Thứ Sáu Tuần Thánh (Gioan 18:1-19:42) abc
Bài phúc âm diễn tả những sự việc diễn tiến từ sự kết án đến khổ nạn của Chúa Giêsu. Tất cả những gì được ghi chép đều trong sự chiêm nghiệm nơi phúc âm Gioan. Nguyên nhân chính đưa đến những sự việc này lại là những sự giảng dạy của Chúa. Theo bài phúc âm vừa được công bố được viết, “Vị thượng tế tra hỏi đức Giêsu về môn đồ và giáo huấn của Ngài,” chứng tỏ những người đối lập cũng như quan quân không hề biết chi về sự giảng giải của Chúa mà chỉ bắt bớ Ngài theo những lời tố cáo vì những lý do nào đó đe dọa hay đối nghịch với quan niệm, niềm tin tôn giáo; nói cho đúng, đe dọa tới niềm tin của Do Thái giáo.
Nói có sách, mách phải có chứng. Có thể, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, chỉ phương cách cho con người suy tư, suy nghĩ những câu khôn ngoan hầu thăng tiến nhận thức tâm linh, rất đối nghịch với sự hiểu biết những lời Kinh Thánh theo quan niệm, nhận thức nhân sinh, thế tục, từ chương do không suy nghĩ, nghiệm xét. Chẳng hạn, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37); hoặc, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì cácngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13). Những lời này quá đối nghịch, nói cách khác, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, phá hoại luân lý truyền thống của bất cứ dân tộc, tôn giáo nào, nhất là điều luật thứ bốn nơi mười giới răn, “Thứ bốn, thảo kính cha mẹ.” Thêm vào đó, Biệt phái và Ký lục là những giới đức cao trọng vọng trong hàng ngũ Do Thái giáo chẳng khác gì giám mục, linh mục nơi hệ thống Công giáo. Lên án họ, “Khốn cho các ngươi, Biệt phái và Ký lục,” chẳng khác gì lên án, muốn lật đổ phẩm chức và quyền thế của họ chẳng những nơi hệ thống tôn giáo mà còn vị thế của họ nơi cuộc đời nhân sinh.
Một điều ít ai để ý tới; đó là vào thời Chúa Giêsu giảng dạy, dân tộc Do Thái đang bị người Rôma cai trị, và chính quyền Rôma tin tưởng nơi các bậc trọng vọng của dân Do Thái. Dĩ nhiên, người Rôma chỉ giữ những chức vị lớn lao, và dùng người Do Thái để cai trị người Do Thái. Có thể đây là nguyên nhân những người thu thuế của dân chúng Do Thái đem nộp cho chính quyền Rôma bị coi là phường tội lỗi vì làm tay sai cho đế quốc Rôma.
Những người giảng dạy Kinh Thánh trong hệ thống Do Thái giáo đã hiểu lầm giáo lý, sự giảng dạy của Chúa Giêsu nên kết án Ngài. Nguyên nhân hiểu lầm cũng chỉ vì không suy nghĩ, suy tư mà xét xử sự giảng dạy của Chúa Giêsu theo nghĩa từ chương, nhân sinh. Đối với chúng ta thì sao? Những câu khôn ngoan, mới đọc hoặc nghe, mang đầy tính chất nghịch thường với luân thường đạo lý của bất cứ dân tộc nào. Không cần phải là Biệt phái hoặc Ký lục, chỉ mới nghe hoặc đọc, “Khốn cho các người, Biệt phái và Ký lục,” chúng ta cảm thấy gì? Nếu ai trong cuộc đời nói với chúng ta như thế, chúng ta sẽ phản ứng ra sao, phương chi họ là những bậc vị vọng trong dân chúng thời đó.
Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta nên suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét về phúc âm. Không suy nghĩ, nghiệm xét về lời Chúa để thăng tiến nhận thức tâm linh, mà chỉ hiểu lời Chúa theo nghĩa từ chương, nhân sinh; chúng ta đang đứng vào vị thế của vị thượng tế cũng như tay chân, bè phái của họ lên án xử tội đức Giêsu như họ đã làm ngày xưa. Xin Chúa sai Thánh Thần mở rộng lòng trí mọi người để suy tư, nghiệm xét lời Ngài và chúc lành cho chúng ta.
Phục Sinh abc (Gioan 20:1-9)
Đại khái, bài phúc âm vừa được công bố nói về ngôi mộ trống. Sau khi sinh thì trên thánh giá, thi thể đức Giêsu được an táng trong một ngôi mộ được khoét từ một khối đá, và sáng sớm hôm sau, Mary Magdalene đến thăm mộ thì thấy viên đá che cửa bị lăn sang bên và không thấy thi thể của Chúa Giêsu. Mary Magdalene thông báo cho Phêrô và Gioan và hai ông đã đến mộ thì chỉ thấy khăn liệm, không thấy thi thể của Chúa Giêsu.
Nơi phúc âm Luca cũng được viết, “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại" (Lc. 24:1- 7).
Nơi phúc âm Matthêu được viết, “Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mác-đa-la và một bà khác cũng tên Ma-ri-a, đi viếng mộ. Và kìa, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hoá ra như chết. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay” (Mt. 28:1-8).
Phúc âm Marcô ghi lại, “Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông". Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá” (Mc. 16:2-8).
Những gì chúng ta vừa nghe được ghi chép nơi bốn phúc âm. Có điều chúng ta cũng nên để ý, theo các học giả Kinh Thánh, ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca được viết vào khoảng từ năm 70 đến năm 100 sau Công Nguyên, và phúc âm Gioan được viết từ năm 90 đến năm 110 sau Công Nguyên. Xét như thế, có lẽ, những gì được ghi lại đều được ghi chép theo lời truyền khẩu bởi có thể những người sinh thời cùng Chúa Giêsu vào thời gian phúc âm được ghi lại đều đã chết hết.
Đàng khác, được gọi là lời Chúa nhưng thử tưởng tượng, đặt mình vô hoàn cảnh được phúc âm ghi lại, đây không phải là lời Chúa Giêsu rao giảng. Tất cả những sự tường thuật đều được một số người nơi cộng đồng ghi chép và dàn dựng theo lời kể từ sự nghe lại. Cũng như tất cả sáng kiến và thành quả của các công việc hữu ích cho nhân loại được ghi chép nơi sách vở, phúc âm do con người viết với mục đích hướng dẫn nhân loại, chẳng khác gì phương tiện cho con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin. Đối với các sách vở của các bộ môn khác, chẳng hạn kỹ thuật, khoa học, y học, luật học, những bộ môn thực nghiệm này ghi chép lại những kiến thức, phương pháp và thành quả của các sáng kiến, tri thức, học thức, của tiền nhân như những phương tiện để lại cho những thế hệ tiếp nối phát triển.
Riêng đối với các bộ môn thi văn, luận lý, đạo đức, triết lý, đạo học, đòi hỏi người đọc phải suy nghĩ, suy tư, cảm nhận, cảm nghiệm để tâm hồn hòa nhập vô những gì được ghi lại hầu có được nhận thức; vì những bộ môn này nói về diễn trình suy tư, suy nghĩ, mà cuộc đời thì biến động, tâm tư con người cũng luôn luôn biến chuyển tùy thuộc chẳng những điều kiện sinh sống mà còn bị ảnh hưởng tâm sinh lý hiện thực của độc giả.
Kinh Thánh, Phúc Âm, thuộc về bộ môn đạo học. Đạo học thường bị hiểu lầm thuộc về tôn giáo, nhưng thực chất, đạo học là nguyên lý của tôn giáo. Nói cách khác, đạo học phát sinh tôn giáo. Tôn giáo là tổ chức nhân sinh có cùng chiều hướng niềm tin, cảm nhận, cảm nghiệm từ nguyên lý của đạo học. Đạo học nói về thực thể và diễn tiến nhận thức tâm linh nên được viết dưới phương cách ám định; bởi thực thể và diễn tiến nhận thức thuộc về tư tưởng chỉ có thể cảm nhận, hiểu biết, ảnh hưởng tới chiều hướng suy tư, suy nghĩ.
Đọc những đoạn phúc âm nói về người này, người kia đối diện với ngôi mộ trống, chúng ta cảm nhận được có điều gì khác thường, để rồi tiếp tục đọc đoạn phúc âm sau, nói về sự việc Chúa hiện ra với người nọ, người kia, nơi tâm trí của chúng ta đưa lên nhận thức sự thể Chúa sống lại. Thực ra, không ai biết thực sự sống lại sẽ như thế nào, nơi phương diện nào. Nơi trường hợp được ghi lại về thánh Tôma được Chúa bảo, "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" (Gioan20:27), thì ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Gioan 20:28), chứ phúc âm không nói gì về sự việc ông Tôma hành động gì. Hơn nữa, phúc âm Gioan là thành quả của sự chiêm nghiệm được viết ra, không phải sự ghi lại sự việc diễn tiến hữu vi.
Thêm vào đó, nơi phúc âm Luca ghi lại sự việc đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc. 24:13-31), chính hai môn đệ cũng không nhận ra đức Giêsu trong lúc đi đường. Điều này nói lên sự thể gì, chúng ta cần suy tư, suy nghĩ để nhận thức sự thể phúc âm muốn nói với mình.
Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta sử dụng tâm trí để suy nghĩ, suy tư về thực thể tâm linh, thực thể linh hồn của mình. Chúng ta được dạy và tin rằng linh hồn mang tính thiêng liêng, không hề chết được. Khi thân xác này qua đi, linh hồn vẫn tiếp tục hiện hữu, nhưng hiện hữu như thế nào, muốn biết, chúng ta cần suy nghĩ, suy tư. Muốn suy nghĩ, suy tư, chúng ta cần đọc phúc âm, đồng thời cũng cần áp dụng phương cách nghiệm xét như thánh Phao lô đã chỉ dẫn. Sự việc suy nghĩ, suy tư này được ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca tám lần nhắc nhở, “Ai có tai thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Xin Thần Khí của đức Giêsu soi sáng và dẫn lối cho quý ông bà anh chị em.
Chủ Nhật 2A Phục Sinh
Lòng Chúa Thương Xót (Gioan 20:19-31)
Hôm nay, chúng ta tuyên xưng, tuyên dương “Lòng Chúa Thương Xót.” Mới chợt nghe tới danh hiệu “Lòng Chúa thương xót,” lời tiên tri Joel được ghi chép trong Sứ Vụ Các Tông Đồ nhắc nhở được liên tưởng tới, “Trong những ngày sau hết, Ta sẽ đổ Thần Khí của ta trên mọi xác phàm. Con trẻ sẽ nói tiên tri; người già nằm chiêm điềm mộng, và thanh thiếu niên thấy được thị kiến” (Joel 2:28-29; SVCTĐ. 2:16-21).
Đọc phúc âm chúng ta thấy, tất cả những sự việc xảy ra thường được chúng ta gọi là phép lạ, phúc âm đều ghi lại lời Chúa Giêsu bảo, “Lòng tin con chữa con, lòng tin con cứu con” (Lc. 7:50; 8:48; 17:19; 18:42; Mt. 9:2; 15:28; Mc. 5:34; 10:52). Nơi phúc âm được viết là lòng tin trong khi chúng ta hay dùng ngôn từ đức tin. Chẳng những thế, nơi phúc âm Luca và Matthêu, Chúa Giêsu còn đoan chắc, "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc. 17:6; Mt. 17:20). Phúc âmMatthêu còn nhấn mạnh hơn, "Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển!", thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được" (Mt. 21:21-22). Nơi phúc âm Marcô, Chúa Giêsu còn đoan chắc, "Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin" (Mc. 9:23). Tất nhiên, đọc phúc âm, chúng ta rõ ràng đối diện với những lời dạy bảo của Chúa như thế; nhưng khi nhìn lại chính mình, lòng tự hỏi lòng đức tin của mình thế nào, chúng ta lại phải đối diện lời của Ngài nơi phúc âm Luca, “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng" (Lc. 18:8)?
Là người Công giáo, ai cũng vậy, chúng ta tuyên xưng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Kitô. Nhưng thử hỏi, đức tin, lòng tin của chúng ta là gì, phỏng ai có thể trả lời một cách rõ ràng, chắc chắn, tin vào Thiên Chúa là tin thế nào? Hơn nữa, nếu đặt vấn đề, Thiên Chúa là gì, liên hệ thế nào đối với cuộc đời mình, có lẽ ai cũng cảm thấy mông lung. Nói rằng, tuyên xưng rằng, nghĩ rằng, mình tin vào Thiên Chúa nhưng không biết lòng tin, đức tin là gì, không biết Thiên Chúa là chi, có liên hệ gì với cuộc đời của mình, thì nghĩa là sao? Xét thực lòng mình, một điều rõ ràng, chúng ta cần suy nghĩ, suy tư, để nhận biết Thiên Chúa là gì, liên hệ với mình như thế nào, rồi dựa theo phúc âm để nhận biết lòng tin, đức tin của mình ra sao. Xưa nay, chúng ta đã quá quen với sự tin theo, quá quen với sự lặp lại những thành ngữ, những châm ngôn, trong khi lòng ruột trống rỗng. Chúng ta đã và đang mở rộng lòng, mở rộng tâm trí để biến mình thành thùng rác chứa đựng những lời tuyên truyền, rao giảng như những gói mì ăn liền để rồi nuốt vào thế nào, chúng ta lặp lại như vậy. Xin lỗi, nếu tôi nói hơi quá, chúng ta chấp nhận mình như một thân xác bệnh hoạn, nuốt vào thế nào, mửa ra thế ấy. Một thân xác bình thường, ăn thực phẩm và thực phẩm phải trở thành máu huyết tiếp tục nuôi sống thân xác. Nếu thực phẩm không trở thành máu huyết nuôi sống thân xác, chúng ta mang một thân xác bệnh hoạn. Lời Chúa, lời phúc âm, nếu không được suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét, mà chỉ được lặp lại như con vẹt, coi chừng chúng ta đang chứng minh mình là kẻ vô thần; trong khi thực thể của mình rõ ràng hữu thần bởi mình có linh hồn.
Nhắc đến linh hồn, ai cũng nghĩ, cũng cho rằng, cũng tin rằng mình có linh hồn. Vậy linh hồn mình là gì? Nó có hình dáng ra sao, xanh, đỏ hay tím, hoặc vàng? Nó liên hệ với thân xác thế nào, và khi thân xác này qua đi, linh hồn sẽ tiếp tục đi về đâu. Nếu linh hồn của mình ngay nơi thân xác mà mình không biết thì mình nên biết điều chi trong cuộc đời. Thế nên, suy nghĩ thêm một chút, vậy mục đích cuộc đời của mình là gì, sống để làm chi phỏng ai có thể trả lời được?
Hôm nay, chúng ta tôn kính Lòng Chúa Thương Xót. Tôi muốn nhắc lại lời Kinh Thánh, “Trong những ngày sau hết, Ta sẽ đổ Thần Khí của ta trên mọi xác phàm. Con trẻ sẽ nói tiên tri; người già nằm chiêm điềm mộng, và thanh thiếu niên thấy được thị kiến” (Joel 2:28-29; SVCTĐ. 2:16-21). Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu nơi mỗi người, là sự sống nơi bất cứ ai. Nhận biết như thế, lời Kinh Thánh, “Ta sẽ đổ Thần Khí của ta trên mọi xác phàm” không có chi mới lạ. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình thì Thần Khí của Chúa ở ngay nơi mình. Chúng ta rất giỏi giang trong công việc suy tư, suy nghĩ, tính toán cho cuộc sống, nhưng hình như và nếu có thể nói, chưa bao giờ suy nghĩ, suy tư về chính mình; mình là ai, mình thế nào trong cuộc đời này? Thiên Chúa là gì, lòng tin, đức tin là gì, linh hồn mình là gì.
Chúng ta nghe đây đó hoặc coi trên truyền thông về những sự việc cả thể xảy đến từ những tổ chức Thánh Linh, Lòng Chúa Thương Xót. Có thể có nhiều người trong chúng ta tham gia những tổ chức đó và giữ quy luật, đọc kinh, tham gia cầu nguyện, thực hành những nghi thức với những người khác. Tuy nhiên, chỉ thấy những sự lạ xảy đến với ai đó, riêng với mình thì hình như lời cầu, ước muốn, nơi tận tâm tư kính cẩn dâng lên, tha thiết xin xỏ, nhưng cứ như không. Thánh Thần làm việc mọi nơi, ở mọi người, nhưng hình như chẳng có gì đụng chạm đến mình. Lòng Chúa thương xót khắp chốn trong khi mình vẫn đơn côi chờ đợi. Và đã bao người đợi cho tới chết cũng chẳng có gì xảy ra, chỉ thấy những chuyện cả thể xảy ra trên truyền hình, trên các clips youtube, có chăng, đành sống để dạ, chết mang theo với nỗi bơ vơ ấm ức.
Lời Chúa qua phúc âm, “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được" (Mt. 21:22), và hơn thế nữa, “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin" (Mc. 9:23). Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối diện với sự thể, “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng" (Lc. 18:8)?
Thế nên, Lời Chúa hôm nay thách đố, khuyến khích chúng ta nên suy nghĩ, suy tư về lòng tin, đức tin nơi mình; linh hồn của mình thế nào, liên hệ với cuộc đời mình ra sao. Thiên Chúa là gì, liên hệ với mình thế nào? Có lẽ ai cũng biết câu nói của văn hào nào đó, “Muốn là đã được một nửa.” Vậy ước muốn,ý định của chúng ta thực sự phát sinh từ đâu, thực sự về điều gì? Ước muốn cần những điều kiện nào?Đồng thời lại cũng có câu, “Chúng ta thường bị hối hận khi đã đạt được ước muốn” (Joseph Jacob; The Old Man and Death; 6th BC). Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà anh chị em.
Chủ Nhật 3A Phục Sinh (Lc. 24:13-35)
Bài phúc âm Luca kể về câu truyện, sau khi sống lại, Chúa Giêsu cùng đi với hai môn đệ trên đường đi về làng Emmaus, nhưng hai môn đệ không nhận ra Ngài. Sự kiện này chứng tỏ sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã biến dạng. Sự thể nào khiến hai môn đệ không nhận ra Ngài? Đã lâu, trước thời 75, chúng ta thường nghe thấy bài hát “Ngài Ở Đâu,” có những câu, “Ngài ở đâu cho con đi tìm Ngài; Ngài ở đâu cho con mong gặp Ngài; trong vinh quang, hay trong thù hận, trong tim anh, hay trong lòng tôi.”
Tin theo đức Kitô, tin vào Thiên Chúa, chúng ta cần biết, thực sự nhận biết đức Kitô dạy chúng ta điều gì. Tin vào Thiên Chúa, chúng ta cũng cần nhận biết Thiên Chúa là gì, liên hệ thế nào với cuộc đời của mỗi người. Chúng ta đọc trong Kinh Thánh, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.” Tuy nhiên, đã bao giờ, đã có lúc nào chúng ta tự hỏi, tự suy nghĩ, suy tư, mình là hình ảnh của Thiên Chúa chưa? Mình là hình ảnh của Thiên Chúa nghĩa là sao? Mình là hình ảnh của Thiên Chúa nơi phương diện nào? Đã có khi nào mình bỏ công sức tìm hiểu nơi sách vở hoặc nơi những phương diện truyền thông về hình ảnh của Thiên Chúa chưa? Nếu mình thực sự chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa thì mình phải suy nghĩ, phải sống thế nào?
Lời phúc âm Gioan, “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy.” Sự thật mà Chúa Giêsu muốn nói đến là gì? Con đường Ngài dẫn chúng ta theo là thế nào? Thiên Chúa là sự sống; vậy sự sống nơi mỗi người là gì? Thiên Chúa là sự sống; mà sự sống hiện diện nơi mọi người, thì Thiên Chúa ở ngay nơi mỗi người. Chúng ta có dám chấp nhận không? Chúng ta có bao giờ dám đặt vấn đề Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình không?
Đông Phương học quan niệm linh hồn là Thượng Đế nội tại; linh hồn bất tử, và thân xác một người, cuộc đời một người chỉ là phương tiện, cơ hội cho linh hồn học hỏi những gì cần biết; cho đến khi học xong thì lại trở về nơi cõi uyên nguyên, làm một với Thượng Đế.
Qua bài phúc âm, tôi nghĩ, hai môn đệ trên đường Emmaus có lẽ cũng không nhận biết linh hồn của họ là gì như chúng ta. Thế nên, họ nghe nói Chúa Giêsu sống lại, nhưng cũng như mọi người, nghe thì nghe vậy, đôi khi lặp lại lời người khác tuyên truyền, nhưng cũng không thèm để ý gì như mọi người và rồi cũng vì không nhận ra linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác, cuộc đời của mình ra sao nên đã không nhận ra Chúa Giêsu, có nghe những lời giải thích từ Kinh Thánh thì cũng chẳng khác gì vịt nghe sấm, cũng chẳng khác gì chúng ta, không để ý suy tư, suy nghĩ về Lời Chúa.
Họ được cơ hội sống với Chúa, trực tiếp nghe lời Chúa giảng dạy nhưng chỉ vì không suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét nên đã không nhận ra chính họ, không nhận biết linh hồn của họ là gì thì sao có thể nhận ra Chúa Giêsu sau khi sống lại. Chúng ta cũng thế; dẫu chúng ta khôn ngoan, giỏi giang trong việc lo toan, tính toán, xếp đặt cho cuộc sống nhưng không để ý suy nghĩ, suy tư về thực thể của mình, về linh hồn của mình thì cũng không thể nào nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi cuộc đời. Xin Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đang ngự trị nơi mỗi người dẫn dắt chúng ta nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Amen.