← Quay lại trang sách

Chúa Ba Ngôi A (Gioan 3:16-18)

Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Người Con Một xuống thế gian; ngõ hầu ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để xét xử thế gian, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu. Kẻ tin vào Ngài thì không bị án xử. Kẻ không tin thì đã bị án xử rồi, bởi vì không tin vào danh Con Thiên Chúa.

Bài phúc âm vừa được công bố trích từ phúc âm Gioan. Và dĩ nhiên, chúng ta đều biết, phúc âm Gioan là thành phẩm hay kết quả của nghiệm chứng, nghiệm xét, chiêm nghiệm. Thế nên, những lời phát biểu chỉ nói lên cảm nhận của một quá trình suy tư, suy nghiệm. Chẳng hạn lời cảm nhận, “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian.” Muốn cảm nhận được phát ngôn này, lại cần nhận biết Thiên Chúa là gì, liên hệ đến thực thể thế gian ra sao. Thế gian được hiểu bao gồm những thành phần nào. Làm sao để biết Thiên Chúa yêu thương thế gian trong khi quan niệm thế gian, bao gồm những mưu mô gian tà, thuộc thành phần đối nghịch với Thiên Chúa. Tại sao không nói Thiên Chúa yêu thương thế ngay mà lại nói yêu thương thế gian.

Những suy tư, suy nghĩ xảy đến nơi tâm trí của người chiêm nghiệm, nghiệm xét không giới hạn về mọi phương diện, khía cạnh, ảnh hưởng tùy thuộc căn cơ, cá tính, thể chất, toàn bộ của người suy tư, và cảm nhận được ghi lại chỉ là câu kết luận tối nghĩa khiến người đọc hay nghe cần suy tư, nghiệm xét thâm trầm, có khi cả đời chỉ luẩn quẩn với một câu cũng khó hòng cảm nghiệm đành chấp nhận sống để dạ, chết đem theo.

Thiên Chúa quá yêu thương thế gian! Chúng ta đang sống trong thế gian. Chúng ta đang phải đối diện với muôn ngàn trắc trở, khó khăn nơi cuộc sống nhân sinh, và thường thì không để ý gì tới cuộc sống tâm linh của mình. Cuộc sống tâm linh là gì? Xin thưa, cuộc sống tâm linh tức là sự thể diễn tiến của linh hồn. Nói theo ngôn ngữ nhân sinh, thế tục, mỗi người bao gồm một linh hồn được nhập thể nơi một thân xác. Cuộc sống thân xác, cuộc đời của một người là cơ hội hay phương tiện cho linh hồn học những bài học cần phải học hầu nhận thực được thực thể của mình là gì. Cuộc sống của một người bao gồm cuộc sống xác thân và hành trình tâm linh của linh hồn.

Cuộc sống xác thân thì ai cũng biết; ai cũng đang sống; ai cũng đang phải đối diện với sự thể cuộc sống hữu vi, nhân sinh; ai cũng đang phải vật lộn với những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, cơm áo, gạo tiền. Khi còn đang theo học lớp Kitô học nơi đại chủng viện Notre Dame ở tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ, nhân một hôm khi có thởi gian nghỉ mười lăm phút giữa hai giờ học, vô tình tôi đi ra khỏi lớp ngay bên cạnh cha giáo. Tôi nhẹ nhàng lên tiếng chào hỏi và nói với ngài, “Tôi cảm thấy, hình như người ta cứ bới ra những vấn đề rồi vật lộn với những vấn đề đó không chịu ngưng nghỉ.” Cha giáo thoáng quay qua nhìn tôi đoạn điềm đạm trả lời, “Tôi không nhớ được nước nào có câu ngạn ngữ, ‘Khi con vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người có đủ cơm no áo mặc, thì người ta suy nghĩ.”

Hôm nay chúng ta họp nhau nơi nhà thờ thành kính, tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Dĩ nhiên, ai cũng biết, ngay cả các em nhỏ nơi lớp học giáo lý xưng tội lần đầu cũng có thể vanh vách đọc lên phạm trù Thiên Chúa Ba Ngôi, ngôi thứ nhất là Cha, ngôi thứ hai là Con, và ngôi thứ ba là Thánh Thần. Ba ngôi nhưng là một Thiên Chúa, không ngôi nào hơn, ngôi nào kém, và ba ngôi bằng nhau. Ba ngôi một Thiên Chúa, một Thiên Chúa ba ngôi. Giáo hội dạy chúng ta phải tin vì đó là sự mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thiên Chúa ba ngôi, và ba ngôi là một Thiên Chúa.

Tôi nghĩ; tôi nhận định; tôi cũng tin chắc rằng mọi người đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này đều nghĩ, đều cho rằng, nhận định, và tin chắc chúng ta là người. Ai trong nhà thời lúc này cũng là người, và bất cứ ai trên thế giới này cũng đều là người dẫu khác màu da, phong tục, tập quán, lời ăn tiếng nói, văn hóa, thói quen. Tất cả họ đều là người. Tất nhiên, là người, chúng ta có suy nghĩ, suy tư, nhận định, quan điểm, mưu mô, tham vọng, ước mơ. Nhưng thử hỏi, đã bao giờ chúng ta suy nghĩ về cái hồn của mình là gì chưa? Nó liên hệ đến thân xác và cuộc đời của chúng ta như thế nào? Đã bao giờ chúng ta tự hỏi Thiên Chúa là gì và Thiên Chúa liên hệ thế nào với mỗi người chúng ta ra sao chưa? Hơn nữa, chúng ta được dạy, được bảo phải tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm, một huyền nhiệm. Thử hỏi, nếu đã là mầu nhiệm, thì sao có thể biết được mà lại phải tin? Nếu đã là một huyền nhiệm, nghĩa là một nhiệm mầu trong huyền thoại thì tin theo huyền thoại là thế nào mà phải với không?

Dân tộc Việt Nam chúng ta có huyền thoại “Con rồng cháu tiên.” Chúng ta có bổn phận, chúng ta có được sinh ra để phải tin vào huyền thoại đó không. Xét như thế, vấn đề được đặt ra lại là “Tin là thế nào?” Nếu nói rằng chúng ta, những người đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này tin rằng mình đang ở nhà thờ. Có cần phải tin như thế không? Mà sao lại nói rằng tin mình đang ở nhà thờ. Giả sử có ai nơi đây, lúc này nói rằng họ không tin họ đang ở nhà thờ thì sao? Thế nên, nói rằng tin hay không tin về một sự việc, một sự thể không ảnh hưởng gì tới thực thể sự việc sự thể đó. Có chăng, sự khác biệt chỉ là nơi nhận thức của người phát biểu mình tin hay không tin. Xét như vậy, nhìn lại lòng mình, chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, tin vào Thiên Chúa có ba ngôi nghĩa là sao? Lỡ sau này có vị triết gia, thần học gia, học giả Kinh Thánh đưa lên chủ thuyết Thiên Chúa bốn ngôi thì chúng ta sẽ cảm thấy thế nào?

Tôi có thể nói thẳng với quý vị, bất cứ chủ thuyết, l‎ý thuyết, quan niệm, triết thuyết dù nơi đạo học, tôn giáo, kỹ thuật, sinh l‎ý, vật lý, đều là sản phẩm tư duy của con người, có thể vì con người hay vì lợi lộc. Còn sự thể tâm trí được gọi là tin hay không, không ảnh hưởng gì tới những triết thuyết, quan niệm chi hết. Niềm tin, sự tin tưởng chỉ ảnh hưởng người tin, chủ thể tin tưởng mà thôi. Thí dụ, nói rằng, tin rằng hay không tin, chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này không gì ảnh hưởng đến sự việc chúng ta đang hiện diện nơi đây. Thế nên, người nói lên tin hay không chỉ biểu hiệu tâm trí người đó thế nào, bình thường hay bất bình thường mà thôi.

Xét thế, chúng ta nói rằng chúng ta tin Thiên Chúa Ba Ngôi là thế nào, là tin ra sao? Giả sử nói rằng không tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi thì có gì thay đổi không. Tất nhiên, nói tin hay không, không ảnh hưởng gì đến Thiên Chúa nhưng chắc chắn có ảnh hưởng đến chúng ta, những người tuyên xưng tin vào Thiên Chúa. Tôi không hiểu người xưa, các đấng giáo phụ, các thánh của giáo hội nghĩ gì mà huấn dụ chúng ta phải tin. Phỏng họ cho là chúng ta quá ngu muội nên coi chúng ta như thùng rác, hay những cơ thể ăn không tiêu nên cứ đổ đầy những quan điểm, triết thuyết vào tâm trí chúng ta rồi phán phải tin, và chúng ta, những con chiên ngoan ngoãn, hiền lành đến độ ngu ngơ của giáo hội, bịt tai, nhắm mắt lặp lại để được gọi là tin. Miệng tuyên dương là tin nhưng lòng dạ, tâm trí, chẳng biết gì thì nghĩa là thế nào mà phải tin.

Thế nên, bởi tất cả triết thuyết, lý thuyết, quan điểm đều phát xuất từ tâm trí con người, tôi đề nghị chúng ta suy nghĩ, suy luận từ chính bản thân chúng ta về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ai cũng biết, cũng nghĩ, cũng kinh nghiệm được mình có linh hồn vì mình biết suy nghĩ, tính toán, mưu toan, tham vọng; bởi chúng phát xuất từ linh hồn; vì khi linh hồn thoát ra khỏi xác, chúng ta gọi là chết, không thể ước muốn, mưu toan bất cứ gì, ngay cả nói, nghe, nhìn, cũng toang luôn. Khi linh hồn ra khỏi xác, mọi sự chấm hết.

Như vậy, một linh hồn cộng với một thân xác thì là mấy, là hai hay là một? Nhưng nếu chỉ linh hồn mà thôi thì ai có thể biết đấy là đâu. Chỉ thân xác không hồn, chắc chắn cần phải đem ra nghĩa trang mà chôn như chúng ta thường biết. Tuy nhiên, linh hồn hòa nhập với xác thân, chúng ta có sự sống, phát sinh thêm ước muốn, ý định, ước mơ, ý nghĩ, tham vọng, yêu, giận, ghét, mưu mô và nhiều thứ suy nghĩ khác; tất cả những sự thể này được gọi là tâm trí. Như vậy, khi linh hồn hòa nhập vào thân xác tạo thành một con người sống động, con người này chính là quý vị, là tôi, là mọi người; mỗi người chúng ta gồm ba phần bất khả phân ly, ba là một, và một người là ba, linh hồn, thân xác, và tâm trí. Sự thể ba là một và một là ba này chỉ tách rời khi chết.

Chúng ta cũng đọc được nơi phúc âm lời minh xác về Thiên Chúa, “Đàng, sự thật, và sự sống chính là Ta.”Thiên Chúa chính là sự sống nơi mình, sự hiện hữu nơi mình. Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi người. Kinh Thánh cũng được viết, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài.” Mỗi người chúng ta đều là hình ảnh, là hiện thể của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người.

Hôm nay chúng ta mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta tuyên dương, tuyên xưng mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta tuyên dương mình là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức con người nơi thế gian. Xin Thần Khí soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ, suy tư để nhận biết thực thể chính mình nơi hành trình đức tin, hành trình nhận thực sự liên hệ của mình với Thiên Chúa. Amen.

LỄ MÌNH THÁNH CHÚA (general)

Để bài giảng được ngắn gọn, tôi xin quý ông bà anh chị em chú tâm đến ý nghĩa của hai ngôn từ, đó là “thực thể” và “nhiệm thể” Đức Kitô. Thực thể là bất cứ những gì hiện hữu dù thấy được hay không thấy được bằng mắt. Chẳng hạn cái nhà, cái bàn, cái ghế, hoặc ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, tham vọng. Tuy nhiên, ngôn từ chỉ được dùng để ám định chứ không nói lên đúng thực thể sự hiện hữu. Thí dụ, khi nói đến cái nhà, nếu đem phân tích cái nhà thành những phần nhỏ, chúng ta sẽ không thấy bất cứ đồ vật hay dụng cụ nào nói lên bản chất cái nhà. Xét như vậy, cái nhà là danh hiệu chỉ về một tổng thể hòa hợp và được kết cấu bởi nhiều phần tửkiến tạo nên một thực thể được gọi cái nhà. Sự hiện hữu của một thực thể không lệ thuộc bất cứ quan niệm hay giá trị được gán cho nó.

Nó là chính nó, không lệ thuộc sự ưa thích của con người cũng như không bị ảnh hưởng bởi quan niệm đúng sai, phải trái của con người. Chẳng hạn, tôi đang cùng quý ông bà anh chị em dâng thánh lễ, nếu khi ra về, có ai nói tôi không dâng lễ với quý ông bà anh chị em thì cũng chẳng có gì ảnh hưởng đến thực thể đang xảy ra lúc này. Hoặc ai nói rằng tin hay không tin tôi cùng quý ông bà anh chị em đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này thì cũng không có gì khác biệt. Thực thể, nói tổng quát, sự thực, không lệ thuộc quan niệm của chúng ta, không bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ tin hay không tin, sự thực tự nó vẫn là sự thực. Nó cũng không cần chúng ta quảng bá hay bảo vệ hoặc giải thích vì nó có sự hiện hữu nên dù nói thế nào hay quan niệm ra sao cũng chẳng gì thay đổi. Sự thay đổi chỉ xảy ra nơi ý định hoặc quan niệm của con người.

Vấn đề thứ hai đó là nhiệm thể Đức Kitô. Muốn hiểu về nhiệm thể Đức Kitô, chúng ta cần nhận ra sự huyền nhiệm cả thể nơi mỗi người. Nói cách khác, đó là những phép lạ đang xảy ra từng giây từng phút nơi mỗi người. Ai cũng nhận thấy rõ ràng, nếu con mắt của chúng ta được cấu tạo giống như chiếc mũi hoặc ngón tay cái, chúng ta không thể nào nhìn được. Hoặc nếu chiếc miệng của chúng ta giống như bất cứ phần nào nơi cơ thể, chúng ta sẽ không ăn uống gì được. Đây chính là sự huyền nhiệm nơi mỗi người mà xưa nay chúng ta thường không bao giờ để ý. Hơn nữa, cơ thể chúng ta gồm nhiều thành phần khác nhau hòa hợp lại mà không thành phần nào giống thành phần nào, có chăng chỉ tương đồng chứ không hoàn toàn như nhau.

Vấn đề được đặt ra đó là lý do hoặc nguyên nhân hay quyền lực nào đang điều hành để liên kết mọi thành phần của cơ thể chúng ta hòa hợp kiến tạo nên thực thể được gọi là con người? Suy luận như vậy, chúng ta cảm nhận được có một quyền lực huyền nhiệm nào đó đang hoạt động nơi mỗi người khiến con tim liên tục đập, lá phổi không ngừng thở dẫu khi chúng ta ngủ, chúng ta quên luôn cả thân xác. Quyền lực này cũng đang hoạt động ở từng tế bào nơi cơ thể của mỗi người, giúp tế bào hấp thụ dưỡng trấp, sinh sản, và qua thời kỳ nào đó đã tự chết đi nhường chỗ cho những tế bào khác mới được phân hóa tiếp nối hoạt động. Tôi gọi quyền lực huyền nhiệm này nơi mỗi người là Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu, hoạt động và điều hành nơi mọi loài, mọi vật.

Suy nghiệm như thế, chúng ta thấy, Thiên Chúa đang hoạt động và là căn nguyên cho sự sống nơi mỗi người. Và như vậy, mẫu số chung hay căn bản chung của mọi người, mọi vật, mọi loài chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa hay quyền lực hiện hữu căn bản chung, theo ngôn từ thần học được gọi là nhiệm thể. Chúng ta được gọi là nhiệm thể Chúa Kitô vìsự hiện hữu của mỗi người chúng ta đều do chính Thiên Chúa đang điều hành, hoạt động.

Thế nên, khi chúng ta họp nhau cùng dâng thánh lễ, chúng ta gom tất cả mọi thành phần nhiệm thể của Đức Kitô để cùng ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu huyền nhiệm và tối thượng đang hoạt động, điều hành nơi mỗi người, đồng thời cũng hoạt động và điều hành nơi mọi người. Trong trường hợp này, linh mục nơi vị thế đại diện dân Chúa, đại điện một cộng đồng thuộc nhiệm thể Đức Kitô thực hiện công việc của nhiệm thể Đức Kitô, và cũng thực hiện công việc của Đức Kitô. Linh mục và dân Chúa chẳng khác gì công cụ hoặc phương tiện cho Đức Kitô thực hiện công việc của Ngài. Sự thể này giải thích ý nghĩa câu Phúc Âm, “Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ” (Mt. 18:20).

Hôm nay chúng ta cùng dâng thánh lễ tôn vinh Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Tôi muốn nói, cộng đồng dân Chúa, nhiệm thể Đức Kitô cùng họp nhau tôn vinh thực thể Mình và Máu Thánh của Ngài nơi Bí Tích Thánh Thể. Qua những suy nghiệm cùng nhau nhận thức, một điều chắc chắn chúng ta nghiệm được đó là chính Đức Kitô thực hiện công việc truyền phép thánh thể của Ngài nơi Thánh Lễ. Linh mục chỉ đại diện cộng đồng dân Chúa, nhiệm thể của Đức Kitô đọc lời truyền phép nhưng chính Đức Kitô thực hiện công việc của Ngài. Linh mục không có quyền năng gì nơi sự truyền phép mà chỉ là công cụ đại diện cho cộng đồng dân Chúa mà thôi.

Sự truyền phép này và sự hiện diện của Đức Kitô nơi phép thánh thể là một thực thể tự nó, ai nói có hay không thìthực thể vẫn là thực thể. Ai tin cũng thế, chẳng tin cũng vậy bởi thực thể không lệ thuộc quan niệm của bất cứ ai. Sự hiện diện của Thiên Chúa, quyền lực tối thượng nơi mỗi người, được thể hiện từng giây từng phút, được thể hiện qua những thành phần và hoạt động khác nhau nơi cơ thể mỗi người mà đã bao lâu nay chúng ta không để ý nhận biết. Tóm lại, ai suy nghiệm để nhận biết sự huyền nhiệm cả thể đangxảy ra nơi mình từng giây từng phút, nơi từng nhịp đập con tim, nơi từng hơi thở của lá phổi, qua con mắt nhìn thấy mọi sự vật chung quanh, qua cặp tai nghe được những âm thanh, tiếng nói đó đây, thì mới có thể suy nghiệm để nhận thực được sự hiện diện của Đức Kitô nơi bí tích Thánh Thể.

Thiên Chúa chính là sự sống “Đàng, sự thật, và sự sống chính là Ta;” Thiên Chúa cũng chính là sự hiện hữu nơi mọi sự; vì ngoài sự hiện hữu sẽ không có gì. Nói cách khác, từ tư tưởng, lời nói, hoạt động, đến mọi sự hiện hữu, mọi phương cách hiện hữu đều là hiện thể của Thiên Chúa. Miếng cơm chúng ta ăn, ước muốn chúng ta mơ ước, tấm bánh, miếng rượu trên bàn thờ đều là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Nhận biết như vậy, tất cả, từ tư tưởng đến hành động và mọi sự đều là một trong Thiên Chúa chẳng khác gì tôm cá các loại và nước được gọi là biển. Chúng ta đang thở Thiên Chúa, suy tư Thiên Chúa, ăn Thiên Chúa.

Con tim chúng ta liên tục đập, lá phổi luôn luôn thở dẫu khi ngủ chúng ta không để ý chi. Xin mọi người để tâm, khi nào chúng ta không cảm thấy mình mà chỉ thấy mình hòa quyện với tất cả, thấy mình đang thở Chúa, đang ăn Chúa, đang không là gì thì coi chừng đó chính là thời điểm ngất trí hòa quyện với quyền lực hiện hữu tối thượng là chính Thiên Chúa. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta nhận biết sự huyền nhiệm nơi mỗi người. Amen.

Chủ Nhật 11A (Mt. 9:36-10:8)

Bài phúc âm vừa được công bố nêu lên thực tại, “Thấy dân chúng, Ngài chạnh lòng thương họ; vì họ bơ vơ vất vưởng như chiên không người chăn giữ. Bấy giờ, Ngài bảo các môn đồ: ‘Mùa màng nhiều, thợ gặt ít. Vậy các ngươi hãy xin Chủ mùa sai thợ gặt đồng lúa của Người.’

Mười hai người ấy, đức Giêsu đã sai đi và truyền lịnh cho họ rằng: Các ngươi đừng lên đàng đến các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của người Samari; phải hơn, hãy đi đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Hãy đi và loan báo rằng, ‘Nước Trời đã gần bên.’”

Qua bài phúc âm, chúng ta thấy, dân chúng vào thời đó chưa biết gì về Tin Mừng đức Giêsu rao giảng. Nói cho đúng, Chúa Giêsu sai mười hai môn đồ đi rao giảng chỉ có một câu, một điều, và đó là “Nước Trời đã gần bên” cho những người Israel, những người được phúc âm gọi là con chiên lạc, con chiên đậu phọng.

Tại sao phúc âm gọi người Israel là con chiên lạc? Xin thưa, vì họ vẫn chưa nhận biết điều rao giảng của Chúa Giêsu, chưa nhận biết ”Nước Trời đã gần bên” như chúng ta. Nói cách khác, bất cứ ai chưa nhận ra “Nước Trời đã gần bên,” dều là con chiên lạc. Thử hỏi lòng mình, chúng ta đã nhận biết “Nước Trời đã gần bên” nghĩa là thế nào chưa? Nước Trời là gì mà đã gần bên trong khi chúng ta vẫn chưa nhận biết? Xét như vậy, chúng ta tuyên xưng tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa mang nghĩa thế nào trong khi vẫn không biết “Nước Trời đã gần bên” là gì!

Chúa ta tuyên xưng mình tin vào Thiên Chúa, tuyên xưng mình là con nhà có đạo, đôi khi giề bỉu ai đó là vô thần mà không biết mình tin vào Thiên Chúa là tin thế nào, chỉ biết như chiếc máy lặp lại những phạm trù như con vẹt. Con vẹt có đức tin không? Thưa không. Vậy chúng ta không biết, không hiểu những điều mình tuyên xưng như con vẹt thì có được gọi là tin không? Vậy đức tin là gì? Tin vào Thiên Chúa là tin thế nào? Thiên Chúa là gì cũng không biết, mà vẫn cứ hô hào tin vào Thiên Chúa thì đâu khác chi con vẹt.

Bao năm rồi, mình là con nhà có đạo nhưng không biết mình thế nào, Thiên Chúa ra sao, linh hồn mình là gì, Nước Trời đã gần bên nghĩa là chi, liên hệ đến mình thế nào thì mình có đạo nghĩa là sao? Đã bao năm nay, chúng ta chấp nhận biến mình thành chiếc thùng rác để chất chứa bất cứ gì người khác quăng vô. Nói cách khác, chúng ta biến mình thành thân xác chết biết thở, nuốt vô thế nào rồi lại nhả ra thế ấy. Chúng ta đã vô tình ngoan ngoãn biến mình thành con người bệnh hoạn ăn thực phẩm nhưng thực phẩm không biến thành máu mà lại trở ngược ra đường miệng như cũ; chúng ta chấp nhận mình thành con người bệnh hoạn, ăn không tiêu. Nghe lời Chúa, lời phúc âm cũng như vịt nghe sấm, chẳng khác gì nước đổ lá môn, lá khoai; bởi vì chúng ta đã vô tình không suy nghĩ, không dám đặt vấn đề.

Như vậy, coi chừng máu Chúa đổ ra để cứu chúng ta trở thành vô ích; dẫu chúng ta theo thánh Phao lô tuyên xưng Chúa Giêsu đến chịu chết trên thánh giá chuộc tội loài người, chuộc tội cho tôi, cho quý ông bà, anh chị em, cho mọi người. Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu chỉ là rao giảng Tin Mừng, “Nước Trời đã gần bên;” mà chúng ta không cần biết, không cần suy nghĩ, suy tư Nước Trời là gì, gần bên là thế nào rồi cứ nhắm mắt, bịt tai hô ầm lên Chúa chuộc tội cho mình thì nghĩ là thế nào. Cứ nhắm mắt, bịt tai hô ầm lên rằng mình có một tỷ đồng trong túi; cứ cho tay vào túi rờ xem có tiền không? Chắc chắn rằng rờ rách cả túi cũng không có đồng nào đâu. Thế nên, một điều hiển nhiên, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình được. Bởi vậy, tôi xin quý vị, xin quý ông, quý bà, quý anh chị em, xin mọi người làm ơn suy nghĩ xem “Nước Trời đã gần bên” nghĩa là gì nơi cuộc đời của mình, của chúng ta. Đức Giêsu sai các môn đồ đi rao giảng chỉ có một câu, “Nước Trời đã gần bên,” không có câu nào khác. Vậy “Nước Trời đã gần bên” nghĩa là gì, liên hệ đến chúng ta thế nào?

Muốn biết “Nước Trời đã gần bên” nghĩa là gì, liên hệ đến chúng ta thế nào, chúng ta cần lật phúc âm. Nơi phúc âm, Nước Trời cũng được gọi là Nước Thiên Chúa. “Biệt phái thỉnh vấn Ngài, bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Ngài đáp lời và nói: ’Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền; người ta sẽ không nói được, ‘Này ở đây’ hay ‘Ở đó;’ vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21).

Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mỗi người, nơi mọi sự hiện hữu hữu hình cũng như vô hình, và như vậy, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thế nên, Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Vấn đề chỉ là chúng ta có nhận biết hay không; chúng ta có nhận chân được Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình hay không. Do đó, phúc âm được viết, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền; người ta sẽ không nói được ‘Này ở đây’ hay ‘Ở đó;’ vì này, Nước Thiên Chúa ở trong,’ ‘Ở trên’ (Lc. 11:20)và ‘Ở giữa’ các ông.

Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trong, ở trên, và ở giữa các ông; có nghĩa Thiên Chúa đang ở trong, ở trên, và ở giữa các ông;:Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel.” Nước Trời đã gần bên; Nước Trời ở giữa, Nước Trời ở trên cũng chỉ mang một nghĩa, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà thôi. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ, suy tư thâm trầm về thực thể Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Amen.

Chủ Nhật 12A (Mt. 10:26-33)

Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta, “Không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thày nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên nóc nhà.

Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”

Dân gian người Việt có câu, “Tốt khoe, xấu che.” Nhưng thử hỏi, đã bao lần chúng ta cảm thấy bực mình hoặc tổn thương tự ái; vì ai đó dẫu bâng quơ hay cố ý nói câu nào đó đụng chạm đến điều gì hoặc sự gì chúng ta cố tâm che giấu. Vẫn biết rằng, nếu không muốn ai biết điều gì, sự gì thì đừng làm, đừng thực hiện. Ngược lại, cũng nhiều lần, chúng ta nghe thấy ai nói điều gì, tuyên dương sự gì, mình biết ngay người đó khoác lác, nổ, hay chảnh.

Tuy nhiên, chúng ta thử suy nghĩ, lý do gì hay tại sao phúc âm khuyên chúng ta, “Điều Thày nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên nóc nhà?” Nói trong bóng tối là thế nào? Nghe rỉ tai là nghe làm sao?

Khi suy nghĩ về một vấn đề gì, chúng ta sử dụng tâm trí để nhận định, xét đoán, tính toán hơn thiệt hầu tìm ra phản ứng hay hành động nên thế nào. Những suy nghĩ của chúng ta, nếu không nói ra, tất nhiên không ai biết. Ngoại trừ suy nghĩ, tính toán về sự việc, cuộc sống nhân sinh, tham vọng và nhiều khi mưu mô bất chính thế tục ảnh hưởng, nhưng khi suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét nơi phương diện tâm linh, lương tâm, tâm hồn một người trở về với bản chất nguyên thủy sẽ không bị ảnh hưởng tham vọng thế tục. Lúc này, tâm hồn một người đối diện với chính mình, và dĩ nhiên, không ai muốn làm hại hoặc suy nghĩ, tính toán tàn phá chính mình. Thí dụ, khi một người đặt vần đề suy nghĩ về linh hồn mình là gì, liên hệ thế nào với thân xác, cuộc đời của mình; những suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét không bị ảnh hường bởi bất cứ gì, ngoại trừ một tâm hồn bệnh hoạn.

Hơn nữa, trong suy nghĩ, suy tư, bất cứ ý nghĩ, nhận định nào hiện đến cũng không đúng, không sai. Chúng hiện hữu; tâm tư một người lúc đó chỉ mang nhiệm vụ nhận định để chấp nhận hay không. Điều này có nghĩa, ý nghĩ, tư tưởng nào mà một người nhận thấy hợp lý hợp tình với suy tư thì chấp nhận; ý nghĩ, tư tưởng nào không hợp với suy nghĩ, suy tư, tất nhiên cần loại bỏ. Loại bỏ trong trường hợp này có nghĩa không dể tâm tới nó, để nó tự sinh, tự diệt, thoáng qua rồi mất đi. Đây là lý do tại sao phúc âm khuyên, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi; nếu tay các ngươi là cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi” (Mt. 18:9; 9:43).

Nhận định, suy luận về thực thể và diễn trình của suy nghĩ như thế, chúng ta hiểu được tại sao thánh Phao lô đề nghị chúng ta cầu nguyện liên lỷ, “Đừng ngớt cầu nguyện” (1Thes. 5:17). Chúng ta thường hiểu lầm cầu nguyện là bày tỏ ước muốn, ước mong, đôi khi lại còn cho rằng cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Nếu chưa biết linh hồn mình là gì, Thiên Chúa là gì thì sao có thể nói chuyện với Chúa. Thế nên, cầu nguyện chính là suy nghĩ, suy tư để nhận biết thực thể chính mình là gì, linh hồn của mình là chi, liên hệ với thân xác, cuộc đời của mình thế nào. Thiên Chúa là gì, liên hệ đến mình ra sao.

Nhận biết được thực thể mình thế nào, linh hồn mình là gì, liên hệ đến thân xác, cuộc đời mình ra sao là một thức ngộ tâm linh; chỉ mình biết, cho dù cố gắng nói ra, giải thích, giải nghĩa, nếu họ không tự suy nghĩ, họ cũng không thể nào hiểu được như đã có câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” (Lão). Cả bốn phúc âm cũng chỉ khuyến khích và bày tỏ phương cách đối diện với chuyển biến nơi diễn trình suy tư, suy luận về thực thể con người của mình mà thôi. Điều rõ ràng mà chỉ những ai suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét đều nhận biết; đó là, họ sẽ có được niềm vui, nỗi an bình tâm tưởng tuyệt vời, không thể chia sẻ với ai, và cũng không ai có thể chia sẻ. Phúc âm nói lên thực trạng này nơi câu, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo; kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6).

Biết được thực thể mình là gì, linh hồn mình là chi, liên hệ với thân xác, cuộc đời mình thế nào, được gọi là thức ngộ, hay ngộ nhận thức. Nói cho đúng, sự nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu, và chỉ có thể là kết quả của suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét, không thể học được, không thể truyền lại cho bất cứ ai, và càng không thể truyền bá, giảng giải. Càng cố gắng giảng giải, giải thích, lại càng vấp phạm, càng trở nên ngăn cản người khác suy nghĩ, suy tư. Sự việc này bị phúc âm kết án, “Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại. Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13; NTThuấn). Giải thích, giải nghĩa phúc âm dưới quan điểm luân l‎ý, đạo đức nhân sinh thế tục khiến dân Chúa tưởng là đã hiểu, đã biết, thay vì khuyến khích họ suy nghĩ, suy tư đạt đến nhận thức. Như vậy, giải thích, giải nghĩa lời Chúa, lời phúc âm chính là ngăn cản dân Chúa nhận biết về Ngài.

Thế tại sao phúc âm lại khuyên, “Không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thày nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên nóc nhà?” Xin thưa, phúc âm không khuyến khích chúng ta giải thích, giải nghĩa tâm trạng nhận thức, giải thích giải nghĩa phúc âm, mà chia sẻ kinh nghiệm nghiệm chứng, nghiệm xét, suy tư, suy nghĩ, chia sẻ diễn trình thực trạng suy nghĩ, suy tư như phương tiện cho người khác so sánh hay áp dụng trong suy nghĩ, suy tư khi đối diện với thực trạng diễn tiến của suy tư mà thôi, chẳng khác gì phúc âm đã được viết, “Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất. Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt. 10:34).

Dĩ nhiên, người suy nghĩ, suy tư, sẽ phải đối diện với muôn ngàn trắc trở, muôn ngàn trận chiến nội tâm do tham vọng thế tục, ham muốn nhân sinh làm phiền. Đâu phải phi lý mà phúc âm được viết, “Kẻ yêu cha mẹ, con cái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta,” hay, “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham với Nước Thiên Chúa.” Cũng đâu phải đơn giản mà phúc âm đã minh xác tội phạm đến Thánh Thần là tội không bao giờ được tha! Không suy nghĩ thì sao? Thì sẽ muôn đời u tối!

Tóm lại, lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta suy tư, suy nghĩ về những câu nói, những dụ ngôn nơi phúc âm, hoặc về thực thể linh hồn của chính mình, hay bất cứ câu nói khôn ngoan nào và chỉa sẻ kinh nghiệm tâm linh này, kinh nghiệm khi suy tư suy nghĩ hầu mong người khác thức ngộ. Xin Thánh Thần ngự trị nơi mỗi người soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy tư. Amen.

Chủ Nhật 13A thường niên (Mt. 10:37-42) (1)

Hôm nay lời Chúa đem đến cho chúng ta hai tin buồn nếu hiểu theo nghĩa từ chương, nghe sao biết vậy, nghe gì khư khư tuân theo như thế, không suy nghĩ, suy tư hay nghiệm xét, như thói quen của chúng ta đã bao lâu nay. Nhìn vào thực tại cuộc sống, chúng ta tuyệt vời thông minh; tính toán điều gì trúng chóc điều đó, chẳng những trong những ngày đã qua, ngay thời buổi này, mà còn cho thời bóng xế, khi thân xác đã già nua vào lúc mùa thu của cuộc đời. Hơn nữa, con cháu chúng ta càng tuyệt vời hơn. Đã có nhà biên soạn, sau khi nghiên cứu sự tiến triển của con người trãi qua các thế hệ phải ngạc nhiên thốt lên, “Thời đại này là thời đại của thần đồng; những tinh hoa của các thời đại trước đang được tái sinh làm người.” Đúng hay sai, mời quý ông bà, anh chị em thử nhìn lại con cháu mình thì biết.

Có rất nhiều vấn đề, có rất nhiều câu nói nghịch thường đã bao lâu nay chúng ta không dám nghĩ, hoặc coi thường vì cho rằng không có gì liên hệ tới cuộc sống nên không muốn tâm trí bị phiền hà. Chẳng hạn, ai không cho rằng ngớ ngẩn khi nghe thấy câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết,” hoặc, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Giả sử ai đó nghĩ rằng, phải có lý do, phải có điều gì đó thách đố mình suy tư nên mới có câu nói nghịch thường, ngớ ngẩn như thế; bởi vậy, để tâm suy nghĩ, cố kiếm cho ra ý nghĩa của câu nói nghịch thường ấy, chắc chắn sẽ có nhiều điều ngạc nhiên đáng được phanh phui.

Đừng giật mình khi nghe tôi nhắc lại câu nói của Montaigne được cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại nơi cuốn sách Cái Cười Của Thánh Nhân, “Người khôn cần phải học nhiều với kẻ dại hơn là kẻ dại phải học của người khôn.” Hoặc câu khác, “Hoan hô kẻ đã phụ tôi; họ đã trả tôi lại cho tôi.” Hay, “Một trăm năm sau khi chết, cái hạnh phúc nhất cho bậc vĩ nhân là có được nhiều kẻ thù.” Hoặc câu khác, “Người đâu phải là vị thánh, cũng đâu phải là con thú; và bất hạnh thay, kẻ muốn làm thánh lại làm con thú.” Mọi người nên nín thở chớ vội la lên khi tôi nhắc tới câu này, “Cái bóng của Thượng Đế là Quỷ vương.”

Nói như vậy, chúng ta nhận ra rằng, đã bao lâu nay chúng ta không sử dụng khả năng suy nghĩ, suy tư; do đó, chúng ta tự kết án mình thế nọ, thế kia. Cũng có thể chúng ta đã không dám suy nghĩ vì mang mặc cảm mình không có khả năng suy tư, hoặc cách nào đó bị cấm đoán suy tư. Xin thưa, suy nghĩ, suy tư là khả năng bẩm sinh nơi mỗi người và chỉ con người mới có khả năng suy tư, sáng kiến. Bất cứ ai cho rằng mình không có khả năng suy tư, suy nghĩ, hoặc không dám suy nghĩ, tất nhiên chối bỏ hồng ân suy tư như một hồng ân làm người. Sự thể này, được phúc âm gọi là tội phạm đến Thánh Thần. Thì nào có gì lạ đâu, không suy nghĩ, suy tư thì suốt đời ngu dốt.

Ai đã đọc phúc âm, đều phải đối diện với những câu nghịch thường đến độ tối tăm mắt mũi. Chẳng hạn, “Nếu mắt các ngươi là cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi,” hoặc, “Người giầu có, khó vào nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim,” hay, “Đừng tưởng cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa là vào được Nước Trời.” Hoặc, “Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất. Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt. 10:34).

Để ý những câu nói nghịch với thực tại, hình như được ám định về trạng thái tâm tư nào đó chẳng khác gì Ca Dao, Tục Ngữ người Việt. Thí dụ, “Liệu bò, đo chuồng,” hay, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.” Ai cũng hiểu hai câu Tục Ngữ này nói về thái độ nên có, nhận thức cần thiết khi đối xử, giao tiếp với người khác, với cuộc đời. Mặc dầu dùng bò, chuồng, nồi, hướng ngồi, làm tiêu biểu nhưng ám định thái độ, nhận thức, tâm tình của một người nên có. Xét câu phúc âm, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó.” Thử hỏi, lòng dạ, tâm trí của chúng ta hiện giờ ở đâu? Chúng ta đang để tâm nghe chia sẻ, bàn luận về lời Chúa hầu tìm ra phương cách áp dụng trong cuộc sống. Điều này chứng tỏ, ước muốn, ý định, tham vọng của chúng ta ở đâu, đặt nơi nào thì lòng dạ của chúng ta chiều theo điều đó. Câu phúc âm nói về tâm tình, trạng thái tâm tư, tư duy của một người. Kinh nghiệm sống minh chứng, chúng ta dồn hết công sức, thực hiện mọi phương cách để đạt được, để hoàn thành ước muốn của mình với bất cứ giá nào có thể. Bởi đó, câu “Gia tài ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó” có nghĩa, “Ước muốn, ý định của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó.” Phúc âm nói về trạng thái tâm tư của chúng ta.

Thử xét câu phúc âm khác, “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa.” Ai không biết cày ruộng ngày xưa gồm có con trâu hay con bò, kéo chiếc cày và người cầm cán cày để điều chỉnh luống cày theo sau. Tất nhiên, con trâu, con bò đi trước để kéo chiếc cày thì người cầm cày cần phải để ý điều khiển cho cày khỏi bị lỗi, đâu ai quay lại phía sau để làm gì; bởi nếu quay lại, tất nhiên sẽ bị lỗi, đường cày sẽ bị lệch. Xét thế, câu phúc âm nói về hành trình, về những gì diễn tiến, những tư tưởng, ý nghĩ nơi tâm tư, nơi trí óc, tâm tình của người suy nghĩ, suy tư. Thử xét trường hợp, nếu quý ông bà, anh chị em đang suy nghĩ, tính toán công chuyện nào đó cho ngày mai, hoặc phải ăn nói thế nào khi đứng trước công chúng trong lễ hội nào đó, hoặc phải mua bán những vật liệu nào cho công việc mà con hoặc cháu cứ léo nhéo đòi mua thứ nọ, ăn thứ kia thì sao.

Tương tự như thế, khi suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét về lời Chúa, về câu phúc âm nào đó, bất cứ ý tưởng, tham vọng nào đó hiện ra trong trí óc không liên hệ chi đến điều mình đang suy nghĩ, thì cần được gạt bỏ. So sánh thực trạng tâm trí này với câu, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi; nếu tay ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng nó đi.” Xét thế, phúc âm nói về trạng thái tâm tư khi suy nghĩ, suy tư. Bất cứ gì, tư tưởng, ước mơ, tham vọng nào muốn chen vào lúc suy nghĩ, suy tư lời phúc âm, chúng ta cần vứt bỏ không cho phép ảnh hưởng đến điều mình đang suy tư.

Trở lại với lời Chúa, lời phúc âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta.” Câu này nói về trạng thái, tâm tư, tâm trí một người khi suy nghĩ, khi cầu nguyện. Cầu nguyện chính là suy nghĩ, suy tư về câu phúc âm nào đó. Khi suy nghĩ, khi cầu nguyện, bất cứ gì mình ước muốn, ý định, tham vọng, của mình hiện ra làm phiền hà sự suy nghĩ, suy tư về lời Chúa, chúng ta cần gạt bỏ. Câu phúc âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta,” không nói chi về cha me, con cái, mà dùng cha mẹ, con cái để chỉ về những ý tưởng, tham vọng hiện ra nơi tâm trí làm phiền hà sự suy nghĩ, suy tư của chúng ta. Xin Thánh Thần soi sáng và dẫn dắt chúng ta nơi hành trình suy nghĩ về lời Chúa. Amen.

Chủ Nhật 14A (Mt. 11:25-30)

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng: Lạy Cha, là Chúa trời đất; con xin ngợi khen Cha; vì Cha đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà đã mạc khải ra cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là quyết ý của Cha.

Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức. Hãy mang lấy ách của Ta vào mình, hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn; vì chưng, ách Ta thi êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng.

Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta, “Con xin ngợi khen Cha; vì Cha đã giấu các điều ấy.” Các điều ấy là điều gì? Mục đích và nhiệm vụ chính yếu đức Giêsu được sai đến gian trần chính là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Như mọi người đã được nghe biết, Tin Mừng đức Giêsu rao giảng chỉ đơn giàn là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Emmanuel.” Thiên Chúa ngự trị, hiện diện, và hoạt động nơi quý ông, quý bà, quý anh chị em, nơi tôi, nơi mọi người, nơi mọi sự; Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Ngoài Thiên Chúa ra, không có gì hiện hữu.

Những gì chúng ta gọi là phép lạ đểu được phúc âm chỉ rõ qua lời minh xác của Chúa Giêsu, “Đức tin con chữa con (Mt. 8:10;13; 9:22;29; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 7:9); đức tin con cứu con (Lc. 7:50).” Đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi mọi người.

Chúa Giêsu muốn chúng ta điều gì? Ngài nói, “Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức.” Ai trong chúng ta đã chưa ít nhất một lần tự hỏi; tại sao mình được sinh ra? Tại sao mình có cuộc đời, và sau khi chết rồi mình sẽ đi về đâu. Một điều rõ ràng, không ai có thể trả lời được mục đích cuộc đời của mình là gì, nên thường chấp nhận mình đã được sinh ra để sống thì phải sống, dẫu cuộc sống thế nào.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài. Muốn đến với Ngài, chúng ta cần suy nghĩ về sự thể Tin Mừng Nước Thiên Chúa Ngài đã rao giảng. Chúng ta cần phải suy nghĩ để nhận biết thực thể sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Mình có linh hồn; vậy linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác và cuộc đời ra sao? Linh hồn mình liên hệ với Thiên Chúa thế nào?

Chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này; tai chúng ta nghe, mắt nhìn, miệng nói, óc suy nghĩ. Ai cũng nhận biết, và đang thực chứng như thế; các nhà khoa học cũng đoan chắc như thế. Nhưng thử hỏi, đã có lần tham dự đám ma, người chết, người mà linh hồn đã lìa khỏi xác còn có thể nhìn, có thể nói, có thể nghe, hoặc có thể suy nghĩ nữa không. Sự thể này minh chứng điều gì? Xin thưa, chỉ khi linh hồn còn ở nơi thân xác một người, miệng người ấy mới có thể nói, tai người ấy mới có thể nghe, mắt có thể nhìn, và óc mới có thể suy nghĩ như chúng ta.

Nhận định rõ như vậy, chúng ta biết được rằng, ngũ quan, thân xác, và cả cuộc đời một người chỉ là phương tiện hay cơ hội cho linh hồn hoạt động. Linh hồn dùng cái miệng để nói, dùng tai để nghe, mắt để nhìn, và dùng bộ óc để suy nghĩ và khi linh hồn ra khỏi xác, tất cả chấm hết. Linh hồn chẳng khác gì người lái xe, và thân xác giống như chiếc xe; hồn lái và xác thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, thân xác chỉ là phương tiện cho linh hồn thực hiện ước muốn, ước mơ, ý định, ý nghĩ, mưu mô, tham vọng. Xét thế, ước muốn, ước mơ, tham vọng, yêu đương, giận ghét đều phát xuất tự linh hồn.

Từ sự nhận biết này, chúng ta thấy được, đến với Chúa Giêsu có nghĩa suy nghĩ về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, suy nghĩ về thực thể linh hồn của mình liên hệ với Thiên Chúa thế nào. Tôi không thể diễn tả được trạng thái tâm tưởng của chính tôi cũng như của bất cứ ai khi họ đã suy nghĩ và thực sự nhận biết thực thể linh hồn của họ là gì. Ai để tâm suy nghĩ sẽ cảm nhận được trạng thái tâm tưởng được phúc âm ghi lại lời Chúa phán, Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức. Hãy mang lấy ách của Ta vào mình, hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn.” Xin Thần Khí của đức Giê su soi sáng và dẫn dắt chúng ta đến cùng Ngài. Amen.