Chủ Nhật 4A Phục sinh (Gioan 10:1-10)
Không biết đã bao nhiêu lần đọc qua bài phúc âm vừa được công bố, và đã bao thời gian, những lời lẽ của bài phúc âm thách đố tôi suy nghĩ sao cho có thể chấp nhận, nói cách khác, nghiệm được phần nào sự khôn ngoan của lời Chúa qua ngôn từ nhân sinh thế tục, hầu cảm nhận được hồng ân của Ngài nơi cuộc đời của mình. Là một linh mục, tôi mang bổn phận và trách nhiệm tuyên xưng, tuyên dương, công bố lời Chúa, lời phúc âm, và khuyến khích dân Chúa suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét, nghiệm chứng phúc âm, mong sao dân Chúa thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
Nói cách khác, nhiệm vụ, trách nhiệm của tôi chính là khuyến khích, thách đố, kêu gọi dân Chúa sống lời Ngài, thực hiện, biến sự khôn ngoan nơi lời Chúa, lời phúc âm thành hiện thực chẳng những nơi tâm não, mà còn lan tỏa thành những hành vi, hành động một cách ý thức, phần nào có thể minh chứng con người của mình, cuộc sống của mình, chính là sự hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức nhân sinh, minh chứng sự thánh thiện, tuyệt vời, của Thiên Chúa đang tràn ngập mọi nơi mọi chốn, qua mọi thời đại; dẫu cuộc đời đầy biến động, thay đổi, lắm khi không ai có thể dự đoán.
Tuy nhiên, đối diện với câu phúc âm vừa được công bố, Chúa Giêsu nói, “Bao nhiêu kẻ đến trước Ta, hết thảy đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng” (Gioan 1:8), thật khó cho tôi cũng như mọi người suy nghĩ, suy tư, lý luận, lý giải, sao cho hợp tình, hợp lý, có thể chấp nhận được. Tất nhiên lời Chúa, lời phúc âm, ẩn chứa sự khôn ngoan cần được suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét, nhận định, sao cho sự khôn ngoan của lời Chúa thấm nhập, trở thành nhận thức, trở thành máu thịt, lối sống, lối suy nghĩ của mình để thực hiện, thực hành trong cuộc sống, nói cách khác, sống lời Chúa; mà ngày nay, nói theo ngôn từ hữu vi được gọi là hiện hành.
Sự thực hiển nhiên, phúc âm Gioan là sản phẩm của tâm hồn ngất trí, khi nâng lòng mình lên hòa nhập với thực thể uyên nguyên chính là Thiên Chúa, hòa nhập với sự khôn ngoan tối thượng do chính Thiên Chúa dẫn dắt tâm hồn con người nơi cõi suy tư, nhận thức. Tất nhiên, phúc âm Gioan, cũng như mọi sự hữu vi, thế tục, do chính con người viết ra, được gọi là mạc khải. Sự khôn ngoan nơi trạng thái mạc khải này cũng thường xảy đến với mọi người khi nâng tâm hồn lên, suy nghĩ, suy tư về thực thể hiện hữu của mình liên hệ với Thiên Chúa thế nào.
Nhưng, nói theo nhận định từ chương, theo nghĩa đen, sao chúng ta có thể chấp nhận lời quyết đoán, “Bao nhiêu kẻ đến trước Ta, hết thảy đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng” (Goan 1:8). Câu này được chia thành hai phần; những người, những đấng rao giảng lời Chúa, các vị tiên tri trước thời đức Giêsu “Đều là trộm cướp,” và “Chiên, dân Chúa đã không nghe họ.” Nơi phương diện nào, cách thức nào, các vị rao giảng lời Chúa bị phúc âm Gioan cho là thứ trộm cướp? Chúng ta nên để ý, phúc âm Gioan dùng ngôn từ, “Hết thảy chúng,” không chừa một ai. Đồng thời phúc âm cũng minh xác, “Nhưng chiên đã không nghe chúng.” Chiên tức là dân Chúa. Dân Chúa không nghe lời rao giảng nơi phương diện nào vì ai cũng có hai tai ngoại trừ nơi trường hợp đặc biệt. Như vậy, ngôn từ “Nghe” mang nghĩa thế nào đối với lời Chúa, lời phúc âm?
Có một lần nói chuyện với một chị thuộc ca đoàn nào đó, chị ta rất thích hát, hãnh diện vì khả năng hát của mình. Tuy nhiên, qua một đôi câu nói qua nói lại, tôi nhận ra chị ta không biết gì về nhịp nhạc, mà chỉ là hát theo, nghe và dợt theo người hướng dẫn khi tập hát chứ không tự hát theo nơi youtube hay phương trình chứa chấp bản nhạc trên net. Không nhớ được tôi đã nói gì về đặc tính những bản nhạc đang được thịnh hành trên net nơi các phương trình, chị ta phán một câu, “Cha đừng làm giao động tâm trí con.” Tôi giật mình, ngạc nhiên vì chị ta sợ bị giao động tâm trí, giao động niềm tin. Thực ra, nhìn lại chính mình, tâm trí chúng ta luôn luôn giao động. Đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này, nhưng thử hỏi, tâm trí chúng ta đang suy nghĩ, nhớ đến, hay tư tưởng về chuyện gì, nơi đâu. Hồng ân suy tư, suy nghĩ phát xuất tự linh hồn được gọi là tâm trí, và suy nghĩ, suy tư, đặt vấn đề, là đặc ân, nói cách khác là bản chất tuyệt vời của linh hồn, của tâm trí để nhận định, nhận thức. Phúc âm nói đến những người không suy nghĩ, suy tư là “Kẻ chết” trong câu, “Để kẻ chết chôn xác kẻ chết của chúng.” Câu này có nghĩa, hãy để kẻ chết phần linh hồn, phần tâm linh, chôn xác chết” (Lc. 9:60). Không suy nghĩ, không suy tư về lời Chúa, lời phúc âm đều là kẻ chết phần hồn, kẻ chết phần tâm linh, chỉ là xác chết biết thở.
Nhận định rõ được như thế, câu, “Nhưng chiên đã không nghe chúng,” nói lên sự thực và đó là dân Chúa không đơn giản, ngây ngô, ngây thơ, không nghe sao chấp nhận và biết vậy. Những ai lười lĩnh không suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét lời Chúa, lời phúc âm, đều được coi là kẻ chết phần linh hồn. Chỉ có người chết mới không suy nghĩ, không bị giao động tâm trí. Người sống, tâm trí luôn giao động. Thế nên, vấn đề lại là định tâm, định hướng, suy tư, suy nghĩ xem mình chú tâm, để ý về phương hướng, phương diện nào. Ai cũng dễ dàng nhận biết mình đang ước muốn, ước mơ điều gì nếu để tâm nhận định. Hơn nữa, phương pháp vững chắc và nhanh nhất, tiện lợi nhất để nhận ra điều mình thực sự muốn nhận biết lại chính là phản biện, chính là sự hỏi mình đang thực sự theo đuổi gì, lợi ích, lợi hại thế nào? Nếu ai để tâm tự hỏi, tất nhiên sẽ có những câu trả lời rõ ràng, sẽ nhận ra được sự thể lạ lùng, và đó là tâm trí, suy tư, suy nghĩ của mình thay đổi như chong chóng. Mới hôm nay, lúc này nhận định điều này lợi, điều kia hại cho cuộc đời, nhưng coi chừng, chỉ một lúc sau, hay ngày mai, sự nhận thức đã đổi thay.
Thế nên, lý do dân Chúa không nghe, hoặc nghe như không nghe, chưa nghe đã vội quên vì những điều rao giảng không hợp với bản chất năng động suy tư của dân Chúa, đã không thách đố, hấp dẫn tâm trí dân Chúa hoạt động, không kích thích được chức năng bẩm sinh, không giúp dân Chúa suy nghĩ, suy tư. Đọc phúc âm chúng ta thấy, mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời, như được viết nơi phúc âm Luca, đoạn 4, câu 43 được viết, “Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến. Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê.”Nơi Phúc Âm Marcô được viết,"Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (Mc. 1:38), Và Phúc Âm Matthêulại ghi, "Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân" (Mt. 4:23). Đồng thời, Ngài cũng sai các môn đồ ra đi rao giảng với cùng mục đích, Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.(Mc. 3:14). "Hãy đi và loan báo rằng 'Nước Trời đã gần bên'" (Mt. 10:7), "Và chữa các kẻ ốm đau trong thành; hãy bảo họ: 'Nước Thiên Chúa đã gần bên các ngươi'" (Lc.10:9). Vậy, Tin Mừng Nước Thiên Chúa là gì?
Nhưng đọc cho kỹ, nơi các phúc âm, không có bất cứ định nghĩa nào về Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Phúc âm nói về mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng nhưng dành phần suy nghĩ, suy tư cho dân Chúa để tìm hiểu, tìm kiếm Nước Thiên Chúa là gì khi được viết, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33). Phúc âm thách đố, khuyến khích, kích thích dân Chúa tìm kiếm, và hành động tìm kiếm chính là suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét. Hơn nữa, muốn tìm kiếm, suy nghĩ, cần phải đọc phúc âm.
Bởi vậy, phúc âm Gioan nặng nề lên án, “Bao nhiêu kẻ đến trước Ta, hết thảy đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng” (Gioan 1:8). Nơi phúc âm Matthêu cũng có câu, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình; vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). Thử hỏi, còn lối nói nào nặng nề hơn nữa không? Vậy Biệt phái và Ký lục đã rao giảng lời Chúa như thế nào mà bị quở trách, bị gọi là chặn người ta lại?
Ai cũng biết, Kinh Thánh được viết tại miền Trung Đông nên bị ảnh hưởng kiểu cách phát biểu theo lối trình bày của đạo học Đông Phương. Lối trình bày này chỉ phát biểu kết quả của nhận thức chứ không diễn dịch theo cách trình bày kỹ thuật. Thí dụ, nơi kỹ thuật đưa lên công thức của nước H2O, thì bất cứ nơi nào lấy hai phần hydrogen hòa hợp với một phần Oxygen dưới áp suất nào đó thì sẽ có nước để dùng. Khác với lối trình bày kỹ thuật, bên Đông Phương nêu lên một câu nói khiến người nghe hay đọc cần phải suy nghĩ để nhận biết câu nói đó mang ý nghĩa gì, và thường thì câu nói một đàng, ý tứ một nẻo, đồng thời ý tứ của câu nói chỉ về tâm tình, thái độ, hay trạng thái nào đó của người đọc hay nghe.
Thí dụ, chúng ta ai cũng biết ý nghĩa những câu, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,” hoặc, “Liệu bò đo chuồng,” hay, “Liệu cơm gắp mắm.” Ba câu này không nói chi đến ăn uống, chỗ ngồi, chẳng liên quan gì tới trâu bò hay chuồng cũi, hoặc cơm nước, mắm rau, mà đều nói về cách ăn nết ở, lối đối xử của một người đối với cuộc đời hay xã hội. Lối nói này dùng sự vật, sự việc hữu vi, nhân sinh hầu thức tỉnh nhận thức của con người. Hơn nữa, lối trình bày hay diễn xuất Đông Phương còn mang tính chất sinh động hiện thực của sự vật, sự thể chứ không giới hạn nơi những lãnh vực hữu vi thực nghiệm. Chẳng hạn, nơi số học, ai cũng biết một cộng với một bằng hai, nhưng thực thể nhân sinh, một linh hồn hòa nhập vào một thân xác thì bằng mấy, chắc chắn không bằng hai.
Chúng ta thử suy nghĩ, thử đặt vấn đề ngay nơi chính bản thân mình một chút. Nói rằng một hồn cộng một xác bằng hai thì không ai có thể chấp nhận được; mà nói rằng bằng một vẫn không hoàn toàn hợp lý, hợp tình với thực thể con người. Thế một hồn cộng một xác bằng mấy? Sự thể con người khiến chúng ta cần để tâm suy nghĩ hơn một chút, nhận định rõ hơn nơi thực trạng nhân sinh. Nếu chỉ có hồn, không ai biết đấy là đâu; nếu chỉ có xác, chẳng sớm thì chầy phải mang ra nghĩa trang để an táng. Nhưng hồn nhập thể vô thân xác, lại phát sinh ước muốn, ước mơ, nhận thức, ý định, tham vọng, yêu thương, giận ghét, nói chung, phát sinh sự thể được gọi là tâm trí. Từ đó chúng ta nhận biết thực thể một người gồm ba phần, linh hồn, thể xác, và tâm trí. Nếu ai đã có cơ hội đọc cuốn Nam Hoa Kinh, sẽ bắt gặp câu nói của Huệ Thi, “Một con bò trắng cộng một con bò đen bằng ba con bò.” Huệ Thi dùng vật thể con bò để chỉ ba thành phần bất khả phân ly nơi một người. Từ điểm nhận thức này chúng ta có thể nhận thức thâm sâu hơn về thực thể Chúa Ba Ngôi mà các đấng các bậc trong đạo Công giáo dạy chúng ta phải tin; ba ngôi là một và một Chúa lại có ba ngôi. Ai muốn nghĩ sao thì nghĩ.
Từ nhận thức lối phát biểu diễn xuất nơi đạo học Đông Phương, chúng ta nhận ra kiểu cách phát biểu của phúc âm. Thí dụ, nơi phúc âm chúng ta đọc được câu, “Ai có tai thì nghe.” Câu nói mới thoạt nghe đã thấy rất tầm thường, không có gì đáng để ý. Nhưng nếu ai để tâm khi đọc phúc âm, câu nói coi bộ thường tình, ngây thơ này được lặp đi lặp lại tám lần, ba lần nơi phúc âm Matthêu, ba lần nơi phúc âm Marcô, và hai lần nơi phúc âm Luca (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Có thể vì chúng ta ai cũng nhận biết; tai dùng để nghe và mọi người đều kinh nghiệm, thực nghiệm, sử dụng tai để nghe như thế, nên thấy đó là sự thường tình. Tuy nhiên, nếu thử suy nghĩ, thử đặt vấn đề, mắc mớ gì câu nói đơn giản, bình thường này lại được lặp đi lặp lại quá nhiều lần, chúng ta thấy câu nói có vẻ ngờ nghệch lại không đơn giản chút nào.
Thử đơn sơ đặt câu hỏi, vậy cái tai có thể nghe được tự nó hay không? Tất nhiên, tâm trí chúng ta đang đối diện với một thực thể bình thường nhưng khá lạ lùng. Ấy, thực thể con người của mỗi người bình thường lạ lùng như thế đó. Bao nhiêu lần chúng ta tham dự đám tang, nhưng cũng đã chưa một lần đặt vấn đề. Phỏng người chết, nghĩa là linh hồn họ đã thoát khỏi thân xác đang nằm đó trước mặt mọi người, tai họ có còn nghe được không, mắt họ còn có thể nhìn được không, và miệng có còn nói, khối óc có còn suy nghĩ được nữa không? Thế mà chúng ta thường nói, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Chính ngay các nhà khoa học, cho tới thời điểm này vẫn cứ hô ầm lên miệng nói, tai nghe để rồi biết bao người nơi cuộc đời này dám cả gan láo lếu tuyên xưng, không tin những gì khoa học không thể chứng minh. Thử hỏi, họ có biết họ nói gì không? Phỏng không suy nghĩ, suy tư, thì họ là thứ gì ngoài danh hiệu xác chết biết thở.
Câu trả lời rõ ràng là tai, mắt, môi miệng, bộ óc của một người chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động; bởi khi linh hồn thoát ra khỏi thân xác thì tất cả đều ngưng đọng. Nhận biết như thế, nhiều vấn đề phát sinh khiến tâm trí chúng ta phải suy nghĩ thêm, chẳng hạn, thế linh hồn của mình là gì, liên hệ với thân xác mình ra sao? Linh hồn từ đâu tới? Và Thiên Chúa là thế nào, liên hệ với linh hồn, cuộc đời của mình ra sao? Đã bao ngày tháng qua đi, ai trong chúng ta cũng tin rằng mình có linh hồn, nhưng thử hỏi đã bao giờ chúng ta tự hỏi linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với cuộc đời mình ra sao chưa, hay chỉ nói theo cho có vẻ con nhà có đạo rằng mình có linh hồn, rằng mình tin vào Thiên Chúa. Vậy Thiên Chúa là gì và liên hệ tới cuộc sống, cuộc đời mình thế nào?
Lời phúc âm hôm nay đến với chúng ta, đức Giêsu phán, “Bao nhiêu kẻ đến trước Ta, hết thảy đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng” (Gioan 1:8). Đến trước thời đức Giêsu là các vị tiên tri, các nhà thông thái, các bậc lâm phàm rao giảng về sự sống tâm linh, hành trình tâm linh, hành trình giúp nhân loại nhận biết thực thể đích thực của chính mình. Thế sao họ lại bị kết án, “Hết thảy đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe chúng?” Họ rao giảng sự khôn ngoan, rao giảng về chân lý, về mục đích đích thực của đời người, thế họ đã cướp giựt từ dân Chúa những gì mà lại bị gọi là trộm cướp? Trộm cướp những gì bằng lời nói, bằng cách rao giảng?
Nếu nhìn lại phúc âm, chúng ta thấy, phúc âm được cấu tạo bởi những câu khôn ngoan và những dụ ngôn, khuyến khích, thách đố, kích thích tâm trí suy nghĩ, suy tư. Nói cách khác, phúc âm trình bày cơ hội, phương tiện cho con người suy nghĩ, suy tư để đạt tới sự thức ngộ, đạt tới nhận thức về thực thể chính mình, về Thiên Chúa, và sự liên hệ của Thiên Chúa với con người. Sự nhận thức này chỉ có thể ngộ, không thể cầu. Và phương pháp độc nhất vô nhị để một người có thể thức ngộ chính là suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét. Sự việc, sự thể này được thánh Phao lô rõ ràng minh xác, khuyến khích, “Đừng dập tắt thần khí, chớ khinh thị các ơn tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào?” (1Thes. 5:19-21). Nghiệm xét, nghiệm chứng, cũng chỉ là suy nghĩ. Nghiệm xét mọi sự có nghĩa suy nghĩ về mọi mặt, mọi phương diện, trạng thái nơi chính mình. Phúc âm nói về phương diện, trạng thái nào đó nơi chính mình và chính mình cần suy tư, suy nghĩ mới có thể thức ngộ được.
Xét như vậy, sự giải thích, giải nghĩ những câu nói, những dụ ngôn nơi phúc âm, nơi lời Chúa khiến dân Chúa tưởng rằng hiểu biết, và thế là đủ không dám tự mình suy nghĩ để có thể cảm nhận lời Chúa đến với mình như thế nào. Chẳng lạ gì chúng ta có thành ngữ “Theo đạo” để rồi cố gắng sống đạo thì không thể nào áp dụng lời Chúa nơi cuộc đời. Thử hỏi, làm sao áp dụng lời phúc âm vào cuộc sống, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta thì không xứng với Ta” (Mt. 10:37), hoặc, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi” (Mt. 5:29; 18:9; Mc. 9:47), nếu không suy nghĩ, không suy tư, nghiệm xét.
Giải thích, giải nghĩa phúc âm dưới quan điểm luân lý, đạo đức hữu vi, thế tục, thay đổi, biến chuyển theo thời điểm, địa phương tất nhiên cướp cơ hội suy nghĩ của dân Chúa, cướp cơ hội thức ngộ của dân Ngài. Bằng chứng rõ ràng chúng ta có thể nhận biết, hơn kém hai ngàn năm từ ngày đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, cho tới nay, đã ai biết được Tin Mừng Nước Trời là gì chưa? Và nếu chưa biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì thì sao có thể tin theo Ngài. Bao thế hệ loài người đã trải qua, đã được mấy ai nghiệm được, suy nghĩ được Thiên Chúa là gì, liên hệ đến cuộc đời mình ra sao? Hay chỉ biết lặp lại thành ngữ “Tin vào Chúa?” Tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào đức Kitô nhưng không biết Tin Mừng Ngài rao giảng, không biết Thiên Chúa là gì thì tin thế nào.
Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta suy nghĩ, suy nghĩ, và suy nghĩ để cảm nhận, để nhận biết Thiên Chúa là gì, thế nào nơi cuộc đời mình; mình thực sự là gì, linh hồn mình là chi, liên hệ đến thân xác, cuộc đời của mình ra sao. Để khởi đầu cho một đề án suy nghĩ, suy tư, tôi đề nghị mỗi người suy nghĩ về câu nói của thánh Phao lô, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng cho mọi người trong suy tư, suy nghĩ để nhận biết Ngài nơi cuộc đời mình. Amen.