Chủ Nhật 7A Phục Sinh (Gioan 17:1-11a)
Bài phúc âm vừa được công bố nêu lên mấy điểm để chúng ta nghiệm xét, suy nghĩ hầu nhận thức được lời Chúa muốn chúng ta cần nhận biết thế nào về thân phận làm người của mình trước mặt Chúa. Những điểm chúng ta cần suy nghĩ đó là:
1/ Sự sống đời đời tức là: chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Đấng Cha đã sai, Giêsu Kitô.
2/ Bây giờ chúng đã biết rằng: mọi sự Cha đã ban cho con đều do Cha tất cả; vì các lời Cha đã ban cho Con, Con đã ban lại cho chúng, chúng đã chịu lấy, và nhận thật rằng Con đxa xuất tự Cha cùng đã tin rằng chính Cha đã sai Con.
Tôi muốn nhắc lại một lần nữa; phúc âm Gioan là thành quả của nghiệm chứng. Nếu chúng ta đặt mình vào vị thế của đức Giêsu để nghiệm xét, chúng ta sẽ nhận thực được lời Chúa muốn nói gì với mình. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên để ý đến tâm tình của mình, cảm nhận của mình. Ai cũng vậy, nơi phương diện tâm linh được dùng ngôn ngữ nhân sinh để diễn giải, hoặc bày tỏ nơi trường hợp đối diện với thực thể tối thượng là Thiên Chúa, Thượng Đế, ngôn từ độc nhất và chân thật chỉ nói lên sự cảm nhận chân thành chứ không có bất cứ ý nghĩa so sánh nào.
Thế nên, câu, “Sự sống đời đời tức là: chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật,” câu này nói lên tâm tình cảm nhận, cảm tính của bất cứ ai khi nâng lòng mình lên hòa nhập với thực thể uyên nguyên, với quyền lực hiện hữu tối thượng, thường được mệnh danh Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Xanh, Ông Trời, hay những danh hiệu khác nơi những văn hóa, niềm tin khác biệt, và thường thì chúng ta coi chừng chẳng bao giờ được nghe nói tới hoặc không dám nhắc nhở tới. Hơn nữa, phúc âm dùng ngôn từ nhân sinh, hữu vi, thế tục để nói về thực thể tâm linh; do đó, khi đọc hoặc nghe phúc âm chúng ta thường hiểu trong giới hạn nhân sinh. Phúc âm không cần biết, không lệ thuộc luân lý, đạo đức nhân sinh, mà chỉ dùng ngôn từ nhân sinh để ám chỉ về thực trạng, hay trạng thái tâm linh, tâm tình.
Chẳng hạn, câu, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta,” hay, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi.” Hai câu này không nói gì về cha mẹ hoặc mắt mũi, mà chỉ dùng cha mẹ, mắt, để ám định về sự thể, sự việc nào đó diễn tiến khi suy nghĩ, nghiệm xét mà thôi. Phúc âm dùng sự việc nhân sinh, hữu vi để chỉ về sự thể nào đó nơi tâm linh chẳng khác gì Tục Ngữ, Ca Dao nơi dân gian người Việt. Thí dụ, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa,” hay, “Liệu bò, đo chuồng; liệu cơm gắp mắm.” Mấy câu này đâu nói gì về ba ba, con trạnh, con rùa, hoặc con bò, cái chuồng, hoặc cơm, mắm. Chúng nói về điều gì, tôi nghĩ, mọi người đều biết. Tương tự, phúc âm cũng được viết theo kiểu đó.
Thế nên, thử xét, “Sự sống đời đời” là gì? Sự sống đời đời không phải là sự sống của thân xác này. Ai cũng thế, là con người, chúng ta đang mang cuộc sống nhân sinh, đang trong giòng sinh, bệnh, lão, tử. Cho dù sống tới bao lâu thì đến ngày nào đó thân xác này cũng phải chết, cũng phải qua đi. Bởi vậy, “Sự sống đời đời” nói về linh hồn; linh hồn bất tử. Do đó câu hỏi được đặt ra, chúng ta đã biết gì về linh hồn của mình; đã bao giờ chúng ta suy nghĩ, đặt vấn đề để nhận biết linh hồn mình là gì chưa? Nếu chưa biết linh hồn mình thế nào, liên hệ với thân xác, với cuộc đời mình ra sao, thì sao có thể đặt vấn đề về sự sống đời đời. Chưa nhận biết linh hồn mình là gì thì nói đến sự sống đời đời cũng chỉ như cuội.
Không ai có thể giải thích về linh hồn của mình mà chỉ chính mình mới có thể nhận biết. Muốn nhận biết linh hồn mình là gì, thế nào, hãy nhìn vào thực tại. Chúng ta, ai cũng kinh nghiệm, con mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Nhưng thử hỏi, nơi trường hợp linh hồn ra khỏi xác được gọi là chết, thì mắt, tai, miệng, óc, còn có thể nhìn, nghe, nói, suy nghĩ được không? Sự thể này chứng tỏ mắt không thể nhìn được tự nó; tai cũng không thể tự nó nghe; miệng không thể tự nó nói, hoặc bộ óc không thể tự suy nghĩ. Những sự thể này minh chứng, tai, mắt, miện, bộ óc, thân xác, cuộc đời một người đều chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động. Nhận biết như vậy, linh hồn là cái gì đó nơi một người dùng miệng để nói, dùng tai để nghe, dùng mắt để nhìn, và dùng bộ óc để chuyển tải suy nghĩ, suy tư, nhận thức.
Sự sống đời đời chỉ về sự hiện hữu của linh hồn. Nhận biết sự sống đời đời là nhận biết thực thể hiện hữu tâm linh của mình, nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, sự hiện hữu tối thượng, gốc gác của mọi sự hiện hữu. Bất cứ sự gì hiện hữu đều là hiện thể của sự hiện hữu tối thượng này và ngoài sự hiện hữu sẽ không có gì. Nhận biết như vậy, tất cả mọi sự đều là hiện thể của sự hiện hữu này; tất cả mọi sự đều là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Linh hồn của mình là hiện thể của Thiên Chúa; thân xác, cuộc đời của mình, ý nghĩ, ước muốn, tham vọng của mình, cũng đều là hiện thể của Thiên Chúa trong diễn tiến vô cùng. Thế nên, vấn đề chỉ là mình có suy nghĩ, có đặt vấn đề để suy nghĩ hầu nhận biết thực thể của mình hay không!
Sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa, nhận biết mọi sự đều là hiện thể của Thiên Chúa đang diễn tiến trong dòng sinh hóa vô cùng của thực thể hiện hữu. Thiên Chúa chính là sự hiện hữu, sự sống nơi mình, nơi mọi loài, mọi vật. Gọi là mình, nhưng thực ra, chính là hiện thể của Thiên Chúa trong thế giới nhân sinh. Mình cũng giống như một giọt nước trong biển cả. Căn gốc của biển cả là nước và mình là một giọt nước. Mình là hiện thể của Thiên Chúa nơi diễn tiến vĩnh cửu của Ngài. Thân xác mình rồi cũng qua đi nhưng thực thể đích thực của mình là linh hồn vẫn luôn hiện hữu, được gọi là sự sống đời đời.
Nhận thức như thế, câu, “Bây giờ chúng đã biết rằng: mọi sự Cha đã ban cho con đều do Cha tất cả; vì các lời Cha đã ban cho Con, Con đã ban lại cho chúng, chúng đã chịu lấy, và nhận thật rằng Con đxa xuất tự Cha cùng đã tin rằng chính Cha đã sai Con,” giải nghĩa Tin Mừng Nước đức Giêsu rao giảng, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Một Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi đức Giêsu cũng chính là Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nơi mọi người, mọi tạo vật. Thiên Chúa chính là sự hiện hữu, sự sống nơi mỗi người.
Xin Thánh Thần Thiên Chúa nơi mỗi người soi sáng và dẫn dắt chúng ta nhận thức được thực thể của chính mình, một hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh. Amen.
Hiện Xuống ABC (Gioan 20:19-23) (general)
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Thánh Thần Hiện Xuống; theo Công giáo, chúng ta thường gọi là lễ Hiện Xuống. Lời Chúa qua phúc âm Gioan vừa được công bố, “Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi. Nói rồi, Ngài thổi hơi trên họ, và nói với họ: ‘Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha; các ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ’” (Gioan 20:21-22).
Thêm một lần, tôi muốn nhắc nhở tới mọi người. Đó là khi nghe công bố hoặc đọc phúc âm, thường được gọi là Lời Chúa, lời phúc âm, lời Chúa nói thẳng với chính mình bằng những câu khôn ngoan hay dụ ngôn. Thế nên, hôm nay tôi mời gọi mọi người thử đóng vai các môn đồ đang đối diện với Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời. Một điều mà chúng ta nên để ý; đó là câu, “Nói rồi, Ngài thổi hơi trên họ, và nói với họ; ‘Hãy chịu lấy Thánh Thần.” Thiên Chúa ở đâu, Thánh Thần ở đó. Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa đang hiện diện nơi quý ông, quý bà, nơi mỗi người quý anh chị em, nơi tôi, nơi mọi người; thì Thánh Thần Thiên Chúa cũng đang hiện diện và hoạt động nơi mỗi người, nơi mọi người.
“Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi,” Thiên Chúa sai đức Giêsu xuống thế để làm gì? Xin thưa, lật phúc âm chúng ta đọc được; đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa. Chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43). Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến thế gian để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Nay Ngài cũng sai chúng ta thực hiện nhiệm vụ Ngài đã làm mà thôi, và đó cũng chỉ là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, rao giảng cho mọi người biết sự thể Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi người, nơi mọi người. Rao giảng bằng cách nào thì tùy mỗi người; miễn sao người ta nhận biết thực thể Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi họ là được.
“Các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha.” Câu này là một phạm trù cần được đặt lại vấn đề. Thứ nhất, làm sao mình biết được tội của kẻ khác mà đặt vấn đề tha với không tha! Thứ nhì, dẫu ai đó phạm lỗi với mình, cho dù mình tha nhưng chính họ không tha cho họ thì phỏng gánh nặng của lỗi lầm đó có được cất khỏi tâm hồn họ không? Và như vậy, quyền tha thứ chính thức phát xuất tự đâu? Lật phúc âm chúng ta đọc được lời Chúa dạy, “Bởi đó, Ta bảo các ngươi: mọi tội lỗi và lộng ngôn sẽ tha được cho người ta, còn lộng ngôn đến Thần Khí sẽ không tha được. Và ai nói lời nghịch đến Con Người, điều đó sẽ tha được cho người ấy; còn ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ không tha được cho người ấy, thời này cũng như thời sẽ đến” (Mt. 12:31).
Thế nghĩa là sao? Một đàng thì nói, tha tội cho ai thì tội họ được tha; đàng khác lại nói, còn ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ không tha được cho người ấy, thời này cũng như thời sẽ đến! Đặt vấn đề như vậy, chúng ta thấy, phúc âm khuyến khích, thách đố chúng ta phải suy nghĩ. Điều rõ ràng ai cũng có thể nhận biết; đó là đã hơn kém hai ngàn năm từ ngày Chúa Giêsu xuống thế rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tới lúc này, ít nhất là ngay tại đây, nơi nhà thờ, nhiều vấn đề chúng ta vẫn chưa biết; chẳng hạn tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Linh hồn mình là gì, liên hệ với xác thân, cuộc đời của mình thế nào? Thiên Chúa là gì? Tin vào Thiên Chúa là tin thế nào, ra sao? Thử nêu lên đôi vấn đề như thế, ai cũng nhận ra đã bao lâu nay mình đã không suy nghĩ, chưa suy nghĩ trong khi phúc âm câu nào cũng thách thức chúng ta đặt vấn đề.
Nhìn lại chính mình, ai trong chúng ta cũng nhận thấy mình thông minh, linh hoạt trong suy nghĩ, suy tư để giải quyết những phiền hà, khó khăn trong cuộc sống, nếu không muốn nói là chúng ta chẳng những đã suy nghĩ, đặt vấn đề và thực hiện những sự việc cần thiết hầu chuẩn bị, hay có được một tương lai tươi sáng, dễ thở hơn. Nhìn vào thực tại gia đình cũng như cuộc sống, có được một gia đình nề nếp, thuận hòa, an khang, đó là thành quả của suy tư, suy nghĩ và công sức kiến tạo của đời người. Sự thể này minh chứng, xét theo nhận thức hữu vi, nhân sinh, chúng ta tuyệt vời thông minh, sắc sảo. Chúng ta nhận ra mình thông minh, sắc sảo vì chúng ta suy nghĩ, suy tư, đặt vấn đề, tiên liệu sự việc sắp đến để chuẩn bị đối ứng, giải quyết.
Thế nhưng, tại sao mọi người tin rằng, nghiệm được rằng mình có linh hồn mà trãi qua bao ngày tháng, có người đã hơn “Thất thập cổ lai hy,” và mãi cho tới lúc này vẫn chưa biết linh hồn mình là cái gì, liên hệ với thân xác, cuộc đời của mình ra sao. Hãy thật lòng với chính mình và đặt vấn đề, đã bao giờ mình suy nghĩ, hoặc dành đôi phút để tự hỏi và tìm câu trả lời hầu nhận biết linh hồn mình là gì chưa? Linh hồn liên hệ đến thân xác và cuộc đời của mình ra sao? Chính linh hồn của mình mà mình không biết nó thế nào thì nói rằng, tuyên xưng rằng tin vào Chúa thì tin thế nào? Chính linh hồn mình mà không biết thì sao có thể biết Chúa mà tin. Nhận thực được lòng ruột mình như thế, chúng ta đành phải ngửa mặt lên trời thú nhận, xưa nay, chúng ta đã không để ý suy nghĩ, suy tư để nhận biết về linh hồn của mình thế nào. Chúng ta đồng thời cũng chân thực nhận ra mình rất thông minh, lanh lợi trong suy nghĩ về cuộc sống nhưng đã chưa để ý suy nghĩ về tâm linh. Suy nghĩ về tâm linh là suy nghĩ về nỗi thao thức bẩm sinh của mỗi người, linh hồn mình là gì; mình từ đâu đến nơi cuộc đời này; mục đích cuộc đời của mình là gì? Sau khi thân xác qua đi, linh hồn mình sẽ đi về đâu? Thiên Chúa là gì, phúc âm nói về những chi?
Chắc chắn rằng ai cũng nhận thấy, những con khỉ, những con chó, hoặc bất cứ con vật nào cho dù đã sống bao lâu cũng không thể so sánh với một em bé dẫu chỉ mới 7 hay tám tuổi. Lý do, vì con vật không có khả năng suy nghĩ mà chỉ có thể phản ứng theo bản năng. Có câu nói, “Người ta có thể dạy cho một con khỉ đánh đàn piano một bản nhạc tuyệt vời, nhưng người ta không cách nào dạy cho con khỉ trở thành một nhạc sĩ.” Cho dù bất cứ con vật nào được coi là thông minh cách mấy thì khi so với bất cứ ai, con vật vẫn là một thứ ngu muội. Ngu muội vì không biết suy nghĩ, suy tư mà chỉ làm theo, chỉ phản ứng theo bản năng. Đưa cho một em bé bẩy hay tám tuổi cây nến đang cháy sáng và nói em bỏ lên bàn, chắc chắn cả nhà đều được sáng soi trong bóng tối. Nhưng đưa ngọn nến đang được thắp sáng cho con khỉ dù bảo nó thế nào thì coi chừng nó sẽ đốt cháy nhà. Sự thể này minh chứng, tội lỗi bởi sự ngu dốt, không suy nghĩ mà ra.
Con người và con vật khác nhau một trời một vực, không có gì đáng nói để so sánh; vì con người có khả năng suy tư, suy nghĩ, nhận định. Khả năng suy nghĩ suy tư này nơi con người được gọi là bẩm sinh. Tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, tham vọng thuộc về tâm trí. Suy nghĩ về cuộc sống, phải làm gì, thực hiện gì để có cuộc sống khấm khá hơn được gọi là suy nghĩ nhân sinh, thế tục. Suy nghĩ về linh hồn, niềm tin, quan niệm, nhận thức chính là suy nghĩ tâm linh.
Sự suy nghĩ, suy tư phát sinh từ linh hồn vì khi linh hồn đã ra khỏi xác thì thân xác đó không còn có thể suy nghĩ chi được, cũng như không nói, nghe, hay nhìn được nữa. Thân xác chỉ là phương tiện, công cụ cho linh hồn hoạt động. Thân xác, cuộc đời một người cũng chỉ là cơ hội, công cụ cho linh hồn mà thôi. Nói cách khác, tâm trí chính là hoạt động của linh hồn, và thân xác là phương tiện cho linh hồn thực hiện, hoàn thành ước muốn, ước mơ của linh hồn,.
Nhận rõ như thế, chúng ta có thể minh xác, linh hồn và thân xác là một, bất khả phân ly, khi phân ly được gọi là chết. Linh hồn không khác gì người lái xe và chiếc xe chính là thân xác; linh hồn muốn gì, thân xác thực hiện nấy. Ước muốn, ý định, tham vọng, yêu thương, giận ghét phát xuất tự linh hồn. Suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét đều do linh hồn. Cuộc đời thăng tiến hay không đều do ước muốn, ý định, suy nghĩ, suy tư từ linh hồn. Con vật không có khả năng suy tư nên suốt đời, trãi qua bao thế hệ, bao ngàn năm cũng chỉ phản ứng theo bản năng, cũng ngu muội nếu đem so sánh với con người.
Như vậy nếu con người không suy nghĩ, không đặt vấn đề để tìm hiểu, nhận thức, thì cũng ngu muội như con vật. Con người được ban cho khả năng suy nghĩ nếu không suy nghĩ tức là khinh chê hồng ân suy tư nơi mình, khinh chê hồng ân của Thánh Thần ngự trị nơi mình. Không suy nghĩ, suy tư, tức là không sử dụng hồng ân suy tư, được gọi là phạm đến Thánh Thần. Tất nhiên, không suy nghĩ, suy tư thì suốt đời ngu muội. Có câu nói, “Tội lỗi bởi ngu dốt mà ra.” Không suy nghĩ, suy tư sẽ không bao giờ thăng tiến. Chúng ta chưa suy nghĩ về linh hồn mình là gì nên không biết linh hồn là gì, liên hệ đến xác thân, cuộc đời mình thế nào. Nhận biết như thế, không suy nghĩ, suy tư tức làphạm đến Thánh Thần. Không suy nghĩ, suy tư thì suốt đời ngu dốt, được gọi là phạm đến Thánh Thần.
Xét thế, câu, “Các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha,” cũng cần được đặt thành vấn đề. Giả sử mình vấp phạm, làm điều gì sai thì ai sẽ là người sửa sai cho mình? Xin thưa, chính mình mới biết sự sai trái nơi điều mình thực hiện và như thế chính mình mới có thể sửa sai. Xét nơi lãnh vực tâm linh, suy nghĩ, đâu ai biết mình toan tính, suy tư điều gì; thế nên cũng chỉ chính mình mới biết, mới có thể sửa sai. Như thế vấn đề được đặt ra đó là, nếu lỡ đã vấp phạm, mình có chấp nhận tha thứ cho mình không, và nếu mình thực sự tha thứ cho mình thì mình phải làm gì, phải thực hiện những gì.
Thí dụ, đã bao ngày tháng trôi qua, mình đã vô tình không suy nghĩ về linh hồn mình là gì, thế nào. Như vậy, mình đã vô tình không sử dụng khả năng suy tư, suy nghĩ để tìm hiểu về linh hồn của chính mình. Chấp nhận mình lầm lỗi vì đã vô tình khinh chê, vô tình không sử dụng hồng ân suy tư của Thánh Thần mà không làm gì, không thực hiện gì thì cũng như không; vẫn tiếp tục không suy nghĩ, vẫn tiếp tục phạm đến Thánh Thần. Bởi vậy, hành động tha thứ cho lỗi phạm của mình chính là hành động, thái độ suy tư, suy nghĩ.
Hôm nay suy nghĩ chưa ra, tiếp tục ngày mai; ngày mai vẫn còn lắm thắc mắc, từ từ suy nghĩ từng phần một. Tháng này chưa xong, suy nghĩ thêm tháng nữa; năm này vẫn còn mù mờ, suy nghĩ thêm năm nữa, suy nghĩ cho tới khi nào thông suốt. Không ai ăn dùm uống dùm cho mình được thì cũng không ai suy nghĩ dùm cho mình được; không ai có thể giải quyết suy tư cho mình được.
Như vậy, hai câu phúc âm, “Các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha,” và, “Còn ai nói nghịch đến Thánh Thần, điều ấy sẽ không tha được cho người ấy, thời này cũng như thời sẽ đến” (Mt. 12:31) đều nói thẳng, chỉ thẳng vào mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta thực lòng muốn tránh thoát, muốn tha tội phạm đến Thánh Thần, tội khinh chê hồng ân suy tư, suy nghĩ, thì cần, thì phải suy nghĩ. Tôi nhắc lại; không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình được, thì cũng không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình được. Xin Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ, suy tư để thực sự nhận biết thực thể con người của mình là gì trước mặt Thiên Chúa. Amen.
Hiện Xuống ABC (Gioan 20:19-23)
Một lần nữa, chúng ta đối chứng với câu phúc âm, “Hãy nhận lấy Thánh Thần, các ngươi tha tội cho ai thì tội họ được tha; các ngươi cầm buộc ai thì tội họ bị cầm giữ.”
Tất cả chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này, giả sử tôi chân thành và nhân danh vị thế một linh mục công bố mọi tội phạm của mọi người được tha hết, thử hỏi, quý vị có thực sự cảm thấy mình được tha thứ hết mọi lỗi lầm đã vấp phạm không? Xin thưa rằng không và dù tôi có thực sự muốn tha hết mọi lỗi lầm mọi người vấp phạm cũng không có ảnh hưởng gì vì tôi không có quyền đó, không mang năng lực đó và cũng không có tổ chức nào hay bất cứ ai có năng lực ban cho tôi quyền đó. Nói theo niềm tin Công giáo, khi xưng tội với một linh mục; linh mục cũng không có quyền cầm giữ, cầm buộc lỗi lầm của bất cứ ai. Linh mục có nhiệm vụ đại diện Giáo hội, hoặc thay mặt đức Kitô nói lên lòng thống hối của quý vị; nói cách khác, làm nhân chứng cho lòng thống hối của quý vị. Thực sự được tha thứ hay không tùy tâm hồn, tùy lòng thống hối của quý vị, không lệ thuộc sự cấm hoặc cầm giữ của linh mục. Linh mục có nhiệm vụ nói lên lời hòa giải, nói lên nỗi lòng thống hối của quý vị; được tha hay không tùy lòng thống hối của quý vị, không lệ thuộc bất cứ ai.
Nơi ngôn ngữ tiếng Việt, chúng ta có câu nói, “Đi khám bác sĩ” hoặc, “Sửa sắc đẹp.” Thử hỏi, chúng ta tới để bác sĩ khám bệnh hay chúng ta khám bệnh bác sĩ mà lại nói, “Đi khám bác sĩ?” Một người vô thẩm mỹ viện để làm gì? Để chỉnh hình cho hấp dẫn hơn tức là sửa sang cho dễ nhìn, dễ ăn khách hơn; tại sao lại nói sửa sắc đẹp, thay vì sửa sắc xấu cho đẹp hơn. Ai cũng nhận thấy hai câu nói này đều nghịch lại với ý nghĩa ngôn từ được dùng và ai cũng hiểu hai câu nói này muốn nói về sự việc gì. Cổ nhân có câu, “Ý tại, ngôn ngoại” là thế.
Thử xét nơi trường hợp ai đó làm điều gì phiền hà, thiệt hại đến mình và mình thực sự, chân thành tha thứ cho người đó. Vấn đề được đặt ra, phỏng người đó có tha thứ cho chính họ không? Mình thực lòng tha cho họ nhưng họ không tha cho họ thì nghĩa là sao? Xin thưa, họ vẫn bị nỗi khốn khổ vì lầm lỗi hành hạ nơi tâm tư. Thử nhớ lại, có lần chúng ta vô tình nói câu nào đó, không ai nơi hiện trường để ý nhưng đã bao ngày tháng chính sự vô tình ấy cắn rứt tâm hồn mình. Nói cho đúng, chính mình đã không tha cho mình được thì không ai có thể tha cho mình. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình luôn sẵn sàng tha thứ mà mình không chấp nhận tha cho mình thì Ngài cũng bó tay.
Qua những nhận định xác thực nơi tâm tư như thế, câu nói, “Các ngươi tha tội cho ai thì tội họ được tha; các ngươi cầm buộc ai thì tội họ bị cầm giữ,” hình như nói với mỗi người chúng ta hãy đặt lại vấn đề, hãy suy nghĩ chín chắn hơn. Hãy thử đặt mình nơi trường hợp có ai đó làm phiền lòng hay hãm hại mình. Nếu mình thật lòng tha thứ cho người đó, mình thực ra chỉ giải tỏa sự phiền hà nơi tâm tư của mình để lòng thanh thản khỏi bị cảm nghĩ trói buộc bởi sự phiền hà ấy. Nhưng người làm phiền hà hay hãm hại mình thì sao? Dẫu mình nói cho họ biết hay không, nỗi khốn nạn nơi lòng của họ vẫn ngày đêm gậm nhấm tâm tư họ dù họ nhận biết hay không. Nói như thế, tha tội cho ai tức là giải thoát chính mình. Và như vậy, câu nói, “Các ngươi tha tội cho ai thì tội họ được tha” mang nghĩa ngược lại; các ngươi tha thứ cho ai tức là giải thoát chính mình khỏi sự phiền hà thế tục; chẳng khác gì ý nghĩa ngược lại của câu nói, “Đi khám bác sĩ,” hay, “Sửa sắc đẹp.”
Tôi nêu lên thêm một trường hợp bình thường để mọi người suy nghĩ, nhận định; sự việc này có thật mà thường chúng ta không để ý đặt vấn đề. Giả sử có ai đó vu oan giá họa hoặc làm điều gì tổn hại đến danh dự, đôi khi đến phần nhỏ tài sản không đáng kể của chúng ta. Thực lòng, chúng ta không thèm chấp và cũng không có bất cứ ý định làm bất cứ gì liên hệ đến người đó. Chúng ta cũng không nói ra nói vào, không nói cho người đó biết chi hết. Tất nhiên, ai cũng đều nhận biết, người mà làm tổn hại đến danh dự hay vị thế của chúng ta sẽ quen thói và tất nhiên sẽ phải đối diện với phiền hà do chính họ tạo nên.
Tiền nhân dân Việt có câu nói, “Đi đêm, có ngày gặp ma.” Tuy nhiên, thử nhìn lại lòng mình, mình biết chắc họ sẽ bị phiền hà vì tham vọng, thói xấu của họ nhưng không nói cho họ biết; bởi nếu nói ra chỉ tạo thêm kẻ thù, biến họ thành kẻ đối đầu chẳng sung sướng gì, nhưng không nói cho họ biết, mình sẽ có mặc cảm độc ác. Nhận định thực thể sự việc như thế, với một lương tâm ngay chính, mình bị du vào thế chiêc lưỡi giữa hai hàm răng. Quý vị thử suy nghĩ mình nên như thế nào? Với lòng chân thành, với lương tâm ngay chính, nói cho họ biết hầu mong họ tránh khỏi phiền hà lớn lao sau này vì tham vọng quen thói; tất nhiên, họ sẽ trở nên kẻ thù của mình và làm phiền mình hơn. Cứ coi như chẳng có việc gì xảy ra, cứ coi như mình ngu ngơ không biết, dẫu không có bất cứ ý định, mưu toan trả thù hay làm bất cứ gì đụng chạm đến họ, mình lại mang mặc cảm độc ác vì biết nhưng không nói ra.
Trả lời sao đây? Nói ra, cho dù với ý hướng của một lương tâm tốt lành cũng sẽ tạo thêm kẻ thù. Không nói năng chi, chấp nhận như ngu ngơ không biết, lại mang mặc cảm độc ác. Lời phúc âm thần thánh, “Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng hay thương xót” luôn luôn kinh động lòng người. Lạy Chúa tôi, ai có thể dù chỉ nghiệm được câu nói phúc âm đặt nơi miệng Chúa Giêsu trong giờ tử nạn, “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì lầm chẳng biết.” Xin Thần Khi của Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ và nhận định đúng theo ý Ngài. Amen.