phương tiện cho một tâm hồn suy nghĩ, suy tư.

Tôi biết chắc chắn quý vị có thắc mắc; vậy cha không tin với giáo hội à; hoặc, cha không tin phúc âm là lời của Chúa sao? Tôi còn có thể dự đoán sẽ có người trình lên tới giám mục; tôi giảng phúc âm không phải là lời Chúa. Đúng ra, tôi nên học theo lời dạy củaphúc âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Nhưng tôi không muốn rơi vào trường hợp bị phúc âm, bị lời Chúa quở trách, “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục; các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52). Nói đúng sự thực, Thiên Chúa không có mồm, chẳng có miệng. Đó là lý do tại sao phúc âm đã tám lần lặp đi lặp lại câu, “Ai có tai thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35).

Bài phúc âm hôm nay kết luận với câu nói ngang ngửa, “Chính là để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì dược thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù” (Gioan 9:32). Đui mù ở câu nói mang hai nghĩa, đui mù nơi thân xác và đui mù vì không suy nghĩ, không suy tư, không nghiệm xét. Đui mù nơi thân xác thì ai cũng biết. Đui mù vì không suy tư, nghiệm xét do lệ thuộc kiến thức, tri thức, hiểu biết hữu vi, thế tục, không nhận ra khả năng, hồng ân suy tư nơi mình, không dám đặt vấn đề, không dám tự phản biện, lạm dụng quan niệm cổ xưa, “Chúng ta phải tin với giáo hội.” Giáo hội là dân Chúa thì tin với giáo hội là tin thế nào? Hơn nữa, giáo hội cũng chỉ là tổ chức nhân sinh đồng quan điểm, nhưng vấn đề tin cần nhận thức. Không dám suy nghĩ, không dám đặt vấn đề thì sao có thể nhận thức mà nhận thức không thể cầu, chỉ có thể ngộ.

Phương pháp suy tư, nghiệm xét

Thánh Phao lô rõ ràng minh xác phương pháp suy tư nơi thư thứ nhất gởi giáo đoàn Thessalonica, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-22). Nghiệm xét là suy nghĩ, suy tư, đặt vấn đề, nghiệm chứng; tựu trung là để tâm trí đặt vấn đề về mọi khía cạnh của một câu nói hay vấn đề nào đó. Tự do suy nghĩ, không giới hạn. Điều lành có nghĩa hợp tình, hợp lý với suy tư của mình. Điều dữ là những gì mình không thể chấp nhận. Ai thử sẽ biết, nói ra quá dài dòng.

Điều kiện tâm trí để suy tư, nghiệm xét

Nơi thư thứ hai gửi giáo đoàn Thessalonica, thánh Phao lô cũng nêu lên sự tự do tuyệt đối của tâm trí khi suy tư, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em, theo truyền thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes. 2:8). Câu này có nghĩa không tin ai hết, không để bất cứ sự khôn ngoan thế tục, hữu vi nào ảnh hưởng. Nói cho đúng, chỉ cần đối diện với câu nói hay vấn đề mình đang suy tư. Tất cả mọi sự hiểu biết, tâm tình của mình chỉ là phương tiện. Nơi trường hợp này, Chúa cũng không chen vào được. Tâm trí mình là chủ, mọi sự đều là phương tiện. Không có gì là đúng hoặc sai, chỉ hợp hay không hợp với luận lý khi suy tư mà thôi.

Phúc âm đã kết án sự giảng dạy lệ thuộc luân lý đạo đức nhân sinh, thế tục từ hơn hai ngàn năm trước, “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục; các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52). Chìa khóa mở đàng hiểu biết chính là sự suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét. Ngăn cản có nghĩa hù dọa, ép người khác phải tuân theo quan niệm, nhận thức của mình, hoặc giảng giải lời Chúa theo tùy thuộc theo luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục, tri thức, học thức của con người.

Tóm lại, lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta suy nghĩ, suy tư về những câu khôn ngoan nơi phúc âm để nâng cao nhận thức, để nhận chân thực thể hiện hữu của mình đối với Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà, anh chị em.

Chủ Nhật Mùa Chay 5A (Gioan 11:1-45)

Bài phúc âm vừa được công bố trích từ phúc âm Gioan. Chúng ta biết, phúc âm Gioan là thành phẩm của chiêm nghiệm nên những sự việc được kể lại cũng chỉ là sản phẩm nơi tâm trí khi định tâm suy tư nơi hành trình tâm linh về sự sống lại. Nói như thế, dụ ngôn chúng ta vừa nghe chính là diễn trình tâm linh của một tâm hồn chiêm nghiệm. Tôi nêu lên một đôi điểm mong quý vị suy tư.

Chúng ta nên để tâm suy nghiệm câu nói, “Người nói với các môn đệ: ‘Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê!’ Các môn đệ nói: ‘Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?’ Đức Giê-su trả lời: ‘Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình’" (Gioan 11:7-10). Nhưng nơi bản dịch Holy Bible được in năm 1966 thì lại viết, “Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng hướng dẫn họ” (Holy Bible; Gioan 11:10).

Qua bài phúc âm vừa được công bố, Chúa Giêsu cho Lazarus sống lại. Tên Lazarus được nhắc tới nơi hai phúc âm Luca và Gioan. Nơi phúc âm Luca, người có tên Lazarus nghèo nàn, bị ghẻ lở. Nơi phúc âm Gioan thì Lazarus là em của Martha và Mary. Dĩ nhiên, hai câu truyện này chỉ là hai dụ ngôn nhưng điểm chính yếu nơi hai dụ ngôn thì khác nhau. Nơi phúc âm Luca trình bày hai điểm; điểm thứ nhất đó là, "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc. 16:25), và điểm thứ hai, "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin" (Lc.16:31). Nơi phúc âm Gioan lại nói về sự sống lại xác thân.

Xét về sự sống lại như trong kinh Tin Kính chúng ta đọc, “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen.” Nơi phúc âm Luca được ghi hai trường hợp đức Giêsu gặp các môn đồ nhưng Ngài đã biến dạng. Trường hợp thứ nhất nơi dụ ngôn trên đường đi Emmaus. Hai môn đồ, một ông tên là Cleopas và tên ông kia thì phúc âm Luca không nhắc tới; cả hai ông chỉ nhận ra Chúa Giêsu qua nghi thức bẻ bánh (Lc. 24:30). Và cũng nơi phúc âm Luca, khi Chúa hiện ra với các tông đồ lúc các ông đang hội họp thì các ông tưởng Chúa là ma (Lc. 24:36).

Hơn nữa, cũng nơi phúc âm Luca, khi mấy người thuộc bè phái Sa đốc hỏi về trường hợp một người đàn bà lập gia đình với bẩy người anh em sau khi bẩy người anh em này tiếp tục chết theo luật gìn giữ giòng tộc thời bấy giờ, thì khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai thì được trả lời, "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết chỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống" (Lc. 20:34-38). Trên thực tế, Abraham, Isaac, Giacop, thân xác của họ đã chết từ lâu, nhưng được gọi là sống đó là nói về phần hồn của họ.

Chúng ta nên để tâm suy nghĩ đến những lời phúc âm về ý nghĩa của ngôn từ “Sự sống” nơi câu, “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống." Phúc âm nói về sự sống của linh hồn chứ không nói về sự sống của xác thân. Linh hồn chính là sự sống nơi mỗi người, là sự hiện hữu. Mọi ý nghĩ, ước muốn, tham vọng, chủ đích đều xuất phát tự linh hồn, tâm hồn. Bộ óc không thể phát sinh ước muốn, chủ đích, tham vọng; vì bộ óc chỉ là vật chất, là phương tiện cho linh hồn hoạt động chẳng khác gì con mắt, lỗ tai cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn nhìn, linh hồn nghe.

Thân xác và cuộc đời của mỗi người chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động trong giới hạn hiện hữu thời gian. Khi thân xác già cỗi, không còn có thể giúp cho linh hồn, tất nhiên thân xác sẽ bị đào thải. Như vậy, cuộc sống đích thực của một người chính là cuộc sống của linh hồn, cuộc sống tâm linh. Vấn đề được đặt ra đó là để tâm đến cuộc sống tâm linh là thế nào. Chúng ta nên để ý, ước muốn, ước mơ, ý định, ý nghĩ, tham vọng đều phát xuất từ linh hồn. Thế nên, chúng ta nên tự hỏi thực lòng mình đang dự định gì, ham muốn gì, nên làm thế nào cho xứng hợp với nhân phẩm của mình là một người con của Chúa.

Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà, anh chị em.