Chủ Nhật 22A (Mt. 16:21-27)
Hôm nay, lời Chúa qua bài phúc âm vừa được công bố, đến với chúng ta quả thật khác thường, nhất là với những ai làm nghề chài lưới, bắt tôm cá ngoài khơi, và thường nhận thánh Phêrô làm quan thày nghành nghề đâm hà bá. Mỗi khi thực hiện công việc gì, dẫu cố gắng hết sức với lòng chân thành, ngay thẳng, nhưng không hiểu sao kết quả lại thất bại, hoặc suy nghĩ thế nào để miệng phát biểu ra điều gì đó chẳng những phiền lòng người khác, mà còn tác hại đến chính mình, chúng ta thường đổ lỗi cho ma quỷ, dẫu có lẽ cả cuộc đời vẫn chưa bao giờ để tâm tìm hiểu ma quỷ là gì, bởi thường thì chỉ nghe sao biết vậy.
Hình như câu nói, “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường,” thường đậu trên môi chúng ta mỗi khi gặp gì lầm lỗi, hoặc thất bại ngoài ý muốn. Dĩ nhiên, “Đường đời lắm nẻo chông gai, ai chưa qua chưa phải là người,” như nơi một bài hát nào đó đã có lần chúng ta được nghe qua. Trên thực tế nơi thương trường, làm chi thì làm, với tâm ngay chính và lòng chân thành, giỏi lắm thành công được 20 phần trăm đã là đại thành công. Tôi không nhớ rõ vị danh nhân của quốc gia nào đã có câu nói, “Những trận đại thắng chính là những trận đại bại.” Cuộc đời là thế và nếu không thế thì không phải là cuộc đời.
Xét về cuộc đời nhân sinh, ai không vào đời đơn độc tay trắng, để rồi cuối cùng đến lúc ra đi cũng đều trắng tay lạnh lùng; cho dù danh tiếng đến mấy cũng đều dần trôi theo thời gian vào cõi hư vô; dẫu cố sao cho, “Lưu thủ đan tâm chiếu Hãn Thanh,” thì chỉ vài chục hay trăm năm sau, nào còn ai biết đấy là đâu. Hơn nữa, cái đúng, điều hay, mình cố theo đuổi thực hiện hôm nay, tại nơi này, đã chắc gì nên hoặc hợp thời nơi khác, hay có khi lại trở thành chẳng nên đối với chính bản thân chỉ một thời gian ngắn tiếp theo. Đối với thực trạng sinh sống của con người nơi dòng đời biến chuyển, đã biết bao nhiêu cảnh cười ra nước mắt; hôm qua bạn hữu, coi chừng nay trở thành kẻ thù bất cộng đái thiên. Tệ hơn nữa, đã có người thốt lên, “Kẻ thù tệ hại nhất của tôi lại là chính tôi.” Chẳng thế mà chúng ta cũng đọc được nơi phúc âm, “Và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt. 10:34).
Thế nên, chẳng lạ gì, khi Chúa Giêsu bày tỏ cho các môn đệ của Ngài rằng Ngái sẽ phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ, và thượng tế, thì thánh Phêrô không thể chấp nhận được mà can gián Ngài rằng, “Lạy thầy, không thể thế được! Sẽ chẳng phải như vậy đâu.” Có thể thánh Phêrô vì được chứng kiến tận mắt những sự cả thể Chúa đã thực hiện, nào cho người chết sống lại, nào xua đuổi tà thần khỏi người bị ám, nên đã nhận ra được quyền năng bất bại của Chúa nơi mọi hoàn cảnh. Cũng có thể thánh Phêrô cho rằng nói như thế sẽ giảm bớt uy phong của Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã trả lời cùng thánh Phêrô, “Hỡi Satan, hãy lui lại sau Ta; Ngươi là cớ cho Ta vấp phạm; vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16:23). Thánh Phêrô bị gọi là Satan chỉ vì phát biểu ý nghĩ theo loài người. Thử hỏi, ai trong chúng ta không là người; ai không suy nghĩ theo ý loài người, và như thế, ai không mang tính chất Satan? Có thể Tristan Bernar suy nghiệm câu phúc âm này nên phát sinh câu nói, “Chính Thượng Đế tạo ra thế gian, nhưng chính Quỷ vương mới làm cho thế gian sống động.” (CCCTN; NDCần; Đại Nam; tr.400)).
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình” (Mt. 16:24-26).
Lời phúc âm ngang ngang, ngửa ngửa, nếu đọc hoặc nghe mà không để tâm suy nghĩ thì sẽ chẳng khác gì vịt nghe sấm. Nào, chúng ta thử xét, “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thấp giá mình mà theo Thầy.” Thử hỏi, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, bỏ mình đi thì lấy mình đâu mà vác thập giá? Thế nên, “Bỏ mình,” có nghĩa không chạy theo ước muốn thế tục, và chấp nhận thân phận nhân sinh. Dĩ nhiên, ai không muốn có cuộc đời dễ thở hơn, thuận theo ý của mình hơn. Tuy thế, bỏ mình không có nghĩa coi thường cuộc đời mình. Có câu nói, “Vì mình có thân xác, cuộc đời như mọi người nên mình sống như mọi người nhưng lòng mình thì khác hẳn.” Bỏ mình lại có nghĩa ngược lại và đó chính là nhận biết chính mình, nhận biết thực thể mình là gì, linh hồn mình là chi, liên hệ với thân xác, cuộc đời mình thế nào!
“Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất.” Sau lễ, nếu ai ra về và gặp bè bạn mà lẩm bẩm câu này trong khi suy nghĩ, coi chừng bị người ta cho là nóng đầu. Đối với thân xác con người, một Tần Thủy Hoàng, vị vua nổi tiếng của Trung Hoa, có công thống nhất đất nước thời kỳ Trung Hoa chia năm, xẻ bảy. Tần Thủy Hoàng đã tiêu phí không biết bao nhiêu công sức, tiền của, sai người đi kiếm thuốc trường sinh, và rồi cũng chỉ còn cái tên ghi trong lịch sử đã bị quên lãng của nước Tàu.
Tất nhiên, ai cũng phải chết; bất cứ ai vừa mới được sinh ra thì đồng thời cũng đều bị đeo theo án tử, để rồi mỗi bước chân đều dẫn dần tới nấm mồ. Tuy nhiên, chúng ta còn có linh hồn, có cuộc sống của linh hồn. Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta để tâm suy nghĩ, suy tư về cuộc sống của linh hồn, cuộc sống tâm linh của mỗi người. Phương pháp nào để nhận biết cuộc sống tâm linh, lời Chúa hôm nay dạy chúng ta, “Còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sống.” Lời này nghĩa là sao? Xin thưa là suy nghĩ, suy tư về lời Chúa, lời phúc âm. Theo kinh nghiệm, tôi đề nghị, đừng suy nghĩ nhiều, hãy suy nghĩ một câu thôi, bất cứ câu nào.
Tốt nhất là hãy suy nghĩ câu phúc âm nào đó làm phiền mình, đầy vẻ vô lý, hoặc như chọc vào tai mình. Hoặc bất cứ câu nghịch thường nào khác. Tự mình suy nghĩ, hôm nay chưa thấy gì, hãy suy nghĩ tiếp ngày mai; ngày mai vẫn còn cứ u mê, suy nghĩ thêm một tuần nữa; tuần nữa vẫn không xong, tiếp tục suy thêm một tháng; sau một tháng mà tâm trí vẫn cứ như đêm ba mươi, suy nghĩ thêm một năm; và một năm vẫn còn chưa tỏ, suy thêm mười năm. Mất mười năm vẫn còn tăm tối thì cả đời; sống để dạ, chết đem theo. Biết bao nhiêu người tin theo đức Kitô đã cả đời suy nghĩ, nghiệm xét phúc âm, thế sao ngày nay, lời phúc âm, lời Chúa vẫn còn được coi là huyền nhiệm?
Không nói đâu xa, thử hỏi tất cả chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này, đã bao giờ suy nghĩ về linh hồn mình là gì, liên hệ đến thân xác, cuộc đời của mình thế nào chưa, phương chi lời Chúa! Linh hồn của mình mà không biết thì thử hỏi chúng ta nên biết gì? Suy nghĩ để biết linh hồn mình thế nào, và khi đã thực sự cảm nhận được thì được gọi là nhận thức, là thức ngộ. Tất nhiên, nhận thức không thể học được, không thể cầu mà được, chỉ có thể ngộ, Muốn ngộ phải suy nghĩ.
Xin Thánh Thần soi sáng và dẫn dắt mọi người chúng ta suy nghĩ để nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mỗi người. Amen.
Chủ Nhật 23A (Mt. 18:15-20)
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta, “Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ. Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy.” Một điều chúng ta nên nhớ đó là phúc âm bao gồm những câu khôn ngoan và dụ ngôn được kết nối tạo thành câu truyện mới thoạt nghe hay đọc được coi như viết về cuộc đời của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, khi để tâm suy nghĩ từng câu, chúng ta sẽ nhận thấy phúc âm khuyến khích, nếu không muốn nói là thách thức người đọc hay nghe suy nghĩ, suy tư, để thăng tiến trên hành trình đức tin, hành trình suy nghĩ để nhận ra thực thể và sự liên hệ, vị thế của mình đối với Thiên Chúa. Nói cho đúng, nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi cuộc đời mình.
Bài phúc âm nói đến sự cầm buộc, và tháo gỡ của một người nơi dương thế liên hệ với sự cầm buộc và tháo gỡ phần linh hồn của người ấy sau khi chết; “Những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc.” Chúng ta cần đặt vấn đề để xem cầm buộc là thế nào và ai là người có quyền cầm buộc với ai là người bị cầm buộc. Có một điều chúng ta cần để ý; đó là phúc âm nói thẳng với mỗi người dẫu thường thì dùng sự việc nhân sinh để ám định điều muốn nói. Thế nên, đối tượng nhận định hoặc phân tích phải là chính mình.
Thực trạng ai cũng kinh nghiệm; khi chúng ta thực sự dự định thực hiện điều gì sau khi đã tính toán lợi hại, việc gì, tất nhiên chúng ta sẽ sử dụng hết khả năng, phương tiện để hoàn thành công việc đó. Thường thì chúng ta đều cho rằng những ước muốn, dự định, tính toán phát xuất từ bộ óc, được gọi là trí não của chúng ta. Tuy nhiên, bộ óc thuộc về vật chất, không thể nào phát sinh tư tưởng, ước muốn được; vì tư tưởng, ước muốn, ý định, tham vọng thuộc về tâm linh, những sự hiện hữu vô hình. Dẫu các nhà khoa học, cũng như mọi người đều nghĩ hoặc được gọi là kinh nghiệm, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ, nhưng thử hỏi, khi linh hồn lìa khỏi xác thì miệng còn nói được không, tai thế nào, mắt ra sao; tất nhiên bộ óc cũng không thể hoạt động tự nó.
Kinh nghiệm nhân sinh minh chứng, khi chúng ta thực sự ham muốn điều gì, chính điều ham muốn đó lôi cuốn, hấp dẫn, chúng ta không thoát ra được. Chúng ta bị điều ham muốn đó cầm buộc. Ham muốn, ước muốn, ước mơ, tham vọng đều phát xuất từ linh hồn và thân xác cũng như cuộc đời một người chỉ là phương tiện và cơ hội cho linh hồn hoạt động để đạt thành hay học bài học nào đó cần phải học. Nơi cuộc đời này, bài học nào cũng có giá phải trả. Nhìn lại cuộc đời mình, có thể niềm mơ ước ngày xưa coi chừng đang trở thành gánh nặng trên vai muốn vứt bỏ cũng không được; hoặc giấc mơ thần thánh hôm nao, giờ lại biến thành nỗi đắng cay sống để dạ, chết mang theo.
Bởi đó, chúng ta dễ dàng nhận ra thực thể sự việc, nói cách khác, thực trạng tâm linh đó là khi thân xác qua đi, linh hồn vẫn còn tiếp tục theo đuổi ước muốn, tham vọng nào đó. Chúng ta có thể mường tưởng được linh hồn mình đi về đâu sau khi chết bằng cách đối diện với ước muốn, niềm mơ, tham vọng của mình là gì lúc này. Muốn lên thiên đàng thì cần phải biết thiên đàng là gì. Chẳng những thế, lại cũng cần phải biết linh hồn mình là gì, liên hệ với xác thân và cuộc sống ra sao. Chúng ta cần suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét về chính mình. Tại sao mình được sinh ra, mục đích cuộc đời của mình là gì? Linh hồn là thứ chi, liên hệ với Thiên Chúa thế nào. Muốn biết liên hệ của mình với Thiên Chúa ra sao, chúng ta lại cần suy nghĩ để nhận biết Thiên Chúa là gì.
Điều rõ ràng mọi người đang thực chứng, và đó là không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình được thì cũng không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình. Tất cả những kinh sách, tài liệu, những điều rao giảng, tuyên xưng đều chỉ là phương tiện giúp chúng ta suy nghĩ. Và sự suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét phải bắt đầu từ chính mình. Thực ra, điểm khởi đầu tự chính mình và điểm cuối cùng cũng lại là chính mình; nếu không biết chính mình thế nào, mơ ước, ham muốn gì, linh hồn mình ra sao thì thử hỏi phỏng chúng ta còn có thể biết được chi. Chúng ta đang bị sự ngu muội cầm buộc nếu không suy nghĩ, nếu không đặt vấn đề.
Lời Chúa hôm nay khuyến khích, thách đố chúng ta gỡ bỏ sự ngu muội do đã bao lâu nay không suy nghĩ, không suy tư về hành trình tâm linh của mình, không dám đặt vấn đề tại sao mình được sinh ra; linh hồn mình là gì; và chết rồi sẽ về đâu, cùng với những vấn đề liên hệ với cuộc đời, với Thiên Chúa. Xin Thần Khí của đức Kitô soi sáng và dẫn dắt chúng ta nơi hành trình đức tin. Amen.
Chủ Nhật 24A (Mt. 18:21-35)
Quý ông bà, anh chị em trong đức Kitô,
Hôm nay lời Chúa đến với chúng ta, “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế; nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình.” Nơi dụ ngôn, phúc âm dùng các môn đồ của Chúa Giêsu thay thế cho mỗi người chúng ta. Thế nên, khi đọc hoặc nghe công bố phúc âm, chúng ta theo thói quen, cứ mường tưởng đang đọc hoặc nghe một câu truyện về ai đó được nhắc đến chẳng khác chi chúng ta đọc truyện hay sách vở nào đó. Thưa không, lời Chúa đang nói trực tiếp với chính mình. Không thế, sao chúng ta có thể nhận ra sự khôn ngoan phúc âm gợi ý, sao chúng ta có thể suy nghĩ, nghiệm chứng những câu khôn ngoan nghịch thường với luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục, sao chúng ta có thể áp dụng câu, “Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37); sao có thể suy nghĩ, nghiệm xét câu, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi” (Mt. 18:9)?
Thế nên, lời Chúa dạy, “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” Nơi cuộc đời này, cổ nhân để lại câu, “Không có lửa, sao có khói.” Nếu không có chi làm phiền lòng mình, nếu không có gì thiệt hại, đụng chạm tới tự ái, danh dự khiến mình bực tức đâu cần gì phải nói đến tha thứ; ấy là chưa nói tới sự ghen tương, bực bội vô lối; thấy ai đó giầu sang, phách lối, oai phong hơn mình, tự nhiên lòng sinh ác cảm, chẳng ưa. Hơn nữa, cũng đâu phải phi lý cũng đã có câu, “Kẻ thù tệ hại nhất của tôi lại là chính tôi”?
Lời Chúa, lời phúc âm nói trực tiếp với mỗi người; bởi vậy, chúng ta trước hết nên thử đặt vấn đề tha thứ cho chính mình. Thật ra, khi hồi tâm nhìn lại con người của mình, chúng ta coi chừng ngỡ ngàng vì nhiều điều lòng mình ấp ủ chẳng ưa ngay nơi bản thân, nhưng đã hình như ít được để tâm đặt vấn đề, ít khi dám đối diện với chính mình hầu giải quyết, có chăng cứ tưởng rằng lờ đi, cho nó qua đi một cách tự nhiên là mọi sự sẽ trở thành bình thường. Thấy người khác vui tươi, phấn khởi trong lúc lòng mình đang băn khoăn, lo lắng sự việc khó giải quyết nào đó; lòng mình hoặc nảy sinh khó chịu, hay mặc cảm bị đời phù dập.
Có câu truyện kể, mỗi khi gặp đứa trẻ quen thân hay con cái mình, bạn cho nó đôi ba chiếc kẹo, hỏi thăm đôi câu; đứa trẻ sẽ nghĩ mình thương nó. Đến khi vô tình trong túi hết kẹo, không có chỉ trong túi để cho nó, nó sẽ nghĩ mình không thương nó nữa. Bình thường nơi cuộc sống, khi chúng ta ăn nên làm ra, có cuộc sống thoải mái, thảnh thơi, chúng ta cho rằng Chúa thương, nhưng chẳng may có chuyện gì bất thường khiến làm ăn thua lỗ, cuộc sống gặp khó khăn, chúng ta vội đổ cho Chúa phạt. Quả là bất công, nói rằng Chúa phạt, nhưng phỏng chúng ta có đặt lại vấn đề, xem xét, nhận định thực tại, hoặc nơi mình, hay nơi diễn biến thay đổi của cuộc đời để có phản ứng giải quyết vấn đề hay không.
Xét như thế, chính những điều không nên, những tham vọng phi lý nơi mình khiến tâm tư mình bực bội mà mình không để ý. Những lầm lỗi, ghen tương, thất bại, mặc cảm nơi mình mới chính là kẻ thù tệ hại nơi mình cần được giũ bỏ, cần được tha thứ, tha thứ cho chính mình. Thử hồi tâm suy nghĩ, nếu ai đó vô tình hay hữu ý, nói câu nào đó đụng chạm hay làm phiền khiến mình bực bội. Sự bực bội phát sinh từ lòng mình nếu mình cố giữ sự bực bội ấy trong lòng, nơi tâm trí, mình đã cho phép, đã chấp nhận sự bực bội ấy cầm giữ tâm tư. Mình đã vì không suy nghĩ, nhận xét để sự bực bội đó ảnh hưởng, làm phiền chính mình. Pierrer Veber để lại câu nói, “Phải có kẻ thù! Ban thân sẽ chán nói đến anh. Nhưng các người thù của anh thì sẽ không bao giờ quên nói đến anh” (CCCTN; tr. 395). Chính kẻ thù nơi lòng mình phá nát cuộc đời mình; còn người khác, dù bị mình coi là kẻ thù đâu có giờ mà nghĩ đến mình.
Bởi vậy, tha thứ cho chính mình là điều cần thiết nhất để có tâm hồn thảnh thơi, vui tươi an hưởng cuộc sống, để có cơ hội suy nghĩ hầu thăng tiến tâm tư, thăng tiến tâm linh. Tha thứ cho chính mình là giũ bỏ mọi sự làm phiền lòng mình, không cho chúng cơ hội ảnh hường tâm tư. Không gì độc hại và khốn nạn hơn là chấp nhận những điều chẳng ra gì khiến tâm tư thống khổ. Hãy để chúng đến rồi đi như làn gió thoảng. Cổ nhân có câu, “Thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên.” Đối với cuộc sống, người Việt chúng ta có câu, “Đường ta, ta cứ đi, chó sủa cứ việc sủa.” Không ai quỳ gối, chống tay sủa lại chó và cũng không ai để tiếng chó sủa ảnh hưởng tâm tư. Chúng ta không chấp với mấy con chó, thì hãy coi những điều làm phiền hà tâm tư như tiếng chó sủa; không cho phép chúng ảnh hưởng cuộc đời mình. Cuộc đời mình còn lắm chuyện phải lo, nhiều chuyện phải làm. Tha thứ cho kẻ thù mình chính là giải thoát tâm tư, tâm trí mình khỏi bị phiền hà về bất cứ gì ngăn cản và ảnh hưởng niềm vui cuộc sống.
Xin Thánh Thần ThiênChúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta thăng tiến nơi hành trình tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Amen.
Chủ Nhật 25A (Mt. 20:1-16a)
Chúng ta vừa nghe bài phúc âm được công bố. Đó là dụ ngôn một ông chủ vườn nho thuê người làm công. Có những người được thuê lúc sáng sớm, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ 9, và giờ thứ 10, và khi trả tiền thì mỗi người thợ được trả bằng nhau là 1 đồng thời bấy giờ. Những người được thuê làm việc từ sáng sớm nói lên đó là điều bất công nhưng ông chủ trả lời họ đã đồng ý tiền công khi được thuê.
Xét về thực tế nhân sinh, chúng ta có câu, “Tiền trao cháo múc,” nhưng trong những công việc thuê mướn người làm việc, tiền công chỉ được trả sau khi làm việc hoặc sau khi hoàn thành công việc. Nơi những hãng xưởng ngày nay, thường có những trường hợp người làm công phải trãi qua một đôi tháng, có khi ba tháng để thử năng lực làm việc rồi mới được định giá công sá và nếu ưng mới được nhận làm chính thức.
Tuy nhiên, đây là dụ ngôn về Nước Trời, Nước Thiên Chúa; thế nên lời Chúa hôm nay ám chỉ sự “Tìm kiếm Nước Thiên Chúa.” Dĩ nhiên, sự tìm kiếm này chính là sự suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét về Nước Thiên Chúa. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mọi người, ở ngay chính mỗi người chúng ta. Thế nên vấn đề lại là chúng ta có suy nghĩ, có suy tư, hay nghiệm xét để nhận biết sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta hay không.
Hồi tâm kiểm chứng nhận thức của mỗi người. Qua kinh nghiệm sống, biết bao sự việc, lời nói, sự đối xử, hay ý nghĩ, ước mơ nơi mỗi người, chúng ta thấy nhiều chuyện đã qua, có khi một đôi năm hay cả chục năm trước xảy ra, mà mãi cho tới nay chúng ta mới có thể hiểu được, nghiệm được sự việc đó xảy đến với mình, hoặc mình được chứng kiến mang ý nghĩa gì, hay ảnh hưởng thế nào tới cuộc đời mình. Thử nhớ lại câu, “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt cho bùi.” Mới nghe thì nghịch thường, nhưng hồi tâm nhớ lại, chúng ta phải cúi đầu ghi ơn cha mẹ đã phải khổ tâm chấp nhận, và dày công dạy dỗ chúng ta từ ngày còn tấm bé, phải uyển chuyển, lo lắng giáo dục, uốn nắn những tên ngang bướng như chúng ta thời còn nhỏ để trở nên những người tốt lành mang lại no ấm cho gia đình và thịnh vượng cho làng xã ngày nay.
Tôi muốn nhắc lại. Sự tìm kiếm Nước Trời chỉ xảy ra nơi tâm trí mỗi người nên cần được suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét. Đừng nói với tôi rằng chúng con ít học nên dốt nát, không biết suy tư, suy nghĩ thế nào. Quý vị có được cuộc sống như ngày nay, quý vị đã sử dụng suy nghĩ, tính toán nhiều cách, lắm chước để vượt qua những khó khăn, trắc trở trong cuộc đời. Đâu ai có thể dạy quý phải biết làm sao, giải quyết thế nào nơi những trường hợp ấy. Xin thưa, chính quý vị đã suy nghĩ và thực hiện những việc cần phải làm để giải quyết. Có câu nói, “Chúng ta tuyệt vời hơn bất cứ những gì chúng ta có thể nghĩ về chính mình.” Vấn đề chỉ là chúng ta có để tâm suy nghĩ, đặt vấn đề hay không.
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nên Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu nơi mọi loài, mọi sự. Một ý nghĩ, một tư tưởng, một ý kiến, dẫu không thể nhận biết bằng mắt nhưng chúng ta có thể nhận biết qua truyền thông bằng lời nói, chia sẻ; tất nhiên, ý nghĩ, tư tưởng, ý kiến có sự hiện hữu, mang sự hiện hữu nên chúng ta mới có thể biết được. Thiên Chúa nơi mình, chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mình, muốn nhận biết cần phải suy nghĩ. Chúng ta rất tuyệt vời trong suy nghĩ nhưng thường suy nghĩ về những chuyện làm ăn, nhân sinh, thế tục mà rất ít khi hoặc chưa bao giờ tự hỏi, rất ít khi suy nghĩ về Thiên Chúa là thế nào nơi mình, liên hệ với mình ra sao.
Có câu nói, “Khi con vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người có đủ cơm ăn, áo mặc, người ta suy nghĩ.” Chúng ta là con người; chúng ta biết suy nghĩ tự bản năng. Cho dù con rùa sống đến mấy trăm năm, con voi, con hổ vài chục năm, con chó, con mèo, không thể nào so sánh với một em bé sáu hay bẩy tuổi. Nơi dân gian người Việt xưa có câu, “Ông bẩy mươi học ông bẩy mươi mốt,” nhưng thực trạng hiện nay thế nào? Xin thưa, đem một chiếc điện thoại Iphone cho một em bé mười tuổi, cháu quệt qua, quệt lại và chẳng mấy chốc sử dụng được ngay. Cũng đưa chiếc Iphone ấy cho cụ già bẩy mươi mốt tuổi xem sao, chắc chắc cụ gì xin chịu. Ngày nay, coi chừng ông bảy mươi mốt nên học từ em bé bẩy tuổi.
Suy nghĩ để tìm kiếm Nước Trời, Nước Thiên Chúa hầu nhận thức được sự hiện diện và hoạt động của Chúa thế nào nơi cuộc đời mình được gọi là thức ngộ, hay gọi tắt là ngộ. Sự nhận thức này không lệ thuộc vào học thức, không lệ thuộc vào bằng cấp cao hay thấp, không lệ thuộc vị thế quý trọng hay thấp hèn, không lệ thuộc tri thức hay tiền tài, gia sản, lề luật, giả thuyết, chủ thuyết, mà chỉ lệ thuộc vào sự suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét. Phúc âm chỉ rõ tiến trình suy nghĩ, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật, kẻ không có thì dù có ít cũng bị cất đi.” Chúng ta làm công việc gì, càng tiếp tục làm thì càng thuần thục và càng thăng tiến; nhưng nếu ngưng không thực hiện nữa thì chẳng bao lâu sau chúng ta không những bị lụt nghề mà còn mất khả năng thực hiện. Càng suy nghĩ, càng tăng thêm nhận thức. Sách vở, kinh sách, lời bàn, lời giảng dạy đều chỉ là phương tiện.
Thử xét đôi câu, “Khôn ngoan ở chốn nhà bay; dù che, ngựa cỡi đến đây cũng hèn,” hoặc, “Ông mất cái giò, bà thò chai rượu.” Ai trong chúng ta cũng nghiệm được, cũng nhận thức được hai câu nói này ám chỉ về những điều gì. Những ai chưa hiểu được, suy nghĩ một lúc đã có thể hiểu được, nghiệm được. Sự nhận thức này được gọi là ngộ. Hai câu này, nếu tôi không lầm thì đã được nhắc đến cả ngàn năm trước. Nếu xét về sự thức ngộ về hai câu này của người nào đó một ngàn năm trước và sự thức ngộ của chúng ta bây giờ thì cũng ngang bằng nhau. Sự thức ngộ không mang giá trị hơn kém.
Nhận ra được giá trị sự thức ngộ từ tục ngữ, ca dao của ngàn năm trước và sự nhận thức bây giờ, lúc này, chúng ta nhận ra lời Chúa hôm nay nói về sự thức ngộ, sự nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi một người ngàn năm trước thì cũng như sự thức ngộ của người ngày nay. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có suy nghĩ, suy tư hay không mà thôi. Người được thuê làm việc từ sáng sớm, và người được thuê làm việc vào giờ thứ 10 cũng được trả công một đồng. Nhận biết, thức ngộ sự hiện diện vào hoạt động của Chúa nơi mình ngày nay cũng tương đương với sự thức ngộ của các vị thánh ngàn năm về trước. Xin Thánh Thần của đức Kitô soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ. Amen.